Cảnh giác với những khoản vay từ Trung Quốc
Lê Anh Hùng - Lê Anh Hùng - Lê Anh Hùng
“Món
quà” của người “bạn tốt”
Chuyến thăm
Trung Quốc từ ngày 19/6 đến 21/6 vừa qua của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang
thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận trong bối cảnh tình hình khu vực đang
nóng lên trước một Trung Quốc không ngừng trỗi dậy mạnh mẽ và ngày càng bộc
lộ cuồng vọng bá quyền khiến cả thế giới phải dè chừng.
Một
trong những “món quà” của Trung Quốc mà phái đoàn Việt Nam mang về nước là
khoản vay ưu đãi 320 triệu nhân dân tệ cho dự án hệ thống thông tin đường sắt
và một hiệp định cho vay khác dành cho dự án nhà máy đạm than Ninh Bình trị
giá 45 triệu USD.
Việc các
quốc gia phát triển cao hơn dành những khoản viện trợ phát triển hay tín dụng
ưu đãi cho những quốc gia có trình độ phát triển thấp hơn là một điều bình
thường xưa nay. Kể từ khi bắt đầu “đổi mới”, mở cửa đến nay, cộng đồng quốc
tế vẫn thường dành cho Việt Nam sự hỗ trợ như thế, đặc biệt là các khoản
vay ưu đãi.
Tuy
nhiên, theo thông lệ quốc tế, kèm theo những khoản vay đó là những điều kiện
mà bên cho vay đặt ra. Có những điều kiện có lợi cho Việt Nam, chẳng hạn như
yêu cầu về sự công khai, minh bạch trong quá trình thực hiện dự án liên
quan; có những điều kiện có lợi cho quốc gia cho vay: ưu tiên nhập máy móc
thiết bị từ nước họ hoặc trao các gói thầu cho nhà thầu của họ. Những khoản
vay đến từ các quốc gia phát triển thường đem lại hiệu quả thiết thực cho
Việt Nam, bởi ngay cả điều kiện có lợi cho bên cho vay thì nhìn chung cũng
chấp nhận được nếu xét đến trình độ khoa học – công nghệ và quản lý hàng đầu
thế giới của họ.
Và những
hệ luỵ khó lường
Đáng tiếc
là thực tế trên đây lại không đúng với với người láng giềng “4 tốt, 16 chữ
vàng” của Việt Nam. Người ta thường nói: “Chẳng ai cho không ai cái gì”.
Câu châm ngôn này xem ra rất đúng với Trung Quốc, và càng đặc biệt đúng
trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc kể từ khi hai nước thiết lập
quan hệ ngoại giao năm 1950.
Ngược
dòng thời gian, ngay từ những năm 1950, khi mà mối quan hệ “vừa là đồng
chí, vừa là anh em” của hai quốc gia cộng sản đang ở thời kỳ “trăng mật”,
Trung Quốc đã lợi dụng danh nghĩa “giúp” Việt Nam để lấn chiếm lãnh thổ với đủ mọi thủ đoạn khác nhau.
Với những
toan tính chiến lược thể hiện đúng “bản sắc” của mình, Trung Quốc luôn quan
tâm đến các dự án hạ tầng quan trọng ở Việt Nam. Và họ hiện là nhà thầu thống trị các dự án trọng điểm quốc gia của Việt
Nam; đồng thời, họ cũng rất “nổi tiếng” về chất lượng và tiến độ thực hiện các dự
án đó. Thủ thuật thông thường của họ là đưa ra giá
đấu thầu thật thấp để trúng thầu rồi sau đó sẽ tìm đủ mọi cách hòng kiếm
chác, để lại những thiệt hại không thể đong đếm cho phía Việt Nam, cả về
kinh tế lẫn an ninh – quốc phòng. Ngoài ra, một lá bài rất hữu hiệu
khác mà họ hay sử dụng là “cho vay ưu đãi” hoặc “thu xếp vốn” để được giao
thực hiện dự án, đặc biệt là những dự án nhạy cảm về an ninh – quốc phòng.
Ví dụ điển
hình ở đây là dự án đường sắt đô thị của Tp Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà
Đông. Tuyến đường sắt trên cao này được khởi công ngày 10/10/2011, với tổng mức đầu tư 533 triệu USD, trong đó nguồn vốn
vay của Trung Quốc là 419 triệu USD. Không chỉ tổng thầu EPC của dự
án là công ty Trung Quốc (Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc) được chỉ định thầu mà nhà thầu tư vấn giám sát thi
công và lắp đặt thiết bị cũng là một công ty Trung Quốc nốt (Công ty TNHH
Giám sát Xây dựng Viện Nghiên cứu Thiết kế Công trình Đường sắt Bắc Kinh).
Với một dự án rất nhạy cảm về an ninh – quốc phòng như vậy thì đây quả là
điều hết sức khó chấp nhận, nhất là khi chúng ta biết rằng công nghệ đường
sắt của Trung Quốc còn kém xa thế giới, mà vụ tai nạn tàu cao tốc thảm khốc ngày 23/7/2011 tại Ôn
Châu (Triết Giang, TQ) là một minh chứng rõ ràng.
Dự án hệ
thống thông tin đường sắt nói trên hầu như chắc chắn sẽ lọt vào tay nhà thầu
Trung Quốc. Họ sẽ kéo theo một lô một lốc những công nghệ, thiết bị và cả
con người sang Việt Nam để thực công trình biểu tượng cho “tình hữu nghị thắm
thiết” này.
Và rồi
chúng ta không chỉ phải đối mặt với một khả năng rất lớn là chất lượng hệ
thống thông tin đường sắt không đảm bảo như ý muốn mà cả những mối đe doạ
tiềm ẩn liên quan đến an ninh quốc gia. Bởi một khi xung đột giữa hai nước nổ
ra – điều xem ra không dễ tránh khỏi trước cuồng vọng bành trướng không hề
che dấu của Trung Quốc trên Biển Đông – thì với “biệt tài” của mình, người
“bạn tốt” của chúng ta hoàn toàn đủ khả năng làm tê liệt toàn bộ hệ thống
đường sắt của Việt Nam. Thiết tưởng vụ mất điện toàn miền Nam chiều ngày 22.5 vừa qua là một lời
cảnh tỉnh cho những ai còn mơ hồ về một mối đe doạ khủng khiếp khi mà Việt
Nam gần như đã dâng cả ngành điện lực cho Trung Quốc suốt nhiều năm
qua.
L.A.H.
Tác giả
gửi trực tiếp cho BVN
***
Tác giả: PHẠM
HUYỀN | 10/01/2011 |
(VEF)
– Nhiều dự án của Việt Nam phải thuê nhà thầu Trung Quốc bởi một lý do “bất
khả kháng”: nguồn vốn vay từ chính Trung Quốc. Và khi dự án có vấn đề về chất
lượng thì các chủ đầu tư Việt Nam chỉ còn nước “ngậm bồ hòn làm ngọt”
Cái
khó xử khi nhận vốn của Trung Quốc
Trung Quốc
không phải là nước thuộc nhóm cung cấp vốn hỗ trợ phát triển ODA lớn cho Việt
Nam, cũng không phải là nước bỏ vốn đầu tư trực tiếp (FDI) thuộc TOP 10 ở
Việt Nam.
Nếu tính
theo số các dự án FDI còn hiệu lực, hơn 20 năm qua, FDI từ Trung Quốc chỉ
có 3,184 tỷ USD, đứng thứ 14 và chiếm 4% tổng vốn FDI của 92 quốc
gia, vùng lãnh thổ đã đến Việt Nam. Riêng năm 2010, Trung Quốc đứng
thứ 11 với tổng vốn 364,6 triệu USD, chỉ chiếm hơn 1% tổng vốn FDI cả năm của
Việt Nam.
Thế
nhưng, thực chất, dòng vốn Trung Quốc chảy vào Việt Nam lại không hề nhỏ.
Cho tới
nay, chưa có bộ ngành nào thống kê cụ thể, Việt Nam đã vay bao nhiêu tiền của
Trung Quốc. Chỉ thấy rằng, ở hầu khắp các ngành
công nghiệp, năng lượng của Việt Nam, vốn vay ưu đãi lãi suất thấp từ Trung
Quốc đang đóng vai trò rất quan trọng, chủ yếu là từ đầu mối Ngân
hàng Xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank).
Đơn cử
như ở ngành điện, trong tổng số 9 dự án nhiệt điện do Tập đoàn Than –
Khoáng sản làm chủ đầu tư, hiện có 4 dự án vay vốn
tín dụng xuất khẩu hoặc ODA của Trung Quốc.
Đó là
các dự án nhiệt điện Cao Ngạn, Sơn Động, Cẩm Phả, Mạo Khê đều chủ yếu vay
tín dụng xuất khẩu của ngân hàng China Eximbank. Dự án có tổng vốn đầu tư
ít nhất cũng hơn 3.500 tỷ đồng. Các dự án điện của Tập đoàn Điện lực Việt
Nam (EVN) cũng vay từ ngân hàng này không hề ít, ví dụ như dự án nhiệt điện
Quảng Ninh 1 và 2, dự án Hải Phòng 1 và 2, dự án nhiệt điện Uông Bí mở rộng…
Mới đây
nhất, 18/12/2010, Bộ Tài chính cũng đã ký hiệp định vay 300 triệu USD
với China Eximbank cho dự án nhiệt điện Vĩnh Tân 2 (2 x600MW).
Trung
bình mỗi dự án điện công suất 300MW trở lên của Việt Nam có tổng vốn đầu tư
trên 500 triệu USD. Nếu dự án vay từ China Eximbank thì nguồn vốn này thường
chiếm khoảng 85% tổng vốn đầu tư.
Như vậy,
ước tính, tổng vốn vay của Trung Quốc chỉ riêng cho
ngành điện Việt Nam đã là con số hàng tỷ USD.
Không chỉ
là ngành điện, nguồn tín dụng ưu đãi của Eximbank còn có mặt ở nhiều dự án
trọng điểm của các ngành công nghiệp khác. Ví dụ như ngành hóa chất với dự
án đạm từ than cám Ninh Bình do Tổng công ty Hóa chất Việt Nam làm chủ đầu
tư, cũng sử dụng nguồn vốn 500 triệu USD theo hiệp định tín dụng xuất khẩu
ký với Trung Quốc. Dự án sản xuất khuôn mẫu và trục in nhựa của Tổng công
ty Nhựa Việt Nam cũng vay tín dụng ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc trị giá
50 triệu Nhân dân tệ.
Trao đổi
với PV. VEF, một lãnh đạo ở Bộ Công Thương từng chia sẻ, khi các nhà thầu
Trung Quốc vào Việt Nam, nhận thấy điểm yếu là thiếu vốn, họ nhanh chóng đặt
vấn đề: nếu phía Trung Quốc lo thu xếp vốn được cho dự án thì bù lại, hãy
giao dự án đó để họ làm.
Với một
lời đề nghị hấp dẫn như vậy thì quả thực, các chủ đầu tư Việt Nam khó lòng
từ chối. Theo thông lệ quốc tế, khi đã nhận vốn vay của một nước, chủ đầu
tư sẽ phải tổ chức đấu thầu hạn chế, chỉ mở thầu cho các nhà thầu nước cho
vay tham gia. Đó là lý do bất khả kháng để các dự án lớn trên của Việt Nam
phải chọn nhà thầu Trung Quốc và nhập khẩu lớn thiết bị, máy móc của nước
này.
Trở
đi mắc núi, trở lại mắc sông
Nhưng lẽ
thường, sự hấp dẫn của một chính sách về vốn như vậy bao giờ cũng có tính
hai mặt. Chính sách vay vốn của Trung Quốc có thể rất thông thoáng,
nhưng đôi khi, cũng có vị đắng mà các chủ đầu tư Việt Nam chỉ còn nước “ngậm
bồ hòn làm ngọt”.
Một
chuyên gia trong ngành cắt nghĩa với VEF rằng, ngân hàng của Trung Quốc – với
tư cách là người thẩm định hồ sơ vay vốn, có quyền kiểm duyệt các điều kiện
kỹ thuật trong dự án. Điều kiện đó liệu thích hợp với các nhà thầu của nước
họ không? Từ đó, họ có quyền đòi hỏi phải hạ thấp một số tiêu chí để các
nhà thầu Trung Quốc có cơ hội tham gia thì mới cho vay vốn.
Với kinh
nghiệm 30 năm trong ngành điện, vị chuyên gia này phân tích, giả dụ hiệu suất
lò hơi nhiệt điện trong hồ sơ mời thầu một dự án nhiệt điện than, nếu chỉ
nâng lên 1% để đảm bảo chất lượng, thì ngay lập tức, hàng loạt các nhà thầu
Trung Quốc sẽ bị rớt vì không đạt yêu cầu. Nhưng, chỉ cần hạ 1% hiệu suất
lò hơi theo đề nghị của Ngân hàng Trung Quốc, giá thành máy móc, thiết bị
đã giảm tới 20-30% . Vì yếu tố kinh tế đó, thông thường, cả bên đi vay và
bên cho vay đều chấp nhận.
Một đặc
điểm khác, theo vị chuyên gia này quan sát, trong hồ sơ mời thầu các dự án
nhiệt điện, nếu chú trọng chất lượng, bao giờ cũng có câu,“yêu cầu thiết bị
G7 hoặc chất lượng tương đương”. Nhưng với nhiều dự án nhiệt điện mà vay vốn
Trung Quốc thì thường, những dòng chữ ghi điều kiện như vậy sẽ bị gạch bỏ.
Đến khi dự án đi vào triển khai, chủ đầu tư Việt Nam sẽ vô cùng khó xử khi
rơi vào tình huống phải chấp nhận các thiết bị kém chất lượng một cách miễn
cưỡng.
Vị
chuyên gia giám sát kỹ thuật tại một dự án nhiệt điện chia sẻ, căn cứ để
giám sát chất lượng thiết bị nhập cho dự án chỉ có duy nhất 1 tờ giấy do
nhà thầu cung cấp với tiêu đề “QUALITY CERTIFICATE”, gọi là phiếu chất
lượng. Nhưng, hình thức trình bày và nội dung thông tin lại rất sơ
sài.
Ở tờ phiếu
chất lượng này, chỉ có tên thiết bị, nhà máy sản xuất, mã số đóng gói, mã số
đặt hàng và dòng chữ đề thiết bị đã đạt chuẩn của nhà máy…, không có thông
tin căn cứ theo một tiêu chuẩn quốc tế, quốc gia nào. Phần ký xác nhận phiếu,
lúc là giám đốc nhà máy ở Trung Quốc, lúc là một cán bộ thay mặt giám đốc
ký.
Vị kỹ sư
tại dự án này nhận định, các phiếu này giống như phiếu xuất xưởng. Nó đơn
giản tới mức chẳng cần in phiếu ở Trung Quốc mà có thể in ra ngay tại công
trường Việt Nam như một loại văn bản thông thường.
Trong
khi đó, hợp đồng ký với nhà thầu Trung Quốc thường chỉ ghi, thiết bị đến
công trường phải có “phiếu chất lượng”, nhưng không mô tả rõ, phiếu chất lượng
ấy như thế nào. Rốt cục, khi các tài liệu chứng nhận chất lượng chỉ vỏn vẹn
có thế, chính những người gác cửa về chất lượng dự án trở nên tù mù, bó tay
để thẩm định thiết bị, và chỉ khi nhà máy vận hành, phát sinh trục trặc mới
biết thiết bị … kém cỡ nào.
Ban đầu,
các giám sát viên có thể từ chối không nghiệm thu thiết bị kém chất lượng,
nhưng rồi xảy ra tranh luận với nhà thầu và những áp lực từ nhiều phía… cộng
với việc nhà máy lại vay vốn của chính Trung Quốc, các giám sát kỹ thuật của
Việt Nam sẽ buộc “phải” nghiệm thu công trình dù chưa đạt yêu cầu. Bởi theo
vị chuyên gia này, nếu không nghiệm thu thiết bị, vấn đề giải ngân vốn của
dự án cũng gặp khó khăn.
Thực tế
này cũng đã xảy ra với nhiệt điện Cao Ngạn cách đây 3 năm. Mặc dù nghiệm thu
bàn giao cho chủ đầu tư rồi, nhưng nhà máy này đã phải hoạt động trong tình
trạng vừa chạy, vừa sửa chữa, cải tiến tiếp.
Từng trả
lời trên VEF, Vụ trưởng Vụ Công nghiệp nặng, Bộ Công Thương cho rằng, phải
tăng cường khâu giám sát thiết bị của Trung Quốc đến công trường, nhưng những
câu chuyện trên đã cho thấy, khi chủ đầu tư lại là người đi vay của phía nước
nhà thầu thì mọi sự thật khó. Việc nhận bàn giao nhà máy điện hay không đã
biến thành câu chuyện trở đi mắc núi, trở lại mắc sông.
Nguồn: VEF
|
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment