Friday, September 7, 2012

Thất bại của nền ngoại giao Trung Quốc


Thất bại của nền ngoại giao Trung Quốc

 

Singapore và Đài Loan tỏ thái độ trong cuộc tranh chấp Biển Đông :

 

                                                                                                                                       Nguyễn Hoài Vân


 

 

Trên bàn cờ tranh chấp Biển Đông có hai sự kiện đáng ghi nhận trong những ngày qua. Đó là thái độ của 2 quốc gia vốn nằm trong quỹ đạo Hoa Kỳ, là Singapore và Đài Loan.

 

Trước tiên, vào ngày 9 tháng 8 2012, Đài Loan đã ký một thỏa ước hợp tác với Trung Quốc trong việc khai thác Biển Đông, đồng thời đưa quân chiếm đóng một số đảo hiện tranh dành chủ quyền với Việt Nam, và tuyên bố sẽ tập trận với đạn thật trong vùng đảo Ba Bình (tức Thái Bình của Việt Nam).

 

Tiếp đến, ngày 13 tháng 8, ngoại trưởng Singapore phát biểu tại quốc hội, cho rằng khối ASEAN cần giữ thái độ trung lập trong cuộc tranh chấp Biển Đông, một câu nói gần như lập lại lời tuyên bố của ngoại trưởng Kampuchia cách đây đúng một tháng.

 

Việc hai nước vốn thuộc quỹ đạo của Hoa Kỳ tỏ thái độ nhích lại gần Trung Quốc lại xảy ra sau một cuộc đàm phán quan trọng giữa Mỹ và Trung Quốc, chấm dứt ngày 26 tháng 7, 2012. Người ta không khỏi tự hỏi những gì đã được thỏa thuận giữa hai cường quốc ? Mặt khác những thỏa thuận ấy hiệu lực được bao nhiêu, khi Hoa Kỳ sắp bầu lại Tổng Thống, và Trung Quốc sắp thay đổi lãnh đạo trong kỳ Đại Hội Đảng Cộng Sản sắp tới ? Tại sao Singapore và Đài Loan lại chọn bày tỏ thái độ trong bối cảnh ấy ? Phải chăng đây là một sự nới lỏng tương quan với Hoa Kỳ, hay ngược lại, là những bước đi được Hoa Kỳ hậu thuẫn ?

 

Về phía Hoa Kỳ, có thể nhận định rằng quyền lợi trực tiếp của họ được gắn liền với sự tự do di chuyển trên vùng biển liên hệ. Khi nào điều ấy không bị đe dọa thì Hoa Kỳ không có lý do cụ thể để can thiệp, nhất là trong bối cảnh khủng hoảng, thất thu ngân sách hiện nay (*). Tuy nhiên, hâm nóng tình hình biển đông đem lại cho Hoa Kỳ một mối lợi không nhỏ trong việc bán vũ khí cho các nước trong vùng. Đồng thời điều ấy cũng làm cho sự phát triển của các nước này chậm lại, vì một phần ngân sách phải chuyển sang việc mua vũ khí, không đầu tư được vào những lãnh vực then chốt khác như hạ tầng cơ sở, tân tiến hóa kỹ nghệ ...

 

Cách đây ít lâu, Hoa Kỳ đã từng cho thấy ý muốn hợp tác với Trung Quốc trong việc duy trì ổn định trong vùng Đông Á. Chuyến công du Á Châu của Tổng Thống Obama cuối năm 2009 đã được kết thúc bởi một thông cáo chung với Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, trong đó, hai siêu cường công bố quan điểm của họ về kinh tế, môi sinh, quân sự, v.v… trong mục tiêu « tăng cường hòa bình, ổn định và phú hữu trên toàn địa cầu » cũng như « giải quyết những vấn nạn chung của thế kỷ 21 ». Sự hợp tác này không có nghĩa là Trung Quốc sẽ độc tôn trong vùng Đông Á, mà có thể được hiểu như một sự khuyến khích Trung Quốc tạo điều kiện cho một sự hợp tác trong toàn vùng. Truyền thống của nền ngoại giao Hoa Kỳ vốn vẫn  hướng đến sự hình thành những tổ chức liên quốc gia trong mục tiêu ổn định và hợp tác. Sự có mặt của « anh cảnh sát quốc tế » có một không hai này tại Đông Á, qua các đồng minh vững chắc như Nhật, Nam Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân và Singapore, sẽ là một yếu tố ổn định quan trọng. Vai trò của Trung Quốc sẽ tương xứng với tầm vóc của mình, nghĩa là, trên lãnh vực kinh tế, và cả quân sự, chưa chắc gì đã lấn át được những cường quốc như Nhật, hay những quốc gia hạng trung có thể liên kết với nhau như Nam Hàn, Đài Loan, cũng như một số nước ASEAN, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Đó là chưa kể sự can dự có nhiều hy vọng sẽ ngày một gia tăng của Ấn Độ ...

 

Về phía Trung Quốc, người ta không khỏi nhìn thấy sự thất bại rõ ràng của một chính sách ngoại giao vô cùng kém cỏi. Hệ thống bạn bè khắp thế giới gây dựng được bởi chính sách giao thiệp đa phương (tiếp theo giai đoạn « phi liên kết »), ngày nay gần như hoàn toàn tan rã. Khắp thế giới, người ta bày tỏ sự nghi ngại đối với chính quyền Trung Hoa, đối với hàng hóa Trung Hoa, kể cả đối với những đầu tư của Trung Quốc. Ngay sát cạnh Trung Hoa, một số nước vốn không mấy thiện cảm với Hoa Kỳ, cũng đang chuyển hướng để nhích lại gần siêu cường này. Ngay đến đàn em trung thành là Miến Điện cũng rấp ranh rời bỏ quỹ đạo của « thiên triều » (Miến Điện vừa từ chối cho Trung Quốc xây một đập thủy điện và tuyên bố coi tương quan với Trung Quốc ngang hàng ... Ấn Độ !). Chưa thấy một nền ngoại giao nào thất bại ê chề như thế ! Nếu Trung Quốc tiếp tục đường lối hiện tại thì tai vạ sẽ giáng xuống nền kinh tế rất lệ thuộc xuất cảng của nước này. Con số đầu tư vào Trung Quốc đã tụt giảm và hiện tượng tồn đọng hàng hóa không tiêu thụ nổi đã được ghi nhận.

 

Sinh lộ của Trung Quốc tùy thuộc vào một sự thay đổi thái độ triệt để trong lãnh vực đối ngoại. Kỳ Đại Hội Đảng Cộng Sản Trung Hoa sắp tới, với truyền thống thay đổi lãnh đạo sẽ là một dịp để làm việc này, một cách nhẹ nhàng, không khiến cho giới cầm quyền hiện nay mất mặt. Thể diện luôn là một ưu tư hàng đầu của Trung Quốc ...

 

Giả sử Trung Quốc tiếp tục một chính sách không thích nghi trong cuộc tranh chấp biển đông, thì vấn đề sẽ tiếp tục bế tắc. Không ai có thể khai thác được vùng biển ấy nếu không có hòa bình, dù cho có chiếm đóng hay tranh đoạt chủ quyền bằng bất cứ phương tiện nào. Một dàn khoan dầu giữa biển khơi không thể hoạt động được nếu luôn phải lo ngại bị tấn công bởi phi cơ, hỏa tiễn tầm xa, tàu ngầm, đặc công người nhái v.v... Ai dám bỏ tiền vào đó ? Ai dám đến đó làm việc ?

 

Trong nhất thời vấn đề hiện đang tế nhị là những tàu đánh cá. Nếu tranh chấp tăng cường độ, Trung Quốc sẽ phải trải ra một số tàu chiến và máy bay đáng kể để bảo vệ các tàu đánh cá từ xa đến, và ngăn cản tàu đánh cá của các nước khác. Điều này rất tốn kém, làm cho việc đánh cá sẽ chỉ có giá trị hình thức chứ không còn là một dịch vụ làm ăn sanh lợi. Các nước liên hệ sẽ nâng cao áp lực để bắt Trung Quốc đem đến càng ngày càng nhiều phương tiện quân sự hơn. Sự bế tắc sẽ có hại cho mọi quốc gia quanh biển đông, nhất là Trung Quốc, và không thể kéo dài.

 

Tóm lại, hai thời điểm quan trọng trong thời gian sắp tới sẽ là cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ và Đại Hội Đảng Cộng Sản Trung Hoa. Một số nhà quan sát nghĩ rằng ứng viên Tổng Thống Romney ít có khuynh hướng can thiệp vào Châu Á Thái Bình Dương hơn ứng viên Obama. Ông Romney có vẻ dành nhiều ưu tiên cho vùng Trung Đông ... Những người đang sửa soạn cầm quyền tại Trung Quốc chắc chắn sẽ thích nghi hóa chính sách của mình với những ngọn gió đến từ Hoa Kỳ. Dù sao, giới làm ăn hoàn toàn ý thức rằng chiều hướng dân tộc chủ nghĩa cực đoan sẽ là mồ chôn của họ. Rất nhiều tài sản đã và đang tháo chạy ra nước ngoài, như chính quyền Australia vừa báo động ...

 

 

NGUYỄN Hoài Vân

27 tháng 8 , 2012

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-30/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link