KHI NGƯỜI GIAN MẮC NẠN!
Date:
Sat, 24 Aug 2013 14:25:13 -0700
From: quetringuyen
Subject: KHI NGƯỜI GIAN MẮC NẠN! ** LÃO MÓC
From: quetringuyen
Subject: KHI NGƯỜI GIAN MẮC NẠN! ** LÃO MÓC
LÃO MÓC
-Người
gian mắc nạn thứ nhất mà bài viết này đề cập là ông tiến sĩ Trần Kiêm Đoàn. Sau
ông tiến sĩ Trần Chung Ngọc thì ông Trần Kiêm Đoàn cũng rất xứng đáng để được gọi
là “tiến sĩ Bác Hồ” vì, cũng như Trần Chung Ngọc, ông này ra mặt bênh vực Việt
Cộng và bọn tay sai VC còn hơn cả chúng nó bênh vực chúng nó.
Năm
2005, khi:
Sư ông áo gấm
về làng
Sư bà, đệ tử
hai hàng bước theo
Sư ông mặc
cả kỳ kèo
Đòi đảng Việt
Cộng làm theo ý mình
Đảng bèn…
đánh đu với tinh
Cho phép tổ
chức linh đình đón đưa
Huyền Quang
hoà thượng làm ngơ
Hoà thượng
Quảng Độ cũng vô tịnh phòng
Sư ông ôm lấy…
chân không
Lọng vàng,
hoa đỏ - sắc, không mịt mờ
Ôi chân tu!
Ôi giả tu
Chúng sinh
bá ngọ thứ đồ sư gian!
thì
ông “tiến sĩ Bác Hồ” Trần Kiêm Đoàn đã viết bài bênh vực thiền sư Nhất Hạnh và
công kích Khu hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Sacramento đã dám phạm thượng nói đến
chuyện:
Ới kinh nuôi
kệ, kệ nuôi trôn
Ới mảnh thiền
y đã lấm bùn
Ới Nhất Hạnh
ăn chay, ngủ mặn
Ới kinh
nuôi kệ, kệ nuôi trôn!
của
ông sư “ngày ăn chay, đêm ngủ mặn” này. Ông “tiến sĩ Bác Hồ” đã lập luận để
bênh vực cho Giáo chủ phái Tiếp Hiện như sau: “Quan hệ tình dục hầu
hết là hành động riêng tư và thường không có chứng cớ! Như vậy,
những vụ vi phạm tình dục dù ở con người phàm tục hay tu hành, thông thường thế
nhân không biết và kết luận được, vì đó là một bí mật tuyệt đối và riêng tư của
hai đương sự, thế nhân chỉ đoán dè chừng mà thôi.”
Đúng
là Vua chưa lên tiếng mà Thái giám đã nóng mặt!
Gần
đây, ông tiến sĩ này chắc là muốn được “nổi nang” nên đã làm chuyện “sát Phật
thành Phật” viết bài lên giọng kẻ cả với ôngLiên Thành, tác giả quyển
sách “Biến Động Miền Trung” khi ông này đến Sacramento ra mắt sách, bị ông này
đề nghị đối chất thì ông “tiến sĩ Bác Hồ” bèn đánh bài tẩu mã. Ông “tiến sĩ Bác
Hồ” chơi kiểu này đúng là chơi chạy!
Sở
dĩ nói ông “tiến sĩ Bác Hồ” này mắc nạn là vì trên các diễn đàn điện tử có một
người cũng ở Huế xưng tên là Nguyễn Phi tố cáo ông Trần Kiêm
Đoàn là “Việt Cộng nhưng bị vắt chanh bỏ vỏ nên chạy mà thôi”.
Không thấy ông “tiến sĩ Bác Hồ” này trả lời, trả vốn gì cả. Trong khi ông Liên
Thành viết sách tố cáo các Hòa thượng Đôn Hậu, Trí Quang là Việt
Cộng thì ông “tiến sĩ Bác Hồ” đưa ra đủ thứ lập luận để bênh vực hai vị này.
Ông “tiến sĩ Bác Hồ” này đúng là kẻ:
“Chân mình
thì lấm lê mê
Lại cầm bó
đuốc mà rê chân người!”
Ông
“tiến sĩ Bác Hồ” này cũng đã từng viết bài bênh vực “tên nhạc sĩ màu da cam” Trịnh
Công Sơn và trong vụ nhà văn Nguyễn Quang (ở trong nước)
bị nhóm Cội Nguồn của ông Song Nhị ở San José quỵt tiền và hăm
dọa đốt sách “Biển Đỏ”, ông tiến sĩ này có viết thư cho nhà văn Nguyễn Quang và
khoe là đã được nhà xuất bản Trẻ và Thuận Hóa ở trong nước xuất bản 4 quyển
sách, được công ty Phương Nam và Sahara in và phát hành, được hưởng 10% tiền
nhuận bút, chứ không như ở Mỹ xuất bản sách không được đồng nào với mục đích
bênh vực việc làm đốn mạt của Song Nhị và nhóm Cội Nguồn. Xem ra ông tiến sĩ
này “bảnh” hơn mấy ông nhà văn đã được VC in sách và phổ biến ở trong nước như Nhật
Tiến, Nguyễn Mộng Giác, Bùi Vĩnh Phúc… nhiều.
Năm
ngoái, qua sách “Bên Thắng Cuộc” có đề cập đến chuyện ông “tiến sĩ Bác Hồ” TKĐ
chỉ huy vụ đổi tiền của VC, điều này càng chứng tỏ lời tố cáo của ông Nguyễn
Phi là chính xác.
Xin
mời độc giả nghe ông “tiến sĩ Bác Hồ” Trần Kiêm Đoàn làm thơ con cóc “Về Nguồn”
“ca tụng” “hai anh già không nên nết”Phạm Duy, Trần Văn Khê như
sau:
“Người về
nguồn
Mang tâm hồn
mình theo
Trái tim là
chiếc đũa thần
Hoàn cảnh
là nắng gió.
Phạm Duy đi
trên phố Bolsa
Gặp một người
Mỹ già
Gật đầu
chào nhau
Như với một
gã Tàu xa lạ.
Phạm Duy đi
trên đường Hà Nội
Chợ Xuân
đào và gió Xuân ca
Người hàng
xóm nửa thế kỷ xưa
Nhận ra
nhau và chào:
-Ông đã về
và đã tới!
Trần Văn
Khê đi trên phố Paris
Gặp một bà
đầm già:
-Chào người
châu Á
Sông Seine
xanh bóng người xa lạ.
Trần Văn
Khê đi giữa phố Sàigòn
Khô nai,
khô cá thiều và chợ Tết rất đông
Gặp ông Bảy
đờn cò
-Chào Thầy!
Nhạc Việt trời Tây thuở nọ
Hai cụ dắt
nhau đi tới phố Huế
Vô tư, tóc
trắng, da mồi
Gặp chị Bộ
đội và bà Bán Xôi
Cũng vô tư,
da mồi, tóc trắng.
Ai hỏi
trong nửa lời câm lặng:
Khi hết tuần
trăng,
Bóng tối lại
về!
Nghe
nói ông “tiến sĩ Bác Hồ” này đã về Việt Nam nhiều lần và trong đại hội Việt kiều
sắp tới cũng có mặt ông “tiến sĩ Bác Hồ” này.
Hy
vọng ông “tiến sĩ Bác Hồ” Trần Kiêm Đoàn sẽ không có ngày “bỏ của chạy lấy người”
như ông (cố) giáo sư Phó Bá Long về dự đại hội Việt kiều năm
1992, làm thơ con cóc:
“Mười tám
năm rồi các bạn ơi
Xa quê lòng
dạ rất bồi hồi…”
Sau
đó ông này thút tha, thút thít xin cố Thủ Tướng VC Võ Văn Kiệt “ban”
cho Việt kiều một cái luật đại xá. May mà Võ Văn Kiệt chưa có ban luật đại xá
thì ông giáo sư tiến sĩ nhưng lại vô liêm sỉ này đã bỏ chạy về Mỹ và chết già tại
đây!
Ai
đó đã vô cùng chí lý khi đưa ra nhận xét: “Bằng cấp không làm nên nhân cách!”
*
Người
gian mắc nạn thứ hai trong bài viết này là ông Nguyễn Văn Tánh (NVT).
Ông này bị tác giả Phúc Lâm viết bài tố cáo “NVT là Việt gian
tay sai Cộng sản gây chia rẽ cộng đồng làm suy yếu tiềm năng phục quốc”.
Cách
đây 2 năm, NVT đã về San José bày mưu tính kế với ông Đào Văn Bình,
cựu Chủ Tịch Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị để thành lập cơ cấu quốc gia tại hải
ngoại (?) nhưng bất thành. Sau đó, NVT len lỏi vào Cộng Đồng Người Việt Quốc
Gia Hoa Kỳ (CĐNVQGHK) và nắm chức Chủ Tịch Hội Đồng Đại Biểu CĐNVQGHK mà ông Nguyễn
Văn Tần là Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành. Sau đó, NVT đã bị CĐNVQGHK ra
thông cáo bất tín nhiệm. Tháng 9 năm 2012, NVT đã kết hợp với “cánh tay nối dài
của VC” là Hoàng Duy Hùng cùng với em của ông này là bà Teresa
Hoàng, Chủ Tịch Cộng Đồng Việt Nam Houston và vùng phụ cận thành lập Cộng Đồng
Người Việt Quốc Gia LIÊN BANG Hoa Kỳ với các ông Đỗ Văn Hội (Chủ Tịch
HĐĐB), Võ Đình Hữu (Chủ Tịch HĐĐH), Phạm Văn Thanh (CTHĐGS)
là những người có liên hệ với đảng Việt Tân. Và ông NVT trong vai trò Cố vấn
bên cạnh các ông Trần Văn Nhựt, bác sĩ Trương Ngọc Tích,
một ông bác sĩ già nhưng rất háo danh.
Điều
cần biết, NVT trước đây là Tổng Vụ Trưởng Tổng vụ Hải ngoại của Chính Phủ Cách
Mạng Việt Nam Tự Do của Nguyễn Hữu Chánh, và sau đó, NVT và HDH đã
viết “Bạch Thư” vạch mặt ông Thủ Tướng “Bịp” Nguyễn Hữu Chánh.
Những
việc làm của Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia LIÊN BANG Hoa Kỳ cũng giống như những
việc làm của đảng Việt Tân như việc Cộng Đồng này đã ra thông cáo kêu gọi ủng hộ
việc biến “Ngày Quốc hận 30-4” thành “Ngày Nam Việt Nam” của ông “Tổng Thống Bể
Dâu” Nguyễn Ngọc Bích!
*
Người
gian mắc nạn thứ 3 trong bài viết này ông ông cựu “Tướng Tình báo Lắc Léo” Nguyễn
Khắc Bình (NKB). Phiếm luận gia Kiêm Ái và Lão Móc đã có nhiều bài viết
về ông cựu Tướng “ném đá không cần giấu tay” này.
Thành
tích lẫy lừng nhất; nhưng cũng rất là ô nhục là ông “Tướng Bình Vôi” này đã
không cần giấu mặt khi đứng ra tổ chức lễ giỗ cố Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu tại trụ sở của Liên Đoàn Cử Tri là nơi mà tên Thomas
Nguyễn Cao Tuấn là Phó Chủ Tịch. Tên này mới đây đã lòi mặt mẹt là một
tên “broken English” khi “đi kiện ăn vạ” các ông Nguyễn Ngọc
Tiên, Nguyễn Hữu Nhân, Phan Quang Nghiệp, David Mạc và đã bị thua kiện! Chuyện
khôi hài là cách đây mấy năm tên này lại ra ứng cử Thị Trưởng thành phố San
Jose. Sau đó, ông cựu Tướng này lại phối hợp với ông Mai Khuyên, Chủ
Tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị/BC “giành” tổ chức lễ Tướng niệm cố TT Ngô
Đình Diệm mà ông Nguyễn Ngọc Tiên và Ban Đại Diện CĐVN/Bắc
Cali đã làm trong nhiều năm qua. Kế đó, “thừa thắng xông lên” ông “cựu Tướng
Tình báo Lắc Léo” bèn mở mặt trận tổng tấn công vào Cộng Đồng Việt Nam /BC bằng
cách chỉ thị cho nhà thơ” lão nhưng không thành” Trường Giang tức
cựu Trung Tá Đặng Văn Triêm thành lập Ủy ban Bầu Cử Ban Đại Diện
CĐ nhiệm kỳ 6. Sau đó, Ủy Ban bầu cử này cũng giống như con tắc kè lại đổi màu
thành Ủy Ban Bầu Cử Cộng Đồng VN/BC nhiệm kỳ 2013-2017.
Cuối
cùng, trong cái gọi là trình diễn “Dòng Nhạc Tuổi Trẻ Yêu Nước” tại tiền đình
quận hạt Santa Clara vào ngày 18-5 năm 2013 nhằm ngày 19 tháng 5 tại VN là ngày
sinh nhật của Hồ Chí Minh có sự hiện diện của nữ ca sĩ Thu
Sương, một đảng viên Việt Tân từ Pháp qua. Ủy Ban Bầu Cử của ông nhà thơ
“lão” những mà chưa “thành” Trường Giang đã đặt thùng bầu cử tại đây. Ông Tướng
Bình Vôi đã đi bầu và trao đuốc cho “hậu duệ” Hồ Vũ.
Ngày
4 tháng 8 năm 2013, Ban Đại Diện Cộng Đồng Người Việt QUỐC GIA Bắc California với
Chủ Tịch Trương Thành Minh, (một cựu SVSQ Võ Bị Đà Lạt, người tổ chức
Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 2012 đã dẹp bỏ bàn thờ Tổ quốc thay vào đó là chiếc
xe tăng chỉa họng súng vào lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ) ra mắt và làm lễ tuyên thệ “dưới
sự chứng giám” của Võ Đình Hữu và Nguyễn Văn Tánh của CĐNVQG LIÊN BANG Hoa Kỳ.
*
Trước
đây nhiều năm, Mặt Trận tức đảng Việt Tân hiện nay có hệ thống Phở Hoà khắp
nơi.
Mấy
năm gần đây, không biết có lien hệ gì mà người ta thấy lại “hệ thống” các Ban Đại
Diện Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia ra đời với tổ chức cao nhất là Cộng Đồng Người
Việt Quốc Gia LIÊN BANG Hoa Kỳ. Tất cả đều thoát thai từ các Ban Đại Diện Cộng
Đồng Việt Nam theo “thủ đoạn tu hú”, tức là nằm vùng trong các Ban Đại Diện Cộng
Đồng để lèo lái, lũng đoạn. Nếu không được thì thành lập Ban Đại Diện Cộng Đồng
khác. Như trường hợp Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia LIÊN BANG Hoa Kỳ và Ban Đại
Diện Cộng Đồng Người Việt QUỐC GIA Bắc California!
Mới
đây, khi Lực Lượng Sĩ Quan Liên Trường tổ chức lễ kỷ niệm 2 năm, ông cựu Tướng
NKB có phân trần với Lão Móc đại khái là:
“Toa”
thấy không, “moa” rút lui rồi. “Moa” đâu có đi dự lễ ra mắt và tuyên thệ của tụi
nó.
LM
cười:
“Chính
việc niên trưởng không đi tham dự lễ ra mắt của “tụi nó” lại càng chứng tỏ là
niên trưởng là người đã lèo lái và thành lập… tụi nó. Nhưng thôi, dù sao thì
cũng là chuyện đã rồi!”.
Sau
đó, lại thấy ông cựu Tướng Bình Vôi lại phân trần với ông Kiêm Ái. Nhưng,
hình như ông Kiêm Ái không đồng ý với cách giả thích của ông cựu “Tướng Tình
Báo Lắc Léo”!
Thiệt đúng
là những người gian mắc nạn!
LÃO MÓC
tieng-dan-we
ekly.blogspot.com
Truyen hay va cam dong
Tôi tên là Đào Duy Kỳ, dòng dõi Đào Duy Từ, là một
trung úy trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp trường Võ Bị Thủ Đức, ra
đơn vị tác chiến khoảng hai năm thì ngày 30-4-1975 xảy đến. Cũng như mọi sĩ
quan Việt Nam cộng hòa, tôi đã bị giải ra Bắc và ngồi tù qua các trại Sơn La,
Yên Bái, Lạng Sơn. . .
Tôi vốn sinh trưởng trên sông nước Cửu Long giang, khí
hậu an lành và trong mát cho nên khi ra Bắc, tôi rất khốn khổ. Tại Lạng Sơn,
Thái Nguyên, mùa hè nóng ghê gớm, đến nỗi ban ngày không dám nằm giường chiếu
hoặc dựa cột, ngồi ghế hay gốc cây. Mùa hè, dân nơi đây phải chui xuống gậm giường
mà nằm. Mùa đông thì rét như cắt thịt, nhất là cơn gió bấc và mưa phùn đã cộng
tác chặt chẽ làm tội chúng tôi, những tù nhân thiếu áo, thiếu cơm. Nhưng rồi
ngày tháng trôi qua, tôi cũng đã quen thuộc với khí hậu Lạng Sơn, Thái
Nguyên.
Những
ngày ra Bắc đầu tiên, chúng tôi rất khổ sở. Chúng tôi bị bọn công an ngu dốt chửi
mắng, đánh dập và hành hạ. Chúng dốt nhưng lại có nhiều tự hào. Tư hào chiến thắng.
Tự hào yêu nước. Tự hào thông minh và tự hào giàu mạnh. Chúng thực thà tin rằng
chúng là người trí tuệ, còn tất cả nhân dân miền Nam là ngu dốt nên đã theo Mỹ
và thất bại. Chúng tự hào là chúng yêu nước nhất còn phe quốc gia là bán nước
cho nên chúng đề cao khẩu hiệu " Yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa",
hàm ý chỉ có người cộng sản là yêu nước. Chúng không biết Hồ Chí Minh, Phạm Văn
Đồng và đàn em sau này của Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã ký tên bán Việt Nam
cho Trung Quốc . Họ khinh người Nam ngu dốt, không có tình yêu quê hương, tổ quốc
cho nên khi có người xuất cảnh, họ mở nhạc cho nghe bài " Quê hương là chùm
khế ngọt" để dạy người xuất ngoại lòng yêu nước. Họ không biết những người
bỏ nước ra đi cũng rất yêu nước, yêu nhà, yêu mẹ già, em dại và yêu tự do nhưng
vì cộng sản tàn ác nên phải bỏ tất cả mà ra đi! Họ coi họ là bậc thầy, còn
chúng tôi là kẻ ngu dốt phải nhờ họ dạy dỗ cho nên người. Danh từ " học tập
cải tạo" ý nghĩa là thế! Dưới mắt cộng sản, nhân dân miền Nam là cầm thú,
chỉ có cộng sản là con người, con người trí tuệ, bách chiến bách thắng! Sự
khinh bỉ cộng với lòng căm thù cho nên một số người Bắc đã chạy sang Hongkong
mà còn làm lễ mừng chiến thắng 30-4 và đánh đập người Nam tại đây!Bọn công an,
bộ đội đa số nhiễm độc cộng sản, học đường lối tàn ác từ Liên Xô, Trung Quốc,lại
muốn tỏ ra hăng hái tích cực để lập công cho nên chúng đày đọa chúng tôi đủ điều.
Hể một tù nhân có lỗi gì là cả lũ công an, bộ đội xúm lại đánh hôi. Đánh hội chợ
coi như là một đặc tính của con người xã hội chủ nghĩa. Nếu không xúm vào mà cứ
đứng trơ mắt nhìn, có lẽ họ sẽ bị phê bình là không có tinh thần đồng đội,
không có ý thức căm thù quân địch. Chúng lại dùng khí hậu khắc nghiệt, và cái
đói và rét để đọa đày chúng tôi. Chúng bắt chúng tôi lao động cực nhọc để trả
thù chúng tôi. Nhất là những ngày đầu tiên ra đất Bắc, chúng tôi thường bị dân
chúng, nhất là đàn bà và trẻ con ném đá, ném đất và chửi bới thô bỉ nặng nề. Có
khi họ đã tập trung đông đảo trên đường chúng tôi đi lao động để ném đá, hô đả
đảo và chửi bới. Có thể là do dân chúng đã bị nhiễm nọc độc cộng sản. Có thể địa
phượng bắt dân đả đảo để trấn áp chúng tôi, mong lập thành tích kia nọ. Có đôi
khi chúng tôi đột nhiên gặp vài đồng bào thì họ ngại ngùng, tránh né. Có lẽ họ
sợ liên lụy, sợ bị công an bắt bỏ tù vì liên lạc với tù nhân!Sống trong chế độ
ác ôn, con người phải đeo mặt nạ, nếu không thì dễ bị quỷ tha, ma bắt.Tất cả đều
là nạn nhân!
Ban
đầu thì chúng tôi chao động, có người sợ hãi, nhưng rồi thì cũng quen đi vì
mình đã ngồi xuống đất đen thì còn gì để mất và để sợ hãi. Chúng tôi cho rằng
cuộc đời chúng tôi đã chấm dứt vì ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam trước đây,
những tù binh hay phản động là ngồi tù rục xương mà thôi. Chúng tôi im lặng để
mặc cho họ ném đá và chửi bới. Nếu ai bị thưong thì chúng tôi săn sóc, băng bó.
Nếu dân chúng quá dữ tợn thì chúng tôi dừng lại, để quản giáo giải quyết rồi mới
tiếp tục đi. Tôi hiểu dân chúng miền Bắc đa số tin theo lời tuyên truyền xuyên
tạc của cộng sản, và tin những lời cộng sản nói. Họ tin vào ông Hồ, họ cất giấu
cán bộ, và góp lương thực ủng hộ cộng sản. Nhiều bà bảo rằng đảng lúc nào cũng
đúng. Công an không bắt oan ai bao giờ. Con cháu bà nếu bị giam giữ thì bà bảo
chúng nó cố gắng hoc tập tốt để sớm trở về. Nhiều ông bố thấy con ngỗ ngáo, bèn
đem con cho bộ đội hay giao con cho công an để họ giáo dục thành người tốt.
Ngay tại miền Nam trước 1975, nhiều người tin Nguyễn Hữu Thọ là người quốc gia,
không phải cộng sản. Ông Hồ là người yêu nước, là bậc đạị nhân, đại nghĩa. Khi
dân Bắc di cư vào Nam, đồng bào Nam kỳ thắc mắc:" Ngoài Bắc đã độc lập tự
do, sao còn bỏ xứ mà đi?" Tất cả đã nhiễm độc quá nặng nên tôi cũng không
oán trách họ. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi nhận thấy có sự biến đổi trong
dân chúng. Mấy năm sau, họ không chửi bới hay ném đá, ném đất vào chúng tôi nữa.
Trái lại , có những đôi mắt lặng nhìn chúng tôi như biểu lộ một niềm thông cảm.
Sau
ngày 30-4-1975, nhiều đồng bào và cán bộ miền Bắc đã vào Nam. Khi vào thì họ ốm
yếu xanh xao, khi trở ra thì béo tốt, áo quần sang trọng, lại mang cả vải vóc,
xe đạp, xe Honda, TV, tủ lạnh, radio, casette là những thứ mà chỉ có cán bộ cao
cấp đi Liên Xô là có thể mua về được. Họ cũng nghe những câu chuyện về Miền Nam
thanh bình thịnh vương, khác với hình ảnh ghê tởm, hãi hùng do cán bộ nhà nước
đã tuyên truyền trước đây như lính ngụy “xé xác, uống máu, moi gan quân thù”. Họ
nhìn kỹ những tù nhân thì thấy những tù nhân này tuy bị đày đọa khổ sở nhưng vẫn
toát ra sự thông minh, hiền lành. Họ nghe nói sĩ quan miền Nam phần lớn có bằng
đại học, it nhất cũng tốt nghiệp trung học phổ thông chứ không phải là hạng cán
bộ ị tờ như ở miền Bắc sau cuộc Cải cách ruộng đất.
Khoảng
1980, tù nhân đã được gia đình thăm nuôi. Lúc này thì dân chúng miền Bắc đã tới
gần dân chúng miền Nam hơn khi họ gặp những bà mẹ, người vợ sĩ quan miền Nam ra
thăm nuôi. Họ thấy miền Nam nhiều tình cảm, đầy tình chồng nghĩa vợ, và có tài
nguyên phong phú mà thăm nuôi chồng con trong bao nhiêu năm. Vì thế, họ thấy miền
Nam có một cái gì đó khác với miền Bắc nghèo khổ, cằn cỗi về vật chất và tinh
thần. Những sĩ quan miền Nam trung hậu đã trở thành đầu đề cho các câu chuyện đầu
môi của dân Bắc.
Một
hôm, ông giáo Thào qua sông Gianh, là một sông rất rộng ở miền Trung. Trên đò
chật ních người. Thuyền chở nặng không đi nổi. Ông giáo Thào thường qua lại
sông Gianh cho nên quen biết ông lái đò. Ông lái đò kêu to lên: “Ông giáo ơi,
xin giúp một tay”. Ông giáo Thào bèn đứng dậy cầm chèo. Mấy bà đi chợ cười to
mà nói:
“Ông giáo giỏi quá!
“Ông giáo giỏi quá!
Lúc
bấy giờ trên đò có mấy người trẻ, to cao, mập mạp nhưng đen đúa đồng loạt đứng
dậy nói với ông giáo:
“Thầy
để chúng em chèo cho!”.
Việc
này làm cho dân Bắc vĩ tuyến đã hiểu biết đôi phần về tinh thần “tôn sư trọng đạo”,
và “ nhân nghĩa lễ trí tín” của sĩ quan miền Nam trong khi miền Bắc đã mất hẳn
từ khi cờ đỏ xuất hiện trên thủ đô Hà Nội!.
Kỷ
luật trại giam rất khắc nghiệt và tàn bạo. Tù nhân không được hái trộm khoai, sắn,
rau trong trại. Tù nhân nam không được liên hệ tình dục với nữ phái, nếu bị bắt
quả tang thì bị biệt giam ở hầm kín. Ai trốn trại thì bị giết chết không tha. .
. Ngoài ra còn nhiều điều lệ lạ lùng khác nữa. Giữa trại tù thực dân và cộng sản
có nhiều khác biệt, nhưng điều khác biệt rõ nhất là cái đói.Trong trại tù cộng
sản, tù nhân luôn luôn đói. Lúc đi lao động, lúc nằm ngủ, chúng tôi đếu bị cái
đói dày vò. Chúng tôi đa số không vi phạm điều thứ nhất là vì lúc nào cộng sản
cũng canh chừng tù nhân rất ngặt. Ban đêm chúng khóa cửa lại, không ai ra ngoài
để đào khoai, nhổ sắn. Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề dạ dày bằng nhiều
cách.Khi đi lao động, chúng tôi có thể hái rau rừng, đào khoai rừng, hoặc bắt
những con vật như rắn, cắc kè, kỳ nhông, hay đào bắt bò cạp, và những côn trùng
trong lòng đất. Đôi khi chúng tôi cũng giăng bẫy bắt chồn cáo, mễn và thỏ rừng.
Chúng tôi vừa lao động vừa nấu ăn rất nhanh và rất gọn cho nên cũng đỡ đói it
nhiều. Điều chẳng may là không phải lúc nào chúng tôi cũng thu hoạch
kết quả vì tù nhân thì quá đông. Không những tù nhân mà bọn bộ đội, công an
cũng đói phải kiếm thêm lương thực. Tuy nhiên, từ khi được gia đình tiếp tế, đời
sống vật chất của chúng tôi tạm đủ. Điều khoản thứ hai thì miễn bàn, vì trại tù
của chúng tôi giam toàn đàn ông, Cán bộ, công an, văn phòng và y tế cũng đều là
nam nhân, không có một bóng nữ. Còn việc trốn trại thì cũng hiếm.
Trong
trại tôi có hai công an trẻ, tên là Hoạt và Liêm rất hiền lành. Hai anh thường
dẫn chúng tôi đi lao động. Các anh rất dễ dãi, không quát nạt, bắt khoan, bắt
nhặt như các công an khác. Hai anh hỏi tôi nhiều điều:
-Nghe
nói sĩ quan các anh đều tốt nghiệp đại học Sài Gòn?
-Đa
số sĩ quan tốt nghiệp đại học, là giáo sư, kỹ sư, bác sĩ. Một số là sinh viên.
Như tôi là sinh viên khoa học phải đi lính vì lệnh động viên.
-Trong
Nam phải chăng con nhà giàu và quyền thế tay sai Mỹ ngụy mới được học đại học
phải không?
-Trong
Nam ai cũng được học. Con cái của Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đình Thảo, Trương Như Tảng.
. . theo cộng sản nhưng chính phủ miền Nam vẫn cho con cái họ học hành, không
ngăn cấm, bắt bớ, giam cầm và trả thù vợ con họ. Mọi người đều được học trung học,
đại học nếu có học lực khá. . .Học trung học xong thì các học sinh có thể xin học
các đại học. Có hai loại đại học tại miền Nam: Một là học tự do nghĩa là vào học
khỏi cần thi tuyển như Y khoa, Duợc khoa, Văn Khoa, Luật khoa. Một loại là phải
thi vào là đại học Sư Phạm, Đại học Hành chánh. . . Nói chung là ai học giỏi đều
có thể học đại học. Có nhiều bà buôn thúng bán mẹt cũng nuôi con học kỹ sư, bác
sĩ.
Sau
đó, cả hai công an xin tôi dạy Anh ngữ, riêng anh Liêm còn xin học nhạc với đại
úy Thêm. Tôi nói:
Chúng
tôi rất sẵn sàng giúp các anh học hành, nhưng không biết cấp trên có chấp thuận,
và việc này có trái nội quy trại hay không.
Hai
anh cho biết việc này đã được cấp trên thông qua. Sau hai năm chúng tôi chuyển
trại thì việc học của hai anh công an trẻ tạm ngưng. Có lẽ các anh sẽ tìm thầy
khác. Trong xã hội cộng sản, ngay cả tại Trung Quốc lục địa, hầu hết cán bộ
không thich học tiếng Nga, mà thích học tiếng Anh để mong có cơ hội làm việc tại
các nước tư bản. Có lẽ hai anh công an kia có dự tính xin chuyển sang ngành ngoại
giao hay xin đi lao động xã hội chủ nghĩa, hay hoạt động gián điệp tại các nước
tư bản. Tại Sài gòn, sau 1975, con em đảng đua nhau học tiếng Anh, còn con em
“ngụy” yếu thế nên bị bắt học tiếng Nga. Sự đời tréo cẳng ngỗng là thế!
Tôi
vốn là một sinh viên trường Đại Học Khoa học Sài gòn, bị động viên mà vào trường
võ bị Thủ Đức. Tôi có người yêu là Bạch Yến, người Huế, sinh viên Dược Khoa,
dòng giõi tôn thất. Hai chúng tôi gặp nhau tại một “bal de famille” nhân sinh
nhật của một người bạn, và từ đó chúng tôi thường gặp nhau rồi yêu nhau. Những
khi rảnh rỗi tôi thường đến nhà nàng. Ba nàng đi làm việc ở bộ Giáo dục, còn mẹ
nàng lo việc buôn bán ở chợ Bến Thành, chị nàng dạy học ở trường tiểu học Bàn Cờ.
Tôi thường đến thăm nàng vào trưa thứ năm vì ngày đó, thời khắc biểu của hai
chúng tôi đều trống. Thỉnh thoảng chúng tôi đi xem ciné với nhau. Khi tôi đến
thăm nảng tại nhà hay khi chúng tôi đi xem ciné, nàng thường mang hai ba lớp quần,
nhất là nàng thường mang quần tây, hay quần jean để bảo vệ an toàn cá nhân. Và
khi tôi đến thăm nàng, nàng cẩn thận đóng các cửa sổ lại kẻo xóm giềng xoi mói
mà sinh ra điều nọ, tiếng kia. Tôi được phép cầm tay nàng, ôm nàng và hôn nàng
mà thôi. Nàng hay khóc. Mỗi khi xúc động thì nàng chạy vào buồng khóc và lau nước
mắt sau đó mới trở ra chuyện trò với tôi. Cuộc tình duyên của tôi đứt đoạn vì
tôi phải đi động viên, rồi ra tiền đồn. Rồi biến cố 30-4-1975, tôi đi tù còn
nàng thì đã theo gia đình ra đi trong ngày 29-4-1975 và chúng tôi xa nhau mà
không một lời từ giã. Và cũng từ đó về sau, tôi không được tin tức gì về nàng
và gia đình nàng.
Khoảng
năm 1983, chúng tôi bị chuyển trại về Vĩnh Phú. Một hôm nhóm tôi gồm 20 người
đi đốn cây trong rừng. Buổi trưa là giờ ăn, tôi bèn đi sâu vào rừng để tìm chuối
rừng hay rau rừng để cải thiện. Bổng nhiên tôi thấy có một cánh tay phụ nữ trắng
trẻo giơ lên vẫy tôi. Tôi nhìn quanh rồi bước lại thì một người con gái hiện ra
ôm lấy tôi và kéo tôi vào một cái hang ở dưới một gốc cây. Nàng ôm tôi và nói bằng
tiếng Việt rất rõ ràng, rành mạch :
“Em
yêu anh! Anh hãy yêu em đi”
Tôi
không kịp phân biệt, như một cái máy, tôi ôm nàng và cởi y phục nàng. Tôi không
suy nghĩ, do dự. Tôi như con hổ đói vồ mồi. Tôi như con trai mới lớn lần đầu
yêu một cô gái trắng trinh. Nàng còn là một con gái và thân thể thơm mùi con
gái. Tôi như đi vào một thế giới mới mẻ đầy cảm xúc tuyệt vời. Xong việc, nàng
ngồi dậy, hôn tôi và bảo tôi:
“Anh
hãy đi nhanh đi. Em tên là Mỹ Lan”.
Tôi
vội chỉnh đốn y phục và nói:
"Cảm
ơn em đã đến, đã cho anh những giây phút tuyệt vời".
Tôi
ôm nàng nhưng không nói tên tôi vì tôi không mong được gặp lại nàng lần thứ hai
trong đời vì việc này rất khó đối với một tù nhân giữa núi rừng âm u! Hơn nữa,
tôi sợ câu chuyện có thể bị vỡ lỡ mà mang tai họa.
Trước
khi ra khỏi hang, tôi nhìn ngược nhìn xuôi lỹ lưỡng. Thấy không có ai theo
dõi,tôi nhanh nhẹn bước ra rồi tiếp tục công việc như chẳng có việc gì xảy ra.
Mấy hôm sau, khi đi đốn cây rừng, tôi cố ý trở lại nơi này, nhưng không hề thấy
bóng dáng nàng hay một vết tích nào của nàng. Tôi cố ý lắng nghe trong trại có
tin tức gì một người con gái nào bị bắt ở gần trại không, nhưng tuyệt nhiên
không nghe ai nói gì cả. Tôi mừng nàng được an toàn. Tôi phục nàng can dảm, dám
xông pha hiểm nguy. Nếu chuyện vỡ lỡ, nàng có thể bị bắt về nhiều tội.
Nàng
có thể mang tội gián điệp và bị tù mãn kiếp, héo úa một đời xuân. Tôi bị tù đã
đành, nhưng nàng tại sao lại mạo hiểm? Ngoài đời thiếu gì trai tơ? Thiếu gì đàn
ông? Tôi không thể hiểu nguyên do nào mà nàng hành động như thế! Nàng là con
gái miền núi, đâu phải ngưởi Tây phương mà có lối " yêu cuồng sống vội"
như vậy? Quả thật tội không hiểu. Dẫu nàng thế nào đi nữa, tôi vẫn yêu nàng,
trân quý nàng. Nàng là một vị tiên đã hiện đến trong đời tôi. Nàng đến một lần
và chỉ ban ân sũng một lần thôi!Tôi nhớ nhung nàng.
Tôi
nhớ làn da trắng ngà của nàng, hương thơm trên thân thể nàng, nhất là nốt ruồi
bên mép trái, đặc biệt là một nốt ruồi son giữa ngực của nàng. Nàng chợt đến rồi
chợt đi như con bướm vàng trong giấc mộng. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến nàng. Trong
giấc mơ, tôi thấy nàng cùng tôi âu yếm.Tôi thắc mắc không hiểu nàng là ai. Nàng
là một cô gái Mường hay cô gái Kinh? Nàng là một sơn nữ hay một cán bộ ở trong
vùng? Nàng lãng mạn muốn tìm của lạ miền Nam hay nàng là một cô gái bụi đời? Dẫu
sao, đối với tôi, nàng là một vưu vật!
Tuần
sau, chúng tôi được lệnh chuyển trại về Sơn La. Việc di chuyển này làm cho lòng
tôi thêm chua xót.Thế là tôi xa cách Vĩnh Phú, không còn cơ hội gặp lại Mỹ Lan.
Năm
1985, tôi được phóng thích.
Trước
đây, tôi nghe nói một số sĩ quan cộng hòa bị giải ra Bắc bằng xe lửa thì bị dân
chúng ngoài Bắc ném đá.NHưng lần này từ Hà nội đến Quảng Bình , chúng tôi không
thấy có trở ngại nào. Khi về Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, chúng tôi bước xuống
tàu cho giản gân cốt, thì đồng bào bu lại hỏi han, nắm tay, sờ đầu, kẻ cười,
người khóc làm cho chúng tôi rất xúc động. Khi chúng tôi lên tàu, đồng bào ném
quà bánh cho chúng tôi rất nhiều. Tình cảm quê hương miền Nam rất nồng thắm với
những đứa con bất hạnh như chúng tôi!
Sang
năm 1986, tôi cùng anh chị em trong gia đình tổ chức vượt biên và may mắn đến
Poulo Bidong, sau đó, năm 1987, tôi được định cư tại Hoa Kỳ. Tại Houston, tôi vừa
đi làm vừa ghi tên vào đại học. Sau mấy năm, tôi đỗ bằng kỹ sư điện toán và làm
việc cho hãng Corel. Sau tôi gặp Mai Linh người Mỹ Tho và chúng tôi kết hôn. Thỉnh
thoảng tôi nhớ đến kỷ niệm Vĩnh Phú, nàng đã đến rồi đi như giấc mộng Liêu
Trai. Tôi nghĩ giờ nàng có lẽ đã lấy chồng, hằng ngày vợ chồng mang gùi vào núi
bẻ măng, đào khoai sọ, nhổ sắn như hình ảnh những người dân thiểu số mà tôi thường
thấy khi đi Đà Lạt chơi. Tôi thấy bóng nàng ẩn hiện trong núi rừng Vĩnh Phú và
lòng tôi cảm thấy luyến tiếc bâng khuâng. Tôi nghĩ cuộc đời nàng sẽ héo úa
trong chốn rừng sâu. Giỏi lắm thì nàng sẽ thành một cán bộ thương nghiệp hay Hợp
tác xã trong bản làng, tay dắt con lớn,vai địu con nhỏ, ngực teo, mặt mũi xanh
xao như bao cô nàng Thổ Mán nơi thượng du miền Bắc.Hay cao hơn nữa là một nữ đảng
viên cấp xã, cấp huyện, mang áo bộ đội bỏ ngoài quần, đội nón cối, đi dép râu,
vai mang săc-cốt, tay đeo đồng hồ,thân gầy ốm, dáng lom khom bước trong cơ
quan. Những hình ảnh của nàng, lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí tôi làm thành một
kho kỷ vật êm đềm.
Cuộc
hôn nhân của chúng tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi sống bên nhau được ba năm thì
Mai Linh bị bệnh ung thư rồi mất. Tôi buồn rầu mấy năm trời. Hình ảnh Mỹ Lan lại
hiện đến trong tôi rất ngọt ngào và thần bí. Hương thơm của thân thể nàng như
còn vương vấn trong mũi tôi và thân thể tôi. Tôi có ý định về Việt Nam du lịch,
thăm lại Vĩnh Phú, mối tình tôi. Nhưng tôi lại không dám vì cuộc đời như nước
chảy mây trôi, thuyền trôi mà bến bờ cũng đổi thay, quá khứ e đã tan vỡ như xác
pháo mùa Xuân, không thể nào tìm lại được. Nếu đào bới quá khứ,chỉ thêm đau
lòng như Lưu Nguyễn khi trở lại quê xưa!
Các
bạn bè khuyên tôi nên đi du lịch một chuyến để quên sầu. Tôi mua vé máy bay đi
du lịch Đức, Pháp, và Ý vì Tây phương đối với tôi có nhiều quyến rủ. Hơn nữa,
tôi có bà chị họ định cư tại Tây Đức. Chị tôi có con du học tại Tây Đức trước
1975, đỗ tiến sĩ, sau 1975 xin ở lại, rồi bảo lãnh gia đình qua đây. Khi tôi đến
Tây Đức, gặp anh chị và các cháu, tôi vui mừng hết sức. Các cháu lái xe đưa tôi
đi la cà trong thành phố . Một hôm các cháu đưa tôi đi ăn phở của người Việt nổi
tiếng là ngon nhất tại đây. Khi bà chủ tiến tới chào hỏi chúng tôi thì tôi ngạc
nhiên hết sức, vì nàng là Mỹ Lan, người tình một khắc mà tôi ghi nhớ ngàn đời.
Bên môi trái của nàng vẫn in rõ một nốt ruồi duyên. Tôi liền đứng dậy, kéo nàng
ra một bên, rồi hỏi nhỏ:
-Phải
chăng em là Mỹ Lan? Chúng ta đã gặp nhau tại trại tù Vĩnh Phú?
Sau
một phút ngỡ ngàng, nàng cũng nhận ra tôi. Tôi hỏi nàng và kể lể mọi sự. Chúng
tôi ôm nhau mà khóc. Nàng giao công việc cho người nhà rồi đưa tôi về nhà nàng.
Còn tôi, tôi quay lại bảo các cháu tôi:
-Bà
chủ nhà hàng là bạn quen của cậu ở Việt Nam. Bà ấy mời cậu lại nhà. Các cháu về
trước, cậu sẽ về sau" . Dặn dò các cháu xong, tôi theo nàng ra xe.
Nhà
nàng ở tại một khu yên tĩnh trong thành phố. Nàng ở một mình với con trai. Các
anh em thì đã có nhà riêng. Người thì đi làm các hãng tư, người thì phụ giúp
nàng trông coi tiệm phở. Khi còn hai chúng tôi, nàng kể lể sự tình. Quê nàng ở
Sơn Tây, tổ tiên đỗ cử nhân, tiến sĩ, làm chức quan nhỏ ở triều Lê, triều Nguyễn.
Năm 1954, cộng sản về Hà Nội, mở cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương
nghiệp, gia đình nàng bị quy là địa chủ. Mẹ nàng và anh em nàng thu vén
tài sản trong tay nải, bỏ trốn lên mạn ngược. Ban đầu, gia đình nàng giả làm
thương gia lên buôn bán để tìm hiểu, sau đó làm nhà cửa gần bản Mường, lán Thổ
tại Vĩnh Phú.
Gia
đình nàng ăn mặc, nói năng và sinh hoạt đều theo phong tục bản Mường, Mán. Nhờ
khéo giao thiệp, gia đỉnh nàng được cảm tình dân chúng nơi đây, dược họ giúp đỡ
và che chở. Nàng nghe tin các sĩ quan miền Nam bị đưa ra giam giữ tại Vĩnh Phú,
là một nơi gần bản Mường của nàng. Tuy chưa gặp những người miền Nam, nhưng
lòng nàng chan chứa cảm tình với các tù nhân miền Nam vì họ với nàng là cùng
chung cảnh ngộ, là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nàng quyết gặp một sĩ quan miền
Nam và sẵn sàng hiến thân cho chàng ta để giữ lấy dòng máu trong sạch của người
quốc gia. Nàng cam tâm mang tiếng “ không chồng mà chữa” còn hơn ở góa trong rừng
thẳm, hoặc phải lấy anh Mán, anh Thổ hay anh cộng sản làm chồng! Nàng đã nghiên
cứu địa hình địa vật, và đã đào hang ẩn náu đưới một gốc cây trong rừng, nơi tù
cải tạo thường tới lao động. Nàng đã chờ đợi vài ngày đêm; cuối cùng nàng đã gặp
tôi, và đã toại nguyện.
Sau
buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng đã có thai. Lúc này, mẹ nàng đã mất, anh em nàng
chung sống với nhau. Hằng ngày, anh em nàng phải tô mặt cho đen thêm một chút để
tránh cặp mặt cú vọ của cộng sản, mặc dầu nơi đây hoang vắng, người kinh it khi
lên đây Gia đình nàng cũng theo nếp “ du canh” của người thiểu số mà di chuyển
nơi này nơi nọ. Cứ vài năm là một lần di chuyển, như vậy cũng có lợi là tránh
được sự theo dõi của công an. Nhân dịp người Hoa bị đánh đuổi trong vụ nạn kiều,
anh em nàng theo họ sang Hoa Lục, rồi sang Hongkong.
Tại
đây, chính phủ Hongkong bắt anh em nàng vào trại tập trung. Sau một thời gian,
gia đình nàng được phái đoàn Tây Đức nhận định cư tại Tây Đức. Anh em nàng lúc
đầu xin làm công nhân cho các hãng xưởng, sau cả nhà quyết định góp vốn mở hàng
phở, và anh em nàng đã thành công. Khách hàng vào ra nườm nượp, người Việt Nam
đã đành mà người Đức, Pháp, Mỹ cũng thích dùng phở của nhà nàng. Con trai nàng
nay đã lớn, được mười tuổi, đang theo học trung học và nàng thì vẫn phòng không
chiếc bóng. Còn tôi, tôi cũng kể đời tôi từ nhỏ cho đến nay, qua bao chuổi ngày
sóng gió và đau thương.
Chúng
tôi ngồi nói chuyện một hồi thì nàng rủ tôi theo nàng đón con đi học về. Chúng
tôi ra xe do nàng lái, và chờ đợi ở cổng trường. Vài phút sau thì học sinh tan
học. Con nàng ra xe. Nàng giới thiệu tôi với con nàng:
-Hưng,
đây là bố ruột của con từ Mỹ sang và gặp mẹ.
Tôi
nhìn thấy Hưng giống tôi nhưng cao to hơn, và trắng trẻo hơn. Tôi ôm con tôi và
con tôi cũng ôm tôi trong xúc động. Tôi rất mừng vì bất chợt mà tôi đã có một đứa
con trai khôn lớn.
Tối
hôm đó, chúng tôi sống trong đêm tân hôn. Đêm đó cũng là đêm thứ hai tôi thấy lại
bộ ngực trần trắng như ngọc với một nốt ruồi son nằm ở giữa hai gò bồng đảo rất
xinh đẹp.
Tôi
ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, nàng sung sướng cười trong hàng nước mắt. Tôi hỏi
nàng muốn sang Mỹ hay ở lại Đức, nàng trả lời nàng muốn sang Mỹ cùng tôi chung
sống. Mấy tháng sau, chúng tôi tiến hành thủ
tục hôn nhân và bảo lãnh. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức đơn giản tại Đức,
gồm anh chị họ và các cháu của tôi, cùng anh em nhà nàng với bạn bè. Sau đó, vợ
chồng và con chúng tôi về Mỹ và sống một đời tự do và hạnh phúc.
Sơn Trung
Chuyện bực mình
Trên đường về nhà, bạn dừng xe lại cho một cô gái thật đẹp quá giang.
Đang lái xe, thình lình cô ta bất tỉnh nhân sự trên xe của
bạn.
Bạn đành phải chở cô ta vào bịnh viện. Bực thật!
Tại bịnh viện bác sĩ chẩn bịnh và cho biết cô ta đang có
bầu! Họ nồng
nhiệt chúc mừng bạn sắp
được làm cha. Bạn cãi là bạn không biết cô gái và bạn không phải là cha đứa bé. Nhưng
cô gái lại khăng khăng nói bạn là cha đứa bé! Cái nầy thiệt là quá bực!
Bạn tức quá đòi họ thử máu kiểm lại ADN để chứng minh là
bạn nói thật.
Họ thử máu bạn và cho biết bạn bị bịnh hiếm muộn không thể
nào có con nối dõi. Bịnh nầy bẩm sinh từ lúc bạn mới lọt lòng!
Bạn cảm thấy hết sức bực nhưng vui mừng vì được thoát nạn.
Trên đường về bạn sực nghĩ về 3 đứa con của mình...
Bây giờ mới đúng lúc bực mình tối đa...
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment