Việt Nam: Những tiền đề khủng
hoảng
Hành Trình Phá Án Mới Nhất 2013 - Truy Bắt Băng
Tội Phạm Long Chột
Con tin suy
thoái của các nhóm lợi ích:
Chưa bao giờ
nền kinh tế Việt Nam lại rơi vào tình trạng bấp bênh nguy hiểm như giờ đây, với
quá nhiều hệ lụy từ hệ thống ngân hàng và các thị trường đầu cơ như bất động
sản, vàng, chứng khoán, cùng khối nợ xấu khổng lồ có thể lên đến trên 500.000
tỷ đồng và nợ công quốc gia có thể lên đến 95 - 106% GDP nếu tính theo tiêu
chuẩn của Liên hiệp quốc, trong đó có đến vài chục tập đoàn kinh tế quốc doanh
có rất ít khả năng thu hồi vốn từ đầu tư trái ngành những năm trước và cũng có
rất ít khả năng trả nợ cho Nhà nước từ tình trạng chúa chổm hiện nay.
Đầu năm 2013,
lần đầu tiên Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thừa nhận có đến 100.000 doanh nghiệp
phải giải thể và phá sản. Con số này chiếm khoảng 18-20% tổng số doanh nghiệp
đăng ký hoạt động tại Việt Nam. Kể từ năm 1990 đến nay, đây là con số ngừng
hoạt động lớn nhất, cho thấy tình trạng nền kinh tế đã ở vào thế bĩ cực. Hậu
quả này xuất phát từ chính sách siết tín dụng cực đoan và treo cao mặt bằng lãi
suất cho vay của Ngân hàng nhà nước và nhóm các ngân hàng thương mại cổ phần
lớn, dẫn đến hệ lụy có đến ít nhất 60% doanh nghiệp không đủ vốn giá rẻ để hoạt
động. Thiếu vốn lại dẫn đến đình trệ sản xuất và kéo theo thất nghiệp tràn lan.
Cho đến gần
đây, bất chấp những đánh giá tô hồng của các cơ quan quản lý nhà nước về “kinh
tế đã thoát đáy” hay “kinh tế có triển vọng phục hồi”, số doanh nghiệp ngừng
hoạt động vẫn chưa có dấu hiệu suy giảm. Động lực tiếp tục treo khá cao mặt
bằng lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng đang khiến cho không chỉ doanh
nghiệp mà nhiều nhà băng chìm trong nguy ngập ứ vốn.
Trong khi đó,
nợ và nợ xấu vẫn chưa có tín hiệu nào khả quan hơn độ trũng chưa đến đáy của
chúng. Chỉ vào tháng 7/2013, một báo cáo của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia
mới lần đầu tiên thừa nhận tỷ lệ nợ xấu bất động sản tại các ngân hàng thương
mại cổ phần đã lên tới 33-35%. Con số này rất trái ngược so với báo cáo của
Ngân hàng nhà nước vào tháng 5/2013 và của Bộ Xây dựng vào tháng 7/2013, trong
đó cho biết tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực bất động sản chỉ còn 5,68% và 6,5%.
Tức con số
của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cao gần gấp 6 lần con số báo cáo của các
cơ quan khác, tạo nên độ phân hóa dữ dội ngay trong hệ thống nội bộ về nhận
thức tư tưởng và quan trọng hơn là thái độ “mở miệng”.
Hậu quả của
gần ba năm suy thoái qua là gần như toàn bộ nền kinh tế Việt Nam đã rơi vào
tình cảnh kiệt quệ, với vòng quay vốn chỉ còn 0,8 lần so với hơn 2 lần vào
những năm 2007-2008. Sức mua của xã hội giảm sút đột ngột và đẩy nhanh nguồn
cầu vào tình thế bán phá giá.
Nếu không
giải quyết được nợ và nợ xấu, trong đó chủ yếu là nợ xấu bất động sản, một phản
ứng sụp đổ dây chuyền giữa các doanh nghiệp bất động sản với nhau và doanh
nghiệp bất động sản với các ngân hàng chủ nợ, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ
không trường vốn, là hoàn toàn có thể xảy ra. Khi đó, những vụ vỡ nợ của ngành
bất động sản rất có thể sẽ kéo theo sự sụp đổ của ngân hàng và của cả nền kinh
tế trong thời gian tới.
Hiểm họa từ
cuộc “hạ cánh cứng” của Trung Quốc:
Những điều
kiện tốt nhất cho sự phục hồi kinh tế đang dần trôi qua. Đó là sự phục hồi chậm
chạp nhưng khá ổn của nền kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu từ cuối năm 2011 cho đến nay,
trong đó có cả thị trường chứng khoán và đặc biệt là thị trường nhà ở của Mỹ.
Sự phục hồi này còn được các tổ chức IMF, WB và một số tổ chức xếp hạng tín
nhiệm lớn trên thế giới như Fitch Ratings, S&P, Moody’s dự báo có thể kéo
dài đến hết năm 2014.
Tuy nhiên,
mọi hình ảnh phục hồi sẽ không thể tồn tại vĩnh viễn, nhất là trong bối cảnh mà
một Nobel kinh tế như Paul Krugman hay những tác giả khác như “chuyên gia tận
thế” Nouriel Roubini và doanh nhân có tiếng như Marc Faber vẫn liên tục cảnh
báo về những mối họa không tránh khỏi trong những năm tới. Nguy cơ từ các nền
kinh tế Hy Lạp, Síp và kể cả Tây Ban Nha, Ý, Bồ Đào nha vẫn còn gần như nguyên
vẹn.
Nhưng một
trong những mối họa không còn ẩn giấu là nền kinh tế Trung Quốc.
Nợ xấu bất
động sản và những dấu hiệu đầu tiên của cơn chao đảo tài chính khiến Trung Quốc
có thể đang tiến vào lộ trình của một cuộc hạ cánh không thể mềm, hay nói cách
khác là có thể phát sinh một đợt hạ cánh cứng. Hình ảnh “nước giàu dân nghèo”
hay “Voi cưỡi xe đạp” của nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới này bắt đầu lộ
diện rõ nét. Bất chấp lượng dự trữ khổng lồ về ngoại tệ lên đến 3.400 tỷ USD và
được xem là lớn nhất thế giới, Trung Quốc sẽ phải đối mặt với bong bóng nhà đất
phình quá lớn và hàng ngàn tỷ USD nợ của chính quyền địa phương không có khả
năng thanh toán. Tất cả những hậu quả đó đều có thể ảnh hưởng khá nặng nề đến
khối Cộng đồng châu Âu và kể cả Mỹ - những địa chỉ liên đới với các ngân hàng
và quan hệ ngoại thương của Trung Quốc.
Nếu các nền
kinh tế lớn nhất trên thế giới như Mỹ, Đức và đặc biệt Trung Quốc không thể cầm
cự được, kinh tế Việt Nam chắc chắn sẽ phải chịu hệ lụy trực tiếp – một hệ lụy
xảy ra song ánh mà không cần chờ đợi một độ trễ nào như đối với cơn khủng hoảng
kinh tế thế giới vào năm 2008. Một trong những ảnh hưởng nặng nề nhất đối với
kinh tế Việt Nam có lẽ thông qua con đường buôn bán tiểu ngạch truyền thống với
Trung Quốc.
Một khả năng
đang đến gần là nền kinh tế Trung Quốc không thể cầm cự đến hết năm 2015, thậm
chí sẽ suy thoái sớm hơn. Nếu khả năng này xảy ra, cộng hưởng với những khó
khăn của kinh tế Mỹ, Tây Âu và đặc biệt là mầm mống khủng hoảng tại khu vực Nam
Âu như Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, nền kinh tế Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng
hầu như trực tiếp.
Vốn đang nằm
trong chu kỳ suy thoái nghiêm trọng kéo dài cùng nội lực gần như suy kiệt, nền
kinh tế Việt Nam sẽ khó có khả năng chống đỡ được các cuộc tấn công suy thoái
đến từ bên ngoài. Một cuộc suy thoái kép, hoặc lớn hơn là khủng hoảng kinh tế,
sẽ đến với Việt Nam, phá tan những cầm cự cuối cùng và đẩy xã hội vào tâm thế
hỗn loạn.
Lộ diện
những mầm mống khủng hoảng xã hội:
Trong bối
cảnh suy thoái trầm kha về kinh tế, nạn tham nhũng, vô cảm quan chức và phân
hóa xã hội lại đóng vai trò rất quan yếu trong việc phá nát những rường cột
cuối cùng về an sinh xã hội.
Gần như trái
ngược với sự thừa nhận thiếu dũng cảm của Đảng và Chính phủ từ “một bộ phận
nhỏ” đến “một bộ phận không nhỏ”, tham nhũng đã trở thành một quốc nạn từ chính
quyền cấp trung ương đến toàn bộ các chính quyền địa phương, tác động mạnh mẽ
nhất đến tình trạng từ suy giảm đến suy kiệt niềm tin vào chế độ của công dân.
Cho đến nay và sau quá nhiều lần thất vọng với cơ chế phòng chống tham nhũng của
Đảng, người dân đã hầu như không còn hy vọng nào cho một tương lai được nhận ra
vẻ sạch sẽ trên khuôn mặt chính thể.
Trong gần ba
năm suy thoái kinh tế qua, chỉ có nhóm lợi ích ngân hàng, nhóm lợi ích vàng và
những nhóm lợi ích có tên “Dân sinh” như điện và xăng dầu là còn trụ được. Với
nhiều chính sách cố tình làm lợi cho các nhóm lợi ích này, Ngân hàng nhà nước
Việt Nam đã biến các doanh nghiệp và người dân trở thành một thứ con tin không
có tương lai.
Hệ lụy kinh
tế lại dẫn đến hệ lụy xã hội. Trong khi Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội công
bố tỷ lệ thất nghiệp vào cuối năm 2012 chỉ là 1,99%, tỷ lệ thất nghiệp thực tế
ở Việt Nam đang có thể vượt trên 20%, thậm chí sánh ngang với tỷ lệ thất nghiệp
26% ở Tây Ban Nha hoặc gần 30% ở Hy Lạp.
Trong thực
tế, chỉ cần nhìn vào con số 100.000 doanh nghiệp phải giải thể và phá sản như
một công bố của Ủy ban thường vụ Quốc hội vào đầu năm 2013, đã có thể thấy rằng
con số này chiếm đến 18-20% tổng doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam.
Như vậy tỷ lệ thất nghiệp cũng có thể tương đương với 18-20%, tức gấp 10 lần
con số báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
Vốn đã quá
thờ ơ trước thực trạng xuống dốc của dân sinh trong những năm vừa qua, nhiều bộ
ngành ở Việt Nam còn trở nên bàng quan hơn nữa trong không khí thực dụng đang
phổ cập khắp nơi, từ thủ phủ đến từng làng xã. Người ta có thể nhìn thấy tình
trạng tham nhũng quá phổ biến ở nhiều địa phương và các thành phố trung tâm, và
tình trạng lộng quyền và lộng hành của không ít nhân viên công an…
Thất nghiệp
và hoàn cảnh quá đỗi khó khăn lại càng làm cho người dân rơi vào tâm thế cùng
quẫn. Sau một thời gian buộc phải im lặng, báo chí đã dồn dập đưa tin về những
cái chết tự vẫn của người nghèo.
Chuyện chết
chóc đã trở thành cơm bữa ở Việt Nam. Cùng với thái độ vô cảm của nhiều chính
quyền địa phương là nạn bạo hành của công an ở nhiều tỉnh. Không ít cái chết
trong trụ sở công an đã xảy ra, nhưng chưa một lần những người mặc sắc phục
thừa nhận hành vi vi luật nghiêm trọng của họ.
Trong khi đó,
làn sóng trưng thu đất đai và cưỡng chế dân oan khiếu kiện vẫn liên tục diễn ra
ở nhiều địa phương với tính chất côn đồ hóa về sau này.
Vào năm 2012
và 2013, những dấu hiệu khủng hoảng kinh tế đã kéo theo những hiện tượng hỗn
loạn xã hội. Dư luận đã chứng kiến về hành vi “chống người thi hành công vụ”
của gia đình Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng vào đầu năm 2012 như một ngòi
nổ, mô phỏng cho phong trào nông dân chống trưng thu ruộng đất một cách vô lối
từ các nhóm lợi ích, và có một nét gì đó gần tương tự với trường hợp “rào làng”
của làng Ô Khảm ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
Cho đến gần
đây, người ta liên tục chứng kiến việc một số nhóm lợi ích đã sử dụng côn đồ
như một thủ đoạn để giải tỏa đất đai và “giải quyết” nông dân. Ở Ninh Bình hay
Bắc Giang, người ta đang chứng kiến hàng trăm nông dân bất mãn đoàn kết với
nhau để chống nạn côn đồ lộng hành, cùng hiện tượng dựng chiến lũy trong làng
để chống những kẻ mà nông dân coi là “giặc”… Hoặc như hiện tượng “biểu tình
quan tài” ở Hưng Yên…
Tất cả những
hình ảnh đó cho thấy điều gì, nếu không phải là sự bất lực, vô cảm của khá
nhiều chính quyền địa phương mà đã đẩy người dân vào tư thế phản ứng tự phát
không đáng có. Và hiện tượng tự phát như thế lại là tiền đề rất thường cho một
hiện tượng rộng lớn và quy mô hơn hẳn: làn sóng bạo động và có thể cả bạo loạn
có thể xảy ra, đẩy nhanh tình hình vào thế mất kiểm soát…
Buổi giao
thời sắp đến
Hầu như không
thể hoài nghi, xã hội và có lẽ cả nền chính trị Việt Nam đang dợm bước vào một
buổi giao thời mang tính xoay chuyển trong lịch sử đương đại của chế độ, nếu
lấy mốc thời gian từ năm 1975.
Còn nếu tính
từ thời mở cửa đầu thập niên 1990 và sau các cuộc chính biến mà đã thay đổi căn
bản về mối quan hệ xã hội nhà nước – công dân ở Liên Xô và Đông Âu cho đến nay,
chưa bao giờ Việt Nam lại rơi vào một chu kỳ suy sụp kinh tế và kéo theo hàng
loạt mầm mống phản ứng và biến loạn xã hội như hiện thời.
Tất cả những
dấu hiệu như thế, cộng hưởng với bầu không khí cô đặc trì trệ về não trạng
chính trị, nạn tham nhũng thâm căn và di căn, cùng những rạn nứt không thể phủ
nhận trong nội bộ, đang biểu tả tính xu thế cho những biến động và thay đổi lớn
lao về kinh tế, xã hội và có thể cả về tính tư tưởng ý thức hệ trong một tương
lai không quá xa.
Chia sẻ bài
viết:
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment