Thư số 11 gởi
Người Lính
Quân Đội Nhân Việt Nam
******
Phạm Bá Hoa
Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm
1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm
trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng
trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện
cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi vẫn hãnh diện về màu cờ sắc áo mà tôi đã phục vụ. Cho đến
nay, tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi
chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.
Xin được gọi “Người Lính Quân Đội
Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng
ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư
Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là
“cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải
có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà.
Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất
cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi
đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Với thư này, tôi hy vọng giúp Các
Anh nhận ra một chuỗi hành động ngang ngược lấn chiếm Biển Đông của Trung Cộng,
trong khi lãnh đạo CSVN chỉ phản ứng để vừa làm giảm cơn phẫn nộ của đồng bào,
vừa vuốt ve quy lụy Trung Cộng. Đồng thời, tôi giúp Các Anh vài giả thuyết về
hành động của Trung Cộng trong thời gian trước mắt.
Thứ nhất. Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc. (Tóm tắt từ Người Sưu Tầm, 17/7/2012)
Công Ước qui định các vùng:
“Đường cơ sở” (baseline) dọc theo bờ biển,
được định nghĩa như sau: “Thông thường, một đường biển cơ sở dọc theo bờ
biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị thụt sâu, có đảo ven bờ,
hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng các đường thẳng làm đường
cơ sở”.
Vùng nội thủy, bao
phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở. Tại đây, quốc gia
ven biển được tự do qui định về kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài
nguyên. Các tàu thuyền ngoại quốc không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội
thủy.
Vùng lãnh hải, nằm
ngoài đường cơ sở có chiều rộng 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền
tự do qui định về kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu
thuyền ngoại quốc được quyền "qua lại nhưng không gây hại" thì không
cần xin phép nước chủ nhà. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám, không
được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ nhà có thể tạm thời cấm
việc "qua lại nhưng không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải
của mình khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng nước quần đảo. Công Ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo trong
phần IV, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới
lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất
của các đảo ở ngoài cùng nhất, bảo đảm rằng các điểm này phải đủ gần nhau một
cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo
và được coi là một phần của lãnh hải quốc gia đó.
Vùng tiếp giáp lãnh hải. Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai
có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ nhà có
thể thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư
bất hợp pháp.
Vùng đặc quyền kinh tế. Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc
gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác tất cả tài nguyên thiên
nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột
về quyền đánh cá, tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng.
Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy
và đường hàng không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Ngoại quốc
cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.
Thềm lục địa. Là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental
margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục
địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục
địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng
sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ nhà có độc quyền
khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
Bên cạnh các điều khoản định
nghĩa các ranh giới trên biển, Công Ước còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát
cho việc bảo vệ môi trường biển, và bảo vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên
biển. Công Ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác
tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được
thực hiện qua Ủy Ban Đáy Biển Quốc Tế (International Seabed Authority).
Các nước không có biển được
quyền có đường ra biển mà không bị đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến
đường nối với biển đó”.
Ký và phê chuẩn. Các quốc gia bắt
đầu ký từ ngày 10 tháng 12 năm 1982. Bắt đầu hiệu lực ngày 16 tháng 11
năm 1994.
Thứ hai. Đường Lưỡi Bò 2009 của Trung Cộng.
Ngày 7/5/2009, Trung Cộng phản đối
bản đệ trình của riêng Việt Nam và bản đệ trình chung của Việt Nam với Malaysia
gởi đến Ủy Ban Biên Giới Thềm Lục Địa (CLCS) Liên Hiệp Quốc. Kèm theo Công Hàm
phản đối là một bản đồ, có vẽ một đường hình chữ U với nhiều chấm bao trùm phần
lớn Biển Đông. Thật ra, trong hội nghị của Hội Quốc Liên năm 1951 tại San
Francisco (Hoa Kỳ) có 51 phái đoàn tham dự, lúc ấy phái đoàn Trung Cộng trưng dẫn
bản đồ do Trung Hoa Quốc Gia thời Tổng Thống Tưởng Giới Thạch vẽ ra, bao gồm
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong đường chữ U có hình dáng cái “lưỡi
bò” chiếm khoảng 80% Biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung Cộng. Sự trưng dẫn
này bị 46 phái đoàn phản đối. Cũng trong hội nghị này, phái đoàn Quốc Gia Việt
Nam do Thủ Tướng Trần Văn Hữu hướng dẫn, đã trình bày với những tài liệu chứng
minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ trong lịch sử, thì không
một phái đoàn nào phản đối, đã chứng tỏ tài liệu lịch sử chứng minh được quốc tế
công nhận chủ quyền của Việt Nam là đúng.
Các Anh có nhận ra sự thành công
của phái đoàn quốc gia Việt Nam trong sự kiện chứng minh Hoàng Sa Trường Sa là
của Việt Nam từ trong lịch sử, trong khi Trung Cộng trình bày thị bị phản bác
không? Và Các Anh có biết Biển Đông rộng đến mức nào không? Tôi vào trang Web
thấy vài con số như sau: “Biển Đông (đối với Việt
Nam) với diện tích rộng 2.974.100 cây số vuông, lớn hạng thứ 5 trong số 10 đại
dương lớn nhất thế giới. Vậy, 80% của Biển Đông nằm trong “đường lưỡi bò” mà
Trung Cộng tự cho là của họ đã chiếm đến 2.379.928 cây số vuông, trong đó có
hơn phân nửa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa. Trong
khi lãnh đạo Trung Cộng bất chấp luập pháp quốc tế mà đạp đầu đạp cổ Việt Nam,
thì nhóm lãnh đạo của Các Anh vẫn nâng niu cái gọi là “16 chữ vàng và 4 tốt”
trong bang giao với Trung Cộng.
Các Anh nghĩ gì về nhóm lãnh đạo
trong Bộ Chính Trị? Nếu Các Anh muốn tìm hiểu thêm, hãy đọc tiếp đoạn phỏng vấn
ngắn dưới đây để thấy mưu đồ của Trung Cộng chiếm lấy Biển Đông như thế nào.
Ngày 16/8/2012, phóng viên của TTXVN phỏng vấn ông Phạm Nguyên Long, một thời là nghiên cứu viên cao cấp của Viện
Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
Phóng viên: “Những ngày vừa qua, sau khi Việt Nam công bố về những tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa,
và dù đang có xu hướng bị Mỹ phong tỏa, nhưng Trung Quốc vẫn
cho in bản đồ giả, rồi tuồn vào Việt Nam. Điều đó nói lên rằng, Trung Quốc vẫn nhất quyết độc chiếm Biển Đông dù uy tín quốc
gia đang bị hạ thấp. Vậy, Việt Nam nên xử lý như thế
nào?”
Ông
Phạm Nguyên Long: “Chúng ta tuyên bố, không những phải tuyên truyền cho nhân dân Việt Nam biết những
bản đồ về sự thật lãnh thổ Trung Quốc trong lịch sử, mà còn phải cho nhân dân Trung Quốc biết điều đó. Để đáp lại
hành động này của Việt Nam, Trung Quốc cũng đưa ra những bản đồ sai sự thật và
tuồn sang Việt Nam trước cả khi Việt Nam cho người dân Trung Quốc biết. Đó là
những thủ đoạn đầy tính mưu lược của Trung Quốc”.
Thứ ba. Luật Biền 2012 của Việt Nam.
Luật Biển có 55 Điều trong 7
Chương, được Quốc Hội thông qua ngày 21/6/2012, Chủ Tịch nước ký ban hành ngày
17/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2013.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh. Luật
này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa
và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của
Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý
và bảo vệ biển, đảo.
Điều 2. Áp dụng pháp luật. Trường
hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ
quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này.
(2) Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế đó.
Các Anh có thấy là Luật Biển được
ban hành có muộn không? Với tôi, “dù muộn còn hơn không”. Tại sao muộn? Tại vì
nhóm lãnh đạo CSVN nhu nhược, sợ Trung Cộng lấy lại cái gọi là “16 chữ vàng
và 4 tốt” thì mất ghế ngồi, mất quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí mất mạng như
tình cảnh ông Võ Văn Kiệt vậy. Mãi đến lúc, không phải nước mới đến chân mà
là nước ngập đến đùi, đành phải ra lệnh Quốc Hội thông qua Luật Biển để vuốt ve
đồng bào bày tò lòng yêu nước qua những cuộc biểu tình phản đối Trung Cộng “gậm
nhấm” biển đảo của Việt Nam. Nhân đây, tôi nhắc để Các Anh nhớ lại (nếu đã biết)
hoặc để biết rõ (nếu chưa biết) vài sự kiện quan trọng, cho thấy Trung Cộng “gậm
nhấm” đất liền và biển cả Việt Nam chúng ta như thế nào, và phản ứng của một số
lãnh đạo CSVN hèn hạ ra sao:
(1) Năm 1988, với chính sách “gậm nhấm”, Trung Cộng lần lượt
đánh chiếm hoặc lấn chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Cứ mỗi lần chiếm
đóng một đảo, lãnh đạoTrung Cộng với lãnh đạo CSVN tuyên bố hai bên cùng giải
quyết trong hòa bình, nhưng rồi lãnh đạo CSVN vẫn để nguyên trạng mất đất chớ
không giải quyết gì cả, và một đảo khác lại vào tay Trung Cộng. Cứ như vậy mà 8
đảo lần lượt đã vào tay Trung Cộng.
(2) Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo CSVN với lãnh đạo
Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách
Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất
789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
(3) Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang
Trung Cộng với danh nghĩa thăm viếng thiện chí, nhưng thật sự là ký Hiệp Ước
bán 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ)
cho lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh.
(4) Ngày 3/6/2011, bên lề hội nghị quốc tế tại khách sạn
Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, khẳng
định với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt rằng : "Việt Nam
và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt" (4 tốt).
Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm
dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt
cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến "truyền thống hữu nghị tốt đẹp
giữa hai dân tộc Việt-Trung".
Các Anh vẫn nhớ là đã có hằng
ngàn tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm, tài sản
trên tàu thuyền bị chúng tịch thu, ngư dân bị chúng bắt và chỉ thả ra khi đóng
tiền chuộc, vậy mà quân đội “Nhân Dân” Việt Nam nói chung và Hải Quân “Nhân
Dân” nói riêng, đã im lặng như Người Lính vô cảm với Nhân Dân dù danh xưng của
quân đội gắn liền hai chữ “Nhân Dân”.
(5) Ngày 28/8/2011, theo bản tin thông tấn xã Việt Mam, thì Tướng
Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Tướng Mã Hiểu
Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, Tướng Vịnh
nói: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn
có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông
người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam
không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
(6) Trong những năm 2010, 2011, và nửa đầu năm 2012, tàu Trung
Cộng thường xuyên săn đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, và bắt giữ đòi tiền chuộc hằng
ngàn ngư phủ Việt Nam, trong khi tài sản của ngư dân Việt Nam thì bị chúng tịch
thu.
Vậy mà Công An Nhân Dân -tôi nhấn
mạnh hai chữ “Nhân Dân”- thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ
cuộc biểu tình lần 1 vào ngày 5/6/2011 và 3 cuộc biểu tình trong tháng 6 &7/2012,
bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. Các
Anh vẫn chưa quên hành động đáng phẫn nộ đó chớ? Và Các Anh đang nghĩ gì?
Thứ tư. Hành động của Trung Cộng trên Biển Đông.
Đặc biệt là những hoạt động của
Trung Cộng trên Biển Đông trong những tháng vừa qua, có tính cách thách thức Việt
Nam lẫn Phi Luật Tân:
(Tam Sa có phi trường và quân
đội)
(2) Ngày 24/7/2012, Trung Cộng thành lập thành phố Tam Sa, là
một thành phố cấp địa khu, thuộc tỉnh Hải Nam. Thành phố được giao một khu vực
mà nhiều nước tranh chấp chủ quyền: Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần
đảo Trung Sa (bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough), cùng vùng biển chung
quanh. Trung Cộng đặt chính quyền thành phố Tam Sa tại đảo Phú Lâm mà họ gọi là
Vĩnh Hưng, thuộc quần đảo Hoàng Sa. Bộ chỉ huy quân sự cũng đóng trên đảo
Phú Lâm. Trung Cộng đã công bố danh sách 45 đại biểu vừa được bầu vào
cơ quan lập pháp thành phố Tam Sa.
(hạm đội tàu cá --->)
Trong khi hành động của Trung Cộng
xem Biển Đông như ao nhà của chúng, vậy mà ngày 28/7/2012, Bộ Quốc Phòng CSVN đã gọi
hàng trăm sĩ quan thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, các Quân Khu đã từng học quân sự ở Trung Cộng đền họp mặt để chào mừng ngày thành lập quân đội Trung Cộng 1 tháng
8, do Tướng
Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc phòng, và Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị chủ tọa (Các Anh gọi là chủ trì). Ngoài ra, còn có Thứ Trưởng là Tướng Nguyễn
Thành Cung, Tướng Nguyễn Chí Vịnh, và Tướng Mai Quang Phấn, tham dự. Đặc
biệt là sự có mặt của đại biện lâm thời Trung Cộng Khương Tái Đông, cùng với tùy viên quân sự của họ.
Theo bản
tin Thông Tấn Xã Việt Nam, đây là “dịp thể hiện lòng biết ơn sự giúp
đỡ của Trung Cộng đào tạo cán bộ cho quân
đội Việt Nam, đồng thời biểu dương các sĩ quan từng được Trung Quốc
đào tạo đã đóng góp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Tướng Phùng Quang Thanh nói: “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi
nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng,
Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”. Thay mặt quân đội Việt Nam, ông Thanh gửi tới Quân Ủy Trung Ương và quân đội Trung Cộng “lời chúc mừng tốt đẹp nhất nhân
ngày thành lập”.
Còn báo Quân Đội Nhân Dân của Các Anh, có bài tường thuật chi tiết về “tình cảm biết ơn” của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đối với quân
đội Trung Cộng trong
buổi gặp mặt này, dưới dòng chữ “khắc ghi tấm lòng nhường
cơm sẻ áo” của Trung Cộng. Trong diễn từ khai mạc, Tướng Mai Quang Phấn khẳng định sự giúp đỡ của
Trung Cộng đã đem lại ‘kết quả to lớn cho
Việt Nam. Cuộc gặp mặt “vừa bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ
quý báu của Trung Cộng, vừa là hoạt động thiết thực góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị hợp
tác, đối tác chiến lược toàn diện giữa hai Đảng, Nhà nước, và Quân Đội với Nhân Dân hai nước ngày càng bền chặt”. Trong diễn từ của
Tướng P.Q. Thanh, có đoạn “khẳng định đặc biệt coi trọng quan hệ với giải phóng quân Trung Quốc, coi đây là chủ trương nhất
quán, và là ưu tiên hàng đầu.
Đại
Biện lâm thời Trung Cộng
là Khương Tái
Đông, nhận định: “Quan hệ hai nước đang có bước
phát triển tốt đẹp”. Ông Đông
còn nhắc đến quan hệ giữa hai nước là “núi liền núi, sông liền
sông, vừa là đồng chí vừa là anh em” nữa chớ.
Các Anh đọc tiếp đoạn văn ngắn
này mà tôi trích từ bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm, giúp Các Anh nhận rõ thêm
về chính sách bang giao quy lụy của lãnh đạo CSVN đối với Trung Cộng:
“Năm 2010, tôi đọc được một
bài báo sặc mùi hiếu chiến được đăng trên trang mạng “Trung Quốc Binh Khí Đại
Toàn” là một trang mạng của Trung Cộng. Tôi đã dịch sang Việt ngữ và gửi đăng
trên trang Bauxite Việt Nam (BVN). Ngay sau khi BVN đăng tải, tôi rất vui mừng
vì bản dịch rất nhanh chóng lan truyền trên các trang mạng và blog của Cộng Đồng
Việt Nam, và nhận được những lời bình luận sôi sục tình cảm yêu nước thương
nòi, căm thù bọn cộng sản xâm lược khát máu Đại Hán, và thức tình lương tri của
những ai đang còn mê muội ảo tưởng vào giọng lưỡi xảo trá “đồng chí quốc tế vô
sản, anh em môi hở răng lạnh, bốn tốt, và mười sáu chữ vàng”. Bài báo kết thúc
bằng lời nguyền: “Hãy giết chết bọn giặc
Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa”.
“Mấy hôm nay, bỗng dưng dân
tình lại được nghe một số phương tiện truyền thông ồn ào những bản hợp ca… “biết
ơn Đảng Cộng sản Trung Quốc anh em”, tôi sực nhớ đến bài báo “thắm tình anh em,
đồng chí, môi hở răng lạnh” của cái “Đảng bạn đểu cáng” mà tôi đã dịch và gửi
anh Nguyễn Huệ Chi cho đăng trên trang BVN, tôi bèn tìm lại bài báo gợi ý BVN
đăng lại để toàn dân ta thêm một dịp nhận rõ kẻ thù ngàn đời của dân tộc. Thế rồi
tôi đặt câu hỏi: Vì sao cái mà một số kẻ được gọi là “đảng anh em” lại đi rao
giảng cái bài “giết giặc Việt”? Vì sao chúng gọi nhân dân “anh em” là “giặc”?
Nhưng đau hơn, là vì sao mà một số người vẫn tâng bốc chúng là “ân nhân”, lại
vuốt ve chúng là “anh em đồng chí”? Họ“khôn khéo hay họ mơ ngủ?”
Đến đây Các Anh nhận ra “một số người
vẫn tâng bốc ...” mà ông Vũ Cao Đàm nói đến, chính là nhóm lãnh đạo “đỉnh cao
gian trá” trong Bộ Chính Trị, vô cùng khiếp nhược với lãnh đạo Trung Cộng rồi
chớ?
Bây giờ tôi giải thích về ý nghĩa
hai chữ “gậm nhấm” mà tôi sử dụng ở trên. Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền
cho con (Trần Anh Tông), Vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người
chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng
họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời
của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải,
các việc trên khiến Ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không
tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp.
Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo
của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ
chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền
nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn
nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
Các Anh có cảm thấy thấm thía
không? Lời dạy từ thế kỷ 13, nay là thế kỷ 21 mà vẫn nguyên giá trị, vì rõ ràng
và chắc chắn, Trung Cộng ià -kẻ thù của dân tộc chúng ta từ trong lịch sử- đang
gậm nhấm “cái tổ đại bàng” Việt Nam chúng ta. Với mức độ khiếp nhược của nhóm
lãnh đạo CSVN, rồi bao lâu nữa đây, “cái tổ đại bàng” này không chỉ trở thành
“cái tổ chim chích” trong lời răn dạy của Vua Trần Nhân Tông, mà trở thành “cái
gì đó nằm trong ống tay áo của Trung Cộng”. Cái gì đó, rất có thể là một văn bản
chánh thức “Việt Nam trở về với nước Tàu” đúng theo “Biên Bản tối mật” trong cuộc
họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN, và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ
Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ
Tướng, đại diện lãnh đạo Trung Cộng, trong ngày 3 & 4/9/1990 tại thành phố
Thành Đô của Trung Cộng, mà Wikileaks đã phổ biến giữa năm 2011. Tôi
trích đoạn cuối Biên Bản đó giúp Các Anh đọc tài liệu này để hiểu rõ lãnh đạo của
Các Anh: “....Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận, và đề nghị
phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền
trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng
Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía
Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần
thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”.
Đến đây, Các Anh hãy đọc lại loạt
thư tôi gởi Các Anh từ số 1 hồi tháng 11/2011 đến Thư số 10 hồi tháng 8 vừa qua
(2012), rồi kết những sự kiện trong các thư đó vào một chuỗi, để Các Anh khả dĩ
có đủ yếu tố mà đánh giá: “Liệu có phải các
nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị CSVN, đã và đang đưa dân tộc Việt Nam trở
thành dân tộc thiểu số của Trung Cộng vào năm 2020 không?” Các Anh hãy chứng nghiệm trong thực tế để xác định hành động
của lãnh đạo Các Anh, là những vũ khí tối tân mà lãnh đạo CSVN mới mua chỉ để
vuốt ve sự phẫn nộ của đồng bào, chớ chưa một lần sử dụng để ngăn chận hành động
của Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, và hành động lấn
chiếm đảo biển của Việt Nam, thậm chí cũng không dám đụng đến “hạm đội tàu cá”
của Trung Cộng đang tràn lan tưởng như đen ngòm trên Biển Đông nữa..
Thứ năm. Giả thuyết về hành động
của Trung Cộng.
Căn cứ vào một loạt hành động của
Trung Cộng ngay trước và sau khi Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển ngày
21/6/2012, tôi ước tính những hành động có tính cách chiến lược của Trung Cộng
trong thời gian trước mắt, dưới dạng “giả thuyết”:
Giả thuyết 1 và phân tách. Trong khi Lục Quân sẳn sàng dọc biên giới Trung-Việt, lực
lượng công nhân Tàu sẳn sàng tại các công trường khắp nội địa Việt Nam, thì một
lực lượng nhỏ của Hải Quân ngụy trang dưới dạng tàu Hải Giám hay tàu Tiếp Liệu
chẳng hạn, yểm trợ “Hạm Đội Tàu Cá” gần 30.000 chiếc mà ngư dân được võ trang
dưới tên gọi “Dân Quân Biển” của Trung Cộng lấn chiếm từng đảo rồi từng đảo, dẫn
đến các đảo và quần đảo của Việt Nam lần l ượt sẽ vào tay Trung Cộng. Cũng nên
lưu ý, cộng sản nói chung và Trung Cộng nói riêng, rất gian manh mánh khóe, cho
nên rất có thể Dân Quân Biển của họ chính là “Thủy Quân Lục Chiến” của họ ngụy
trang đó.
Với giả thuyết này, Trung Cộng
tránh né được sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và của Phi Luật Tân, nhưng với Việt
Nam chắc Trung Cộng đánh giá “chẳng ra gì” đâu. Dù rằng trong hai năm trở lại
đây, đã nhiều lần Hoa Kỳ khẳng định quyền lợi hàng hải của mình trên Biển Đông,
và để chứng minh những lời tuyên bố trong những hội nghị trong vùng Đông Nam Á
và trong những hội nghị quốc tế, Hoa Kỳ chánh thức tuyên bố trở lại vùng Châu Á
Thái Bình Dương. Với bóng dáng liên minh giữa Hoa Kỳ - Úc Đại Lợi - Ấn Độ, góp
phần nói lên sự trở lại của Hoa Kỳ trong thế phòng thủ chung vùng này, mà khu vực
trọng yếu là hành lang Biển Đông nối vào eo biển Malacca phía nam để qua Ấn Độ
Dương, và ngược lên ngang qua quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước khi đến các quốc
gia vùng Đông Bắc Á Châu & Thái Bình Dương. Thêm nữa, ngày 26/07/2012, Ông
Leon Panetta, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, chấp thuận kế hoạch điều động phi đội
máy bay chiến đấu tàng hình F-22 đến căn cứ không quân Hoa Kỳ tại Nhật Bản.
Tôi vẫn không quên là trong thời
gian gần đây, Không Quân với Hải Quân của Phi Luật Tân lẫn của Việt Nam, được
gia tăng đáng kể về khả năng tuần thám và chiến đấu. Tuy chưa phải là hùng mạnh
so với hai quân chủng đó của Trung Cộng, nhưng cũng thể hiện ít nhiều về trách
nhiệm bảo vệ phần lãnh hải của mình, nhất là Phi Luật Tân. Còn lãnh đạo CSVN, mua
để phô trương chớ không để ngăn chận Trung Cộng mà thực tế đã chứng minh điều
đó, có lẽ họ “sợ mất 16 chữ vàng và 4 tốt” chăng?
Dĩ nhiên là Trung Cộng thừa biết
sức mạnh của Hoa Kỳ, nhưng rất có thể Trung Cộng lợi dụng điều mà Trung Cộng
cho rằng, cả hệ thống chính trị Hoa Kỳ đang bận rộn với cuộc bầu cử Tổng Thống
và Nghị Sĩ cùng Dân Biểu vào đầu tháng 11/2012 tới đây, mà sử dụng “Hạm Đội Tàu
Cá” gần 30.000 chiếc để “gậm nhấm” Biển Đông. Nếu áp dụng giả thuyết này, cầm
chắc là Trung Cộng sẽ phải “tứ bề thọ địch” về ngoại giao nhiều hơn là về quân
sự. Nhưng, nếu Trung Cộng sử dụng Hải Quân với Không Quân tấn công toàn diện Biển
Đông thì tổn thất khó mà lường được trước sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, dù Hoa Kỳ
đang bận rộn bầu cử Tổng Thống. Nhưng nếu Hoa Kỳ không tham chiến, hóa ra Hoa Kỳ
là “con cọp giấy” sao? Vì Hoa Kỳ đã nhiều lần tuyên bố Hoa Kỳ có quyền lợi trên
hành lang Biển Đông mà.
Và như vậy, giả thuyết này với cơ
hội Trung Cộng áp dụng ước tính khoảng 40%. Tôi ước tính chỉ đến 40% là vì “Dân
Quân Biển” hay “Thủy Quân Lục Chiến” ngụy trang, với nguy cơ rất cao trong khả
năng tạo nên trận hải chiến chỉ vì một vài hành động va chạm với đối phương của
họ, cho nên Trung Cộng không dại gì mà mạo hiểm để “va đầu vào tứ bề thọ địch về
quân sự”.
Giả thuyết 2 và phân tách. Sử dụng Hải Quân và Hạm Đội Tàu Cá dàn trải khắp các khu vực
trọng yếu trên Biển Đông, Lục Quân vẫn sẳn sàng chiến đấu dọc biên giới
Trung-Việt, Không Quân sẳn sàng tại các phi trường gần Hà Nội, Đà Nẳng, và Sài
Gòn, Trung Cộng sử dụng lực lượng bộ binh dưới dạng công nhân, hoặc công nhân
được trang bị trở thành lực lượng quân sự,và các cấp lãnh đạo công ty trở thành
các cấp chỉ huy quân sự, thực hiện cuộc đảo chánh tai Hà Nội, Đà Nẳng, Sài Gòn,
và Cần Thơ, lật đổ nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị và bộ máy đảng, lật đổ
chánh phủ và bộ máy nhà nước, đưa các tay chân thân tin cũng là Việt Nam nhưng
là những tay sai trung thành của Trung Cộng lên cầm quyền, và tất cả sẽ đặt dưới
sự thống trị của viên chức Trung Cộng như viên Thái Thú ngày xưa chẳng hạn. Trường
hợp này, quốc tế khó mà viện dẫn lý do để đưa ra phản ứng quân sự được, dĩ
nhiên là tùy mỗi quốc gia sẽ chọn lựa những biện pháp thích ứng trong bang giao
với Trung Cộng.
Vậy là cả Việt Nam bao gồm Hoàng
Sa Trường Sa, vào tay Trung Cộng. trong khi Trung Cộng rất ít tổn thất nhân mạng,
rất ít tổn thất dụng cụ chiến tranh, rất ít chi phí, ít cơ hội bị quốc tế lên
án cùng với những biện pháp trừng phạt. Song song đó, Trung Cộng được lãnh đạo Cam
Bốt tiếp tay canh chừng CSVN từ biên giới Cam Bốt-Việt Nam, giúp tăng thêm thuận
lợi cho Trung Cộng, vì Cam Bốt đã chứng tỏ sự trung thành của họ trong vai Chủ
Tịch hội nghị ASEAN hồi tháng 7 vừa qua (2012), đến mức hội nghị không đưa ra
được bản Tuyên Bố Chung vì bất đồng trên hồ sơ Biển Đông.
Giả thuyết này với cơ hội Trung Cộng
áp dụng ước tính tới 60%, nhất là trong tình hình giữa các lãnh đạo trong Bộ
Chính Trị Việt Nam đang đấu đá nhau quyết liệt vì tranh giành quyền lực quyền lợi
(chớ không phải đấu đá vì quốc gia dân tộc đâu).
Thứ sáu. Kết Luận.
Nhóm lãnh đạo của Các Anh mà tôi
gọi đúng với nghĩa đen là “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, rõ ràng và
chính xác là họ đặt quyền lợi tổ quốc dân tộc dưới quyền lợi của đảng cộng sản,
nói cho đúng là họ đặt quyền lợi tổ quốc dân tộc dưới quyền lợi của chính họ. Từ
đó, chính sách bang giao với Trung Cộng là chính sách quy lụy phục tùng để đảng
cộng sản tồn tại, họ tồn tại, vì vậy mà phản ứng của họ chỉ để vuốt ve sự phẫn
nộ của đồng bào thôi. Hẳn là Các Anh còn nhớ, ngày 28/8/2011, Thông Tấn Xã Việt
Nam loan tin rằng: ”Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt
Nam, trong buổi họp với Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng
quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, đã tuyên bố: "Nếu Việt Nam cần sự ủng
hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội
chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông
người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam
không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”. Vì nhóm
lãnh đạo sợ mất ghế ngồi, mất quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí là mất mạng dễ
dàng, nên không dám hành động trái ý Trung Cộng. Hãy nhớ, cộng sản là chủ nghĩa
giết người mà.
Các Anh hãy dành chút thì giờ
để bình tâm mà nhận định chuỗi sự kiện vừa đọc, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn
của chính Các Anh chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các
Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía đồng bào và hành động
đúng với bổn phận công dân là Bảo Vệ Tổ Quốc, Bảo Vệ Nhân Dân.
Tôi vững tin rằng, bà con
trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người
Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ
làm nên lịch sử.
“Tự Do, phải chính chúng ta
tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Texas, tháng 9 năm 2012.
*********
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment