CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ TRUNG CỘNG TỪ
NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC (1)
Chu Tất Tiến.
Trong năm 2010, nhiều bài vở trên báo chí,
truyền thanh, truyền hình đã vạch rõ bộ mặt bán nước của nhà cầm quyền Công
Sản, đứng đầu là Hồ Chí Minh. Cuốn DVD “sự thật về Hồ Chí Minh” do Linh Mục
Nguyễn Hữu Lễ và bạn hữu thực hiện đã đưa những sự kiện lịch sử để dẫn chứng về
sự bán nước này, và đã được dư luận khắp nơi ủng hộ.
Một số phần tử lưng chừng
ở Việt Nam, sau khi xem xong cuốn phim này đã thay đổi hẳn thái độ và đứng về
phía các nhà Dân Chủ mà đấu tranh chống lại nhóm cầm quyền độc tài bán nước
Cộng Sản Việt Nam.
Ông Nguyễn Văn Văn, một nhà Dân Chủ ở Hà Nội, qua cuộc phỏng
vấn của đài Little Saigon Radio, thứ năm 22 tháng 7, năm 2010, cho biết: “Từ
hơn 30 năm nay, tôi vẫn tin tưởng ở Đảng Cộng Sản, cho mãi đến khi xem cuốn DVD
Sự Thật về Hồ Chí Minh, tôi mới tỉnh ngộ và bắt đầu chiến đấu chống lại cái
đảng bán nước này.”
Tuy nhiên, tất cả những lời tố cáo trên đều do
những người ở về phía đối lập với Bắc Bộ Phủ, cho nên cũng chưa được thành công
tối đa, vì nhiều người đọc, người xem, và người nghe cho rằng đó là những điều
tuyên truyền của những người chống Cộng cực đoan và những thành phần thuộc chế
độ cũ.
Giờ đây, đọc cuốn hồi ký “Ghi chép về việc đoàn cố vấn quân sự Trung
Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp” do Nhà Xuất Bản Lịch Sử Đảng Cộng Sản Trung
Quốc, Bắc Kinh ấn hành năm 2002 và được dịch bởi Trần Hữu Nghĩa và Dương Danh
Dy, toàn bộ diễn tiến nô lệ Trung Cộng đã được phơi bầy một cách rõ ràng.
Qua
cuốn hồi ký viết bởi những nhân vật cao cấp của Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung
Quốc này, người đọc mới hiểu tại sao Hồ Chí Minh và thuộc cấp đã không thể nào
không cúi đầu trước sự chỉ đạo của Trung Cộng, và không thể nào không dâng đất
cho Trung Cộng để trả ơn cứu trợ từ những năm xưa. Điểm đáng nói là cuốn sách
được xuất bản đúng thời điểm mà Trung Cộng từng bước thôn tính Việt Nam, từ
biển Đông, tới Tây Nguyên, và miền cực Bắc Việt Nam.
Có lẽ đây là một lời cảnh
cáo các kẻ cầm quyền Việt Nam: “Đừng quên là Cộng Sản Việt Nam đã từng nợ đàn
anh Trung Quốc từ khi còn Pháp thuộc. Nếu không có đàn anh Trung Quốc viện trợ,
thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã không tồn tại mà tham tham nhũng nhũng, sống huy
hoàng phè phỡn như hôm nay.” Và cũng có lẽ đây là một lời trần tinh về âm mưu
thôn tính Việt Nam của Cộng Sản Trung Quốc, nhằm giải thích cho dư luận biết
tại sao mà Trung Cộng muốn coi Việt Nam như cái sân sau của Trung Cộng.
Qua cuốn hồi ký này, người đọc mới thấy rõ mối
giây liên lạc chặt chẽ giữa hai đảng Cộng Sản: Việt Nam và Trung Quốc, đúng như
lời mà các Đảng Viên Cộng Sản Việt Nam vẫn luôn đọc như đọc thần chú: “ Việt
Nam – Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông” và “Trung Quốc và Việt Nam như
môi với răng, môi hở thì răng lạnh”, thêm 16 chữ vàng: “Láng giềng hữu nghi,
hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Cũng qua những tác giả của cuốn tư liệu này, như
La Quý Ba, Trương Quảng Hoa, Độc Kim Ba, Vu Hóa Thầm, Trần Canh, Như Phụng
Nhất, những nhân vật lừng lẫy trong trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, người
ta biết nhiều dấu mốc quan trọng:
-Năm 1924, Hồ Chí Minh từ Moscow đến Quảng Châu,
học tập lý luận Mác Lê.
-Năm 1930, Hồ chí Minh thành lập đảng Cộng Sản
Đông Dương tại Hồng Kong.
-Năm 1938, Hồ chí Minh đến Diên An, tăng cường
quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Sau đó, mối quan hệ song phương càng ngày được
phát triển. Tháng 10 năm 1940 Hồ Chỉ Minh đến Quế Lâm, thành lập văn phòng Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Trên danh nghĩa thì Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội
này, sau được gọi tắt là Việt Minh, được hoàn toàn “độc lập” theo như tinh thần
của bản tuyên ngôn, nhưng thực tế vẫn Độc Lập dưới sự chỉ đạo của Trung Cộng!
Tháng 1 năm 1950, Hồ Chí Minh đóng giả vai người
già bị thương, đầu quấn khăn mặt, tay chống gậy, sang cầu viện Tầu Cộng.
Trần đăng Ninh, một cán bộ lão thành trong đảng Cộng Sản hộ tống và đôi khi
cõng Hồ Chí Minh sang qua cửa Thủy Khẩu thuộc Long Châu, Quảng Tây. Sau đó, Hồ
Chí Minh mới được đưa sang diện kiến Trung Ương Đảng Công Sản. Lưu Thiếu Kỳ
tiếp Hồ Chí Minh tại Trung Nam Hải. Phía Trung Cộng có Chu Đức, Đồng Tất
Vũ, Lưu Bá Thừa, Nhiếp Vinh Trần, Lý Duy Hán. Phía Việt Minh có Trần Đăng Ninh,
Hoàng văn Hoan.
Sau mấy buổi họp đầu tiên không mấy thành công, Hồ Chí Minh
muốn đi Liên Xô cầu viện. Vì cũng chưa sẵn sang yểm trợ cho Hồ Chí Minh, nên
Lưu Thiếu Kỳ báo cáo với Mao Trạch Đông về việc này, và dàn xếp cho Hồ Chí Minh
đi theo Mao Trạch Đông đến Liên Xô. Chuyến đi thất bại. Stalin không chịu viện
trợ cho Hồ Chí Minh chống Pháp, mặc dù Mao Trạch Đông giới thiệu và năn nỉ, vì
trong suốt chuyến đi, Hồ Chí Minh đã biểu diễn thành công màn kịch là một tay
đàn em khả tín, biết quỵ lụy và vâng phục.
Vì thế, khi về đến Trung Nam Hải,
Mao Trạch Đông và Lưu Thiếu Kỳ quyết định giúp Hồ Chí Minh bằng một phái đoàn
Cố Vấn tối cao do Vi Quốc Thanh, nguyên Phó Tư Lệnh Lực Lượng Công An Trung
Cộng làm trưởng đoàn. Nhóm Cố Vấn này được Hồ Chí Minh ra lệnh cho toàn thể
đảng viên goi là “Các đồng chí Cố Vấn Vĩ Đại Trung Quốc.”
Đồng thời với việc gửi đoàn Cố Vấn Vĩ Đại sang
Việt Nam mở đầu chiến dịch giúp Hồ Chí Minh, Trung Cộng viện trợ 150,000 khẩu
súng, hơn 3,000 khẩu pháo, và đạn dược, xe cộ, quần áo, lương thực, đồ dùng
hàng ngày như bát ăn cơm tráng men, khăn bông. (Trích bài viết của Trương
Quảng Hoa, một Cố Vấn Vĩ Đại của Hồ Chí Minh).
Đến năm 1945, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành
lập vào 2 tháng 9 năm 1945 nhưng không được nước nào công nhận, trừ Trung Cộng.
Staline mới đầu từ chối không công nhận cho đến khi Trung Cộng công nhận rồi,
mới chịu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Minh.
Thực hiện tích cực việc yểm trợ cho Cộng Sản
Việt Nam, Trung Cộng đã chỉ đạo, giúp đỡ vũ khí, lương thực, Cố Vấn, chiến lược
cho Việt Minh đánh Pháp. Mở đầu là Chiến dịch Biên giới đánh Đông Khê (Thất
Khê, Cao Bằng) năm 1950. Các trận đánh này đều do các Cố Vấn Trần Canh, Nhiệm
Cùng, Vân Dật, Thiên Hựu, Quí ba, Kiếm Anh, Phương Phương, Quốc Thanh định
đoạt. (Trích thư của Hồ Chí Minh gửi đảng Cộng Sản Trung Quốc ngày 14/10/50).
Từ đó, các thắng lợi khác với quân Pháp cũng đều
do Cố Vấn Trung Quốc chỉ đạo. Những cố vấn này lại nhận chỉ thị trực tiếp của
Lưu thiếu Kỳ vì Mao Trạch Đông giao cho Lưu Thiếu Kỳ trách nhiệm điều khiển
Việt Minh.
Chiến dịch viện trợ vĩ đại nhất mà Trung Cộng
giúp Việt Cộng là Trận Điện Biên Phủ. Thắng lợi hoàn toàn là do Cố Vấn Vi Quốc
Thanh chỉ huy. Trước trận chiến quyết định này, có một số trận đánh khác nhằm
để tiêu hao lực lượng quân Pháp. Từ ngày 20 tháng 1 năm 1954, các chiến lược
tấn công từ Tây Bắc xuống đến phía Nam như Kontum, Pleiku, Tây Nguyên, Phú Yên…
đều do Vi Quốc Thanh hoạch định. Võ nguyên Giáp chỉ biết thi hành theo chiến
thuật.
Sau khi thắng lợi được vài trận, Vi Quốc Thanh quyết định nhận lời đánh
Điện Biên Phủ theo lời năn nỉ của Võ Nguyên Giáp. Mới đầu, vì quân Pháp không
nắm vững được tin tức về sự chỉ huy của Vi Quốc Thanh, nên còn gửi thư thách
thức Việt Minh. De Castries, tư lệnh quân Pháp ở Điện Biên Phủ, viết thư cho Võ
Nguyên Giáp:
“Tôi biết bộ đội của ông đã bao vây Điện Biên
Phủ, nhưng vì sao không tấn công? Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi. Nếu ông có gan dám
mở tấn công, thì xin bắt đầu đi. Tôi đang chờ đón những thách thức của ông,
quyết một phen thắng bại với ông”.
Thư được trình lên Vi Quốc Thanh, hắn cười nói:
“Lão De Catries này ngông cuồng lắm! Hãy đợi
đấy! Đến lúc chiến dịch mở màn, là lúc hắn khóc.”
Người phiên dịch báo cáo :
“De Castries là một danh tướng của Lục Quân Pháp
là cấp dưới cũ của Navarre , đã qua trường Quân sự, là học viên ưu tú. Hắn vốn
quân hàm Đại Tá, gần đây vừa được phong Thiếu Tướng.
Vi Quốc Thanh nói:
“Thế thì hãy để xem chúng ta học được cái gì ở
học viên ưu tú này, xem họ có tài chỉ huy đến đâu!”
Và thế là mọi kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ
đều do Vi Quốc Thanh chỉ đạo. Từ Hồ Chí Minh đến Võ Nguyên Giáp đều im re, nghe
lệnh của Vi Quốc Thanh.
Sau khi thắng trận, Hồ chí Minh mở tiệc chiêu
đãi Vi Quốc Thanh, và ôm hôn tay Đại Cố Vấn này. Hồ Chí Minh còn làm một bài
thơ chữ Hán tặng Vi Quốc Thanh:
Bách Lý tầm xuân vi ngộ quân
Mã đề đạp toái lĩnh đầu văn
Quy lai ngẫu quá sơn mai thụ
Mỗi đóa hoàng hoa nhất điểm xuân
(Trăm dặm tìm bạn nhưng không gặp, vó ngựa dẫm
nát mây đỉnh núi, Quay về tình cờ gặp cây mai rừng, mỗi đóa hoa vàng một điểm
xuân). (Trích tài liệu của đại cố vấn Vương chấn Hoa tức Vu Hóa Thầm).
Từ đó, cho đến 30-4-1975, nhất cử nhất động đều
do Đại Cố Vấn Trung Quốc chỉ huy và yểm trợ. Ngoài việc viện trợ súng đạn và
lương thực, Trung Cộng còn cung cấp nhân sự. Các binh lính Trung Cộng đều trá
hình làm lính hậu cần.
Trong thời gian giúp cho Việt Cộng thành công
việc cưỡng chiếm miền Nam, Trung Cộng đã để lộ dã tâm muốn đòi nợ chiến tranh
bằng lãnh thổ. Khi Nixon dội bom Bắc Việt, Trung Công cho thiết lập giàn rada
phòng không từ bên trong đất Bắc. Sau khi chiến tranh chấm dứt, Trung Cộng
không rút về, mà biến thành đất của phương Bắc luôn.
Dàn phòng không này, hiện
nay, được biến cải thành pháo đài vừa phòng không vừa có thể phóng hỏa tiễn tấn
công, lại được dùng để khống chế Việt Cộng. Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt Nam tuy
biết là Trung Cộng xâm lăng một cách âm thầm, nhưng vì nợ ơn nhiều quá, nên
phải im lặng, và lại cũng biết rằng, nếu chỉ một câu nói gây bất bình cho các
đại cố vấn, thì tình hình nguy ngập liền.
Trận chiến năm 1979 xẩy ra không phải vì Việt
Cộng muốn đấu lại “cha đỡ đầu” (God Father) Trung Cộng mà vì Trung Cộng bực tên
đàn em đã xua quân qua chiếm Campuchia mà không xin phép đàn anh, nên mới “dậy
cho Việt Nam một bài học”. Sau trận này, Việt Cộng khiếp hãi, không bao giờ dám
làm mất lòng đàn anh nữa.
Hiện nay, ở miền Bắc, Trung Cộng chiếm hết các
đỉnh cao để đặt rada, thêm vài ngàn cây số vuông cưỡng chiếm bằng cách dời cột
mốc, cộng với tất cả các rừng đầu nguồn, dưới danh nghĩa là “cho thuê”. Tại cửa
“khẩu”, hàng hóa Tầu và hàng giả mạo quốc tế tự do tràn vào Việt Nam không kiểm
soát, không đóng thuế. Công An Việt Cộng đứng hút thuốc lá Tầu, nhìn dân “cửu
vạn” Việt khiêng hàng Tầu vào ào ạt và chờ đợi cho những hàng dỏm, hàng Tầu này
giết chết hết hàng nội địa Việt Nam.
Tại Tây Nguyên, Trung Cộng vừa khai thác Bo xit,
vừa thiết lập giàn phòng không thứ hai, và đặt máy trinh thám, theo dõi các
hoạt động của Bộ Chính Trị và quân đội. Chung quanh các khu vực Trung Cộng khai
thác này, người dân Việt phải tuân theo luật lệ của lính Tầu, nếu không muốn bị
bắt, đánh đòn, và nộp tiền chuộc mạng. Lính Tầu giả dạng công nhân có toàn
quyền bắt cóc gái Việt, cưỡng bức lấy chúng, nếu không thì chúng cưỡng hiếp.
Những đứa trẻ đẻ ra bởi các cuộc hôn nhân cưỡng hiếp này được khai sinh dưới
tên Tầu.
Dần dần chúng biến dân Việt thành dân Tầu qua thẻ căn cước, những ai
có thẻ căn cước Tầu sẽ được hưởng tiện nghi đặc biệt hơn dân Việt. Nếu dân làng
phản đối, lính Tầu có thể tung hàng trăm người tràn vào làng, dùng gậy phá nhà,
đánh đập dân chúng trong khi Ủy Ban Nhân Dân và công an Việt Cộng bỏ chạy.
Nhiều nhà nghiên cứu cho biết, thực ra, Trung Cộng cũng cần có bô xít để làm
nhôm, nhưng mục tiêu chiếm lĩnh Việt Nam lại quan trọng hơn. Do đó, cho đến
nay, tháng 7 năm 2010, vẫn chưa thấy ký lô nhôm nào xuất xưởng.
Trung Cộng cũng “trúng thầu” khai thác con đường
xuyên Bắc Nam, đi dọc theo những tỉnh thành quan trọng. Bên cạnh con đường đó
là tất cả các dịch vụ phục vụ cho văn hóa Tầu. Ngoài biển Đông, Trung Cộng
khống chế thủy lợi, dành quyền khai thác thủy sản, bắt ngư dân Việt phải theo
luật lệ của chúng, nếu không, sẽ bị bắt, bị giết, bị tịch thu tầu và các phương
tiện đánh cá, ngoài ra, phải nộp tiền chuộc mạng.
Nhìn chung, Việt Nam ngày nay là cái sân sau của
Trung Cộng. Những tên Thái Thú Trung Cộng này văn minh hơn xưa, không bắt dâng
nộp gái tơ, ngà voi, tê giác, ngọc trai như xưa, nhưng tha hồ mua gái Việt với
giá rẻ như bèo, và hưởng thụ tài nguyên cùng nhân lực Việt Nam không tốn một
viên đạn.
Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, đang thực hiện đúng đắn những phương
châm lãnh đạo đất nước là “Đảng lãnh đạo, Nhà Nước quản lý, Nhân Dân làm Chủ”
Họ chỉ dấu đi hai chữ “Trung Cộng” sau những nhóm chữ đó. Nhóm chữ này, nếu
viết đầy đủ, sẽ là : Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh đạo, Nhà Nước Việt Nam quản
lý, Nhân Dân Trung Quốc làm chủ kinh tế Việt Nam.
CỘNG SẢN VIÊT NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ CỦA TRUNG CỘNG TỪ
NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC (2)
Trong bài thứ nhất, một số tư liệu đã được liệt
kê, chứng minh Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lệ thuộc Đảng Cộng Sản Trung Quốc từ
nhiều năm trước. Qua bài viết “Mẫu Mực sáng ngời của Chủ Nghĩa Quốc Tế Vô Sản”
do La Quý Ba (Luo Guibo), Trưởng Đoàn Cố Vấn Chính Trị cho Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa từ 1951-1954, Đại Sứ Trung Quốc tại VNDCCH từ 1954-1975, xuất bản bởi
Bắc Kinh năm 2002, độc giả còn được biết thêm nhiều chi tiết về vấn đề hữu nghị
“anh-em” nhưng thực chất là “nô lệ, cha-con” này.
La Quý Ba viết:
“Tháng 1, 1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến
Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống
Pháp. Trung ương đảng ta theo yêu cầu của Hồ chí Minh và Trung ương Đảng Đông
Dương, đã báo cáo và được Mao Chủ Tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí mật sang
Việt Nam, làm đại diện liên lạc giữa Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc và
Trung Ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ còn tự tay viêt giấy
giới thiệu cho tôi:
“Xin giới thiệu đồng chí La Quý Ba, Bí thư Tỉnh
Ủy và chính ủy trong quân đội của chúng tôi đến chỗ các đồng chí làm đại diện
liên lạc của Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đi theo có 8 tùy tùng.
Lưu Thiếu Kỳ , Bí Thư Trưởng Trung Ương Đảng
Cộng Sản Trung Quốc, ngày 17/1/1950”
Sau khi nêu lên tình hình chiến tranh Việt Nam
với sự can thiệp của Anh, Pháp, và Quốc Dân Đảng Trung Quốc cùng đến Việt Nam
để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật, La Quý Ba cho biết là “vào thời điểm này,
trên quốc tế chưa có một nước nào công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa,
không có một tổ chức quốc tế nào đặt quan hệ với Việt Nam, Việt nam chưa giành
được vị thế quốc tế, cũng không được viện trợ bên ngoài.
Vấn đề viện trợ Việt
Nam chống quân xâm lược thực dân Pháp như thế nào là một việc lớn mà lãnh đạo
tối cao ba phía Trung Quốc, Việt Nam, Liên Xô trao đổi bàn bạc.” La quý Ba xác
nhận rằng Hồ Chí Minh đã vội vã đề nghị các nước Xã Hội Chủ Nghĩa công nhận
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng Liên Xô đã bác bỏ ngay, chỉ có Trung Cộng công
nhận Việt Cộng mà thôi. Sau khi Trung Cộng công nhận Việt Cộng rồi, thì Liên Xô
mới chính thức giao hảo sau.
La quý Ba kể rõ chi tiết về việc Hồ Chí Minh bị Liên Xô từ chối viện trợ:
La quý Ba kể rõ chi tiết về việc Hồ Chí Minh bị Liên Xô từ chối viện trợ:
“Hồ Chí Minh từ xa xôi nghìn trùng đến Trung
Quốc, đi Liên Xô là để mong được sự viện trợ nhiều mặt, nhất là viện trợ về
quân sự và kinh tế tài chính. Stalin cho rằng, Trung Quốc là nước láng giềng
của Việt Nam, hiểu rõ tình hình Việt Nam, còn Liên Xô và các nước Đông Âu chịu
nhiều vết thương chiến tranh nặng nề trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên
Xô còn phải giúp đỡ các nước XHCN Đông Âu khôi phục và xây dựng, trên vai còn
rất nặng gánh, mong rằng nhiệm vụ viện trợ Việt Nam, Trung Quốc là chính.”
Từ đó, Trung Cộng công khai giúp đỡ Việt Minh về
mọi mặt. Bắt đầu từ những trận đánh lớn với quân Pháp. Những điều mà La Quý Ba
kể lại sau đây đã đánh đổ huyền thoại Võ Nguyên Giáp và quân đội Nhân Dân, vì
theo lời kể của La, thì hầu như mọi trận đánh đều được các “đồng chí Cố Vấn
Trung Quốc Vĩ Đại” chỉ thị. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình chiến tranh
giữa Việt Minh và Pháp, La Quý Ba nhận xét:
“Bước đầu tiên viện trợ Việt Nam là phải khai
thông giao thông biên giới Trung-Việt, vì có thế vật tư viện trợ Việt Nam mới
có thể chở sang Việt Nam thuận lợi. Chỉ cần quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm
con đường giao thông chủ yếu trên biên giới Trung-Việt thì quân Pháp sẽ mất ưu
thế số một.
Chỉ có hai lựa chọn khai thông con đường giao thông chủ yếu biên
giới Trung-Việt: một là đánh Cao Bằng tiếp giáp giữa Việt Nam và Quảng Tây; một
nữa là đánh Lào Cai tiếp giáp giữa Việt Nam và Vân Nam. Đánh Cao Bằng trước hay
đánh Lào Cai trước, hay là đánh cả hai cùng một lúc, Trung Ương đảng Cộng Sản
Đông Dương và Trung Ương đảng ta đều đã điều tra nghiên cứu, suy nghĩ trao đổi
nhiều lần gần 3 tháng. Ngày 02/07/1950, Mao Chủ Tịch gửi điện trả lời Trung
Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam:
“Đồng ý ý kiến đánh Cao Bằng trước, phương án
tác chiến cụ thể đối với Cao Bằng, chờ sau khi Trần Canh đến, do các đồng chí
quyêt định cuối cùng….”
Như thế, mọi việc đã rõ: Trung Cộng chỉ đạo cho
Việt Cộng từng chi tiết chiến tranh. Trần Canh là nhân vật cố vấn tối cao về
chiến tranh Việt Nam, không phải Võ Nguyên Giáp cũng không phải Hồ chí Minh. Dĩ
nhiên, Mao Trạch Đông là lãnh tụ cao nhất.
Vì thế, trong tất cả các cuộc mít tinh của Việt
Cộng, hình Mao Trạch Đông, Stalin luôn được treo lộng lẫy trên cao, trong khi
hình Hồ Chí Minh chỉ được treo phía dưới.
Ngoài ra, các cố vấn Trung Cộng là các chỉ huy
trực tiếp của Việt Cộng. Lính Trung Công thì được giả trang thành các đầu bếp
hoặc lính cần vụ để che mắt quốc tế.
Quân Ủy và Bộ Chính Trị Trung Cộng giữ vai trò
chủ đạo từ xa. Ai cũng biết, với vai trò Chủ Tịch Đảng Công Sản Trung Quốc, Mao
Trạch Đông nhất định không có thời gian mà bàn luận về chiến lược các trân
chiến với Việt Cộng, chỉ có thể nghe qua những lời tâu của Bộ Chính Trị, của
Quân Ủy trung ương mà quyết định. Một khi mà Bộ Chính Trị và Quân Ủy Trung Ương
muốn tâu trình lên Mao Chủ Tịch, phải họp bàn liên miên rồi mới quyết định ra
một chiến lược cuối cùng. Như đã viết ở trên, trận đánh Tây Bắc đã được bàn
thảo gần 3 tháng mới được lệnh của Bắc Kinh mà thi hành.
Nhưng như thế vẫn chưa đủ cho tinh thần nô lệ
của Hồ Chí Minh. La quý Ba kể thêm về sự khẩn nài của Hồ Chí Minh như sau:
“Mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh một lần nữa bí
mật đến Bắc Kinh thăm Trung Quốc.”
Sau khi kể về việc ôm hôn thắm thiết, La Quý Ba
cho biết:
“Trong trao đổi, Hồ chí Minh hỏi Mao Chủ Tịch:
“Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi yêu cầu đồng
chí La Quý Ba khi tham gia hội nghị Bộ Chính Trị Trung Ương chúng tôi nêu nhiều
ý kiến về các mặt công tác của chúng tôi, giúp đỡ nhiều cho chúng tôi. Nhưng
đồng chí quá thận trọn, quá khiêm tốn. Tôi mong các đồng chí giao cho đồng chí
ấy nêu nhiêu ý kiến. Mao Chủ Tịch, các đồng chí có đồng ý không?”
Đây là một câu nói xã giao kiểu cách, có tính
chất chính trị. Thay vì nói thẳng là “chúng tôi mong đồng chí ấy chỉ dậy thêm
cho chúng tôi”, thì lại nói khéo là xin “giao cho đồng chí ấy nêu nhiều ý
kiến!”
Hồ Chí Minh còn đóng kịch là một đệ tử chân
thành: “Hồ chí Minh là người rất giầu tình cảm, nhìn thấy rõ người bị truyền
cảm bởi sự chân thành của Mao Chủ Tịch, Người đứng dậy nói:
“Tôi và các đồng chí Việt Nam đều cảm nhận sự chân thành giúp đỡ chúng tôi từ trong hành động của các đồng chí”.
“Tôi và các đồng chí Việt Nam đều cảm nhận sự chân thành giúp đỡ chúng tôi từ trong hành động của các đồng chí”.
La quý Ba còn kể nhiều chi tiết về bữa cơm thân
mật với Mao Chủ Tịch, trong đó Hồ Chí Minh khoe về tài ăn ớt chỉ thiên của
mình.
Sau lần ăn cơm thân mật nói chuyện về ớt đó, thì
hầu như mọi việc sinh hoạt của đảng Cộng Sản Việt Nam đều được chỉ thị của
Trung Cộng:
“Dù là điện của Trần Canh, Vi Quốc Thanh và tôi xin chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương đảng đối với chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến (như chiến dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Bắc. v.v..) xây dựng bộ đội và huấn luyện bộ đội, hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây dựng tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính kinh tế, công tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế và công tác công an, tình báo, dân tộc thiểu số..v.v.. Mao Chủ Tịch đều đích thân phê duyệt, sửa chữa, ký cho chuyễn đi, trong đó có những bức điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ Tịch tự khởi thảo, khi trả lời các bức điện của Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam trưng cầu ý kiến Trung Ương Đảng hoặc các bức điện quan trọng của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng nêu ý kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh…”
“Dù là điện của Trần Canh, Vi Quốc Thanh và tôi xin chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng hay chỉ thị của Mao Chủ Tịch, Trung Ương đảng đối với chúng tôi, dù là bức điện về mặt tác chiến (như chiến dịch Biên Giới, chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Tây Bắc. v.v..) xây dựng bộ đội và huấn luyện bộ đội, hay là những bức điện vấn đề quan trọng về mặt xây dựng tư tưởng và xây dựng tổ chức của Đảng, công tác tài chính kinh tế, công tác cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế và công tác công an, tình báo, dân tộc thiểu số..v.v.. Mao Chủ Tịch đều đích thân phê duyệt, sửa chữa, ký cho chuyễn đi, trong đó có những bức điện đặc biệt quan trọng, Mao Chủ Tịch tự khởi thảo, khi trả lời các bức điện của Hồ Chí Minh, Trung Ương Đảng Lao Động Việt Nam trưng cầu ý kiến Trung Ương Đảng hoặc các bức điện quan trọng của Mao Chủ Tịch, Trung Ương Đảng nêu ý kiến hoặc kiến nghị với Hồ Chí Minh…”
Qua sự trình bầy của La quý Ba, sự việc đảng
Cộng Sản Việt Nam là nô lệ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã rõ ràng. Ngay cả
việc đấu tố trong cải cách ruộng đất cũng là một bài học mà học trò Việt Cộng
thực tập với quan thầy Trung Cộng, với xác và máu trên ba trăm ngàn người Dân
Oan cũng như cán bộ bị sửa sai.
Chưa kể giai đoạn sau, khi gây chiến với Miền
Nam, Việt Cộng còn nợ Trung Cộng không biết bao nhiêu súng đạn, quân trang,
quân dụng và thực phẩm. Những Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, sau khi bị lừa
váo các trại cải tạo đều có chế độ ăn uống giống nhau: Gạo Trung Cộng đầy sâu
bọ bò lổn nhổn trong các bao gạo mốc ẩm, mà lớp mốc ẩm có thể dầy đến một xăng
ti mét.
Điều này chứng tỏ Việt Cộng sống dựa vào “đàn anh – cha nuôi – ông chủ”
Trung Cộng tối đa, chưa kể khi Mỹ thả bom miền Bắc, Việt Cộng đã phải cầu cứu
Trung Cộng mang các giàn ra đa tối tân và hệ thống súng phòng không dầy đặc
không gian miền Bắc. Trung Cộng đã thừa cơ hội, mang quân và ra đa sang miền
Bắc, thiết lập doanh trại với các biện pháp an ninh tối đa, sau đó, thản nhiên
sát nhập các vùng có ra đa này thành vùng của Tầu, mà không có ý định trả lại.
Từ các doanh trại cực kỳ an ninh này, Trung Cộng đã khống chế toàn bộ miền Bắc
qua các máy móc gián điệp cực kỳ tinh vi, theo dõi các lãnh đạo Bắc Bộ phủ, rồi
“black mail” đe dọa những kẻ muốn trở cờ, hay thăng thưởng cho những tên đầy tớ
trung thành bằng tiền bạc hay chức vụ.
Như thế, việc Phạm Văn Đồng ký giấy công nhận
chủ quyền của Trung cộng trên Hoàng Sa cũng chỉ là một biện pháp trả nợ. Việc
Việt Cộng lờ đi sự ăn hiếp của Trung Cộng trên biển Đông, núp tránh việc ngư
dân bị bắn, giết, phá tầu, đòi tiền chuộc, việc ký khai thác Bô Xít, cho thuê
rừng đầu nguồn, cho thắng các cuộc đấu thầu từ Nam ra Bắc… cũng chỉ là vấn đề
trả nợ mà thôi.
Dân Việt Nam, nếu muốn được sống oai hùng, độc
lập,không sợ Trung Cộng ăn hiếp, thì dứt khoát phải lùa cái đảng Cộng Sản Việt
Nam nô lệ này xuống biển. Còn Việt Cộng thì còn Trung Cộng đứng sừng sững sau
lưng với cái búa đòi nợ!
CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ LÀ NÔ LỆ CỦA TRUNG CỘNG TỪ
NHIỀU THẬP NIÊN TRƯỚC (3)
Trong cuộc nói chuyện riêng với Tiến Sĩ Lê Quốc
Quân tại Sài gòn ngày 9 tháng 8 vừa qua, ông có vẻ vui mừng cho biết là hiện
nay Hà Nội đang khởi động một khí thế mới nhằm chống lại sự khống chế của Trung
Cộng. Một nhà Dân Chủ khác, ông Nguyễn Văn Văn ở Nghệ An, cho rằng ngoài việc
tăng cường sức mạnh quân đội, Nhà Nước đang từng bước tiến tới việc thay thế
ảnh hưởng của Trung Quốc bằng Hoa Kỳ. Việc Ngoại Trưởng Hilary Clinton tuyên bố
ngăn chặn sự độc quyền di chuyển của Trung Cộng trên biển Đông cũng đã làm cho
nhân dân Việt Nam nức lòng chờ đợi.
Thêm vào đó, sự kiện chiến hạm John S.
McCain ghé bến Đà Nẵng và 3 chiến hạm Curtis Wilbur, Chung-Hoon, McCampbell bỏ
neo ngoài khơi trong tháng 8 năm 2010 cũng là một dấu chỉ cho thấy Mỹ cũng đang
tìm cách lấy lại ảnh hưởng với Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam. Một số bình
luận gia còn cho rằng việc Hàng Không Mẫu Hạm USS George Washington mời các
tướng lãnh Cộng Sản Việt Nam lên thăm tầu khi đang neo ở khoảng cách giữa Đà
Nẵng và Hoàng Sa là một cử chỉ thiết thực nhất của việc liên kết giữa Việt Cộng
và Hoa Kỳ trong tương lai để chống lại mộng bá quyền của Trung Cộng.
Nhưng một trí thức khác, Kỹ Sư Nguyễn Trung
Lĩnh, người đã từng ở Âu Châu 12 năm, nay đang hoạt động tại Hà Nội lại có quan
điểm hoàn toàn ngược lại. Ông nói: “Đừng vội sung sướng với những biểu hiện bề
ngoài đó!” Trong một cuộc nói chuyện dài khoảng 30 phút, ông cho rằng nhà cầm
quyền Cộng Sản Việt Nam khó lòng thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Cộng đang đè
nặng lên dân Việt. Theo ông có hai cách duy trì vị trí “vĩ đại” của Trung Cộng
trên đất Việt. Trước hết, Trung Cộng tìm cách khống chế các lãnh đạo cao cấp
Việt Cộng qua những món nợ từ trong cuộc kháng chiến chống Pháp đến cuộc chiến
tranh Việt Nam.
Từ Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Nông Đức Mạnh, đến
Nguyễn Chí Vịnh.. đều bị Trung Cộng khống chế bằng lá bài chính trị. Họ không
thể nào thoát ra khỏi vòng kềm tỏa của Trung Cộng. Mọi cuộc thăng chức hay bãi
chức đều do Cố Vấn Trung Quốc chỉ đạo. Từ đó, cho dù Việt Nam không có treo cờ
Trung Cộng trên khắp ngả đường, bàn tay vô hình của Trung Cộng vẫn luôn đặt
trên đầu các lãnh đạo Việt Nam. Thứ hai, Trung Cộng tìm cách mua chuộc để thắng
hầu như tất cả các cuộc đấu thầu những công trình vĩ đại, to lớn. Trung Cộng
thường “lại quả” đến 30% cho một chương trình đấu thầu. Số tiền này lại không
đến từ Trung Cộng mà đến từ những khế ước đấu thầu cho Việt Nam, tức là, Tầu
dùng tiền Việt mua chuộc quan chức Việt.
Nói một cách cụ thể, nếu một công trình trị giá
5 tỷ đô la được thực hiện ởViệt Nam, Trung Cộng lấy ra 30% tức là 1 tỷ rưỡi đô
la để chi cho các quan lớn. Một số tiến khùng khiếp làm cho tất cả những tâm
hồn tham nhũng không thể không rung động.
Môt giới chức cao cấp của Cộng Sản,
còn đang trong vòng hoạt động Dân Chủ một cách bí mật, nói rằng vụ Trung Cộng
chi cho Nguyễn Tấn Dũng 150 triệu đô để thực hiện dự án Bô xít Tây Nguyên là có
thật. Vụ này được một số Dân Biểu phe chống Nguyễn Tấn Dũng đưa ra trước Quốc
Hội để tố khổ Dũng, nhưng vì tỷ lệ của phe có ăn chia với Thủ Tướng quá đông,
nên dự định này bị dìm chết ngay lập tức. Ngay trước khi họp Quốc Hội, một phát
ngôn viên đã ra thông báo là chuyện này được Quốc Hội thông qua rồi, nên khỏi
bàn tới.
Trong giới thạo tin ở Sài Gòn cũng có vài lời xì
xào về việc cựu Chủ Tịch Lê Đức Anh bị tố cáo ăn ngủ với một nữ gián điệp Trung
Cộng khi sang Bắc Kinh và bị chụp hình quả tang trong những tư thế không đẹp,
nhưng rồi lại đâu vào đó, các bản tin đó lập tức bị chìm chết liền, không thể
lọt ra ngoài đến tai nhân dân. Nhưng có một việc mà Bộ Chính Trị không thể ngăn
được đó là việc Tổng Cục 2 do Nguyễn Chí Vịnh cầm đầu đang bị một nhóm tướng
lãnh tố cáo đã có những hành vi qua mặt luật pháp một cách công khai. Tuy trên
giấy tờ và danh hiệu chỉ là số “2” nghĩa là còn dưới số “1”, Nguyễn Chí Vịnh
còn đứng dưới Bộ Trưởng Quốc Phòng, nhưng gần đây số “2” này đang lộng hành,
dưới sự chỉ đạo của Trung Cộng.
Tổng Cục 2 không chừa một chỗ nào mà không
“chọc”, từ Tình Báo, Kinh Tế, Chính Trị, đến quân sự. Bằng chứng rõ rệt nhất
là vào đầu tháng 8 năm 2010, Nguyễn chí Vịnh đã trả lời phỏng vấn của báo South
China Morning Post về sự liên hệ giữa Trung Cộng và Việt Nam. Theo nguyên tắc thông
thường, chỉ có Bộ Trưởng Quốc Phòng mới có quyền trả lời những cuộc phỏng vấn
như vậy, và mỗi lần phỏng vấn, phải hỏi ý kiến Bộ Chính Trị.
Đằng này, Nguyễn
Chí Vịnh khơi khơi nịnh bợ Trung Cộng khi trả lời một tờ báo mà ai cũng biết là
gián điệp của Trung Cộng. Vì thế, mà dư luận cho rằng Tổng Cục 2 chính là cánh
tay nối dài của Trung Cộng, và Nguyễn chí Vịnh là một đứa con nuôi của đại sứ
Bắc Kinh.
Cũng theo Kỹ Sư Nguyễn Trung Lĩnh, như vậy, việc
vùng vẫy thoát khỏi quỹ đạo của Trung Cộng là việc “còn lâu!” Rừng đầu nguồn đã
lọt vào tay Trung Cộng một cách chính thức, đường xuyên tốc Bắc Nam đã được
Trung Cộng và Việt Cộng ký kết, nhận cho Trung Cộng độc quyền khai thác khắp cả
đất nước Việt Nam. Hàng dỏm của Trung Cộng tràn ngập, giết chết hàng nội địa.
Và còn hàng ngàn những dịch vụ từ trung bình đến lớn đều nằm trong tay Trung
Cộng.
Trong hai bài trước, người viết đã trình bầy
những dữ kiện liên quan đến việc Hà Nội vẫn là nô lệ của Trung Cộng từ nhiều
thập niên trước, qua tuyển tập phát hành bởi Nhà Xuất Bản Lịch Sử Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, in tại Bắc Kinh, năm 2002, và được dịch bởi Trần Hữu Nghĩa, Dương
Danh Dy, những chuyên viên về Trung Quốc, đang sống ở Việt Nam.
Tuyển tập này
được hiệu đính bởi Dương Danh Dy, có hàng chữ “Tài liệu lưu hành nội bộ” lại
được Tập San Truyền Thông (Canada) số 32 & 33, in lại vào Hạ - Thu 2009.
Người chủ biên là Trần Giao Thủy. Trong tuyển tập gồm toàn những tài liệu quý
giá này của nhà nghiên cứu Trần Giao Thủy, người ta thấy có những bài viết xác
định rõ vai trò của Trung Cộng trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Cộng. Một
trong những bài viết có tính tổng quát nhất là bài “Đoàn Cố Vấn Quân Sự hoàn
thành nhiệm vụ Viện Trợ cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam” do Trương Quảng
Hoa viết, có ghi lại những đặc tính của những món nợ giữa Trung Cộng và Việt
Cộng theo 6 điểm chính.
“Thứ nhất: Giúp Quân Đội Nhân Dân tổ chức chỉ
huy tác chiến, giành thắng lợi chiến tranh chống Pháp.” Trong mục này, Trương
quảng Hoa ghi rõ: “Từ tháng 8 năm 1950, đoàn cố vấn quân sự sang đến Việt Nam,
đến đình chiến Dộng Dương năm 1954, Quân đội nhân dân lần lượt tiến hành tám
chiến dịch quy mô tương đối lớn: Biên Giới, Trung du, Đông bắc, Nình Bình, Hòa
Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Điện Biên Phủ. Trừ chiến dịch Hòa Bình, do Đoàn cố
vấn quân sự đang tập huấn chỉnh đốn chưa ra mặt trận trực tiếp giúp chỉ huy ra,
còn các chiến dịch khác đều tiến hành dưới sự giúp đợ của Đoàn cố vấn quân sự
từ quyết sách đến tổ chức thực hiện trong suốt quá trình chiến dịch.”
Trong đoạn này, tác giả nói rõ “đã đập tan thắng
lợi các kế hoạch chiến tranh từ de Lattre de Tassigny đến Navarre, từng bước
giành thắng lợi trong chiến tranh chống Pháp.”
Đoạn tiếp theo chỉ rõ Trung Cộng đã làm gì để
giúp quân đội Việt Cộng:
“Thứ hai: Giúp quân đội nhân dân tăng cường xây
dựng quân sự, nâng cao tố chất quân sự của bộ đội. Căn cứ theo yêu cầu phát
triển của tình hình Đoàn cố vấn quân sự giúp Quân đội nhân dân thực hiện ba lần
chuyển biến về tư tưởng chỉ đao tác chiến và xây dựng quân đội, tiến hành ba
lần chỉnh đốn biên chế tổ chức trang bị và huấn luyện quân sự có tính cách toàn
dân….được Trung Quốc viện trợ và Đoàn cố vấn quân sự giúp đỡ cụ thể, Quân đội
nhân dân lần lượt thành lập 6 Đại đoàn bộ binh và 1 đại đoàn công pháo biên
chế, cải thiện trang bị, tăng cường huấn luyện chiến thuật kỹ thuật bước đầu
nắm vững cách đánh vận động và nắm kỹ thuật lớn. Sức chiến đấu nâng cao rõ
rệt.”..
Đoạn thứ ba nói về vai trò chính trị trong quân
đội: “Thứ ba: giúp quân đội nhân dân tăng cường xây dựng chính trị, nâng cao tố
chất chình trị của quân đội. Một là, giúp đặt đúng vị trí và vai trò xứng đáng
của công tác chính trị trong quân đội, chú trọng tăng cường lãnh đạo tư tưởng,
tăng cường chỉ đạo công tác chính trị thời chiến, bắt tay từ giáo dục cơ bản,
có bước đi tổ chức tiến hành bốn đợt giáo dục tư tưởng chính trị lớn trong toàn
quân, từ đó nâng cao rất nhiều giác ngộ chính trị của bộ đội… Hai là, giúp tăng
cường xây dựng Đảng trong quân đội. Sau khi công khai tổ chức của Đảng Lao
Động trong quân đội, giúp xây dựng và kiện toàn chế độ Đảng ủy, xây dựng tập
thể Đảng Ủy, làm sống động sinh hoạt Đảng…. Ba là, giúp Tổng cục chính trị xây
dựng kiện toàn bộ máy các ban nghiệp vụ, xác định rõ ràng chức trách công việc,
huấn luyện cán bộ nghiệp vụ…”
Việ làm sau nữa cũng là đi sâu, đi sát vào từng
chi tiết trong việc huấn luyện quân đội: “Thứ tư: Giúp Quân đội nhân dân đào
tạo huấn luyện cán bộ, nâng cao tố chất của đội ngũ cán bộ. Một là, giúp đào
tạo, nâng cao cán bộ. Đây là một khâu quan trọng để làm tốt việc xây dựng đội
ngũ cán bộ Quân đội nhân dân, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng quân
đội….Hai là, sau chiến dịch biên giới, kịp thời nắm bắt giúp giải quyêt vấn đề
đường lối, phương châm chính sách cán bộ…”
Đó là những mặt nổi của quân đội nhân dân, sang
đến vấn đề lương thực, hậu phương, giao thông, xây dựng các tuyến đường chữa
bệnh, xây dựng binh trạm và hệ thống cấp cứu chữa bệnh… cũng nằm trong tay cố
vấn Trung Cộng. “Thứ năm:giúp quân đội nhân dân tăng cường xây dựng hậu cần,
nâng cao năng lực bảo đảm hậu cần…”
Cuối cùng, “Thứ sáu: Hỗ trợ làm tốt công tác
viện trợ vật tư quân sự cho Việt Nam, bảo đảm nhu cầu tác chiến và xây dựng
quân đội nhân dân… Theo thống kê chưa đầy đủ trong thời ký chiến tranh chống
Pháp, Trung Quốc đã viện trợ cho Quân đội nhân dân Việt Nam 155,000 khẩu súng
các loại, 57,850,000 viên đạn các loại, 3692 khẩu pháo các loại, 1,080.000 đạn
pháo các loại, 840,000 quả lựu đạn, 1231 ô tô, 1,400,000 bộ quân phục, hơn
14,000 tấn lương thực và thực phẩm phụ, hơn 26,000 tấn dầu, và rất nhiều thuốc
men và vật tư quân dụng khác..”
Như thế, món nợ của Việt Cộng với Trung Cộng là
một món nợ khổng lồ, không biết đến thế hệ nào mới trả hết nổi. So sánh quân
đội nhân dân với một con người, từ những ngày mới được chập chững sinh ra, cho
đến khi thành nhân, đều được người bảo mẫu nói tiếng Trung Hoa săn sóc, thì làm
sao mà có một đứa con bất hiếu dám chống lại người bảo mẫu, vú em như thế?
Chỉ
trừ khi người con kia dám làm cách mạng, mà hiện nay, miệng người con đang ngập
ngụa tiền bạc, tay chân vơ vét sắc dục thả giàn, quyền hành mênh mông trên tất
cả thân phận giống nòi Việt Nam, không thể tin rằng có một ngày không xa, Việt
Cộng bất ngờ phản lại Trung Cộng.
Mà nếu có ngày đó thực, vì người con bỗng
nhiên tỉnh ngộ, nhớ lại Tổ Tiên dân Việt mới chính là nguồn máu nóng của mình,
thì cũng phải có sự giằng xé nội tâm ghê gớm lắm, có khi phải mất đi một phần
thân thể, phải tự chặt đi một cánh tay, một bàn chân của mình, hay phải cắt bỏ
cái bao tử tham lam đi, thì mới mong có ngày trở thành người Việt Nam chân
chính được.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment