Chế độ độc
tài có chống được tham nhũng?
Nguyễn
Đình Ấm
Huyên thuyên thế nào rồi lại quay về chuyện chống tham nhũng, anh
bạn tôi mang hàm tiến sĩ thốt lên:
– Trung Quốc chống tham nhũng mạnh thật, đúng là không trừ ai.
Đây không biết là lần thứ bao nhiêu tôi nghe được nhận định này từ
thường dân đến giáo sư, tiến sĩ, nhà văn, nhà báo… và không khỏi thoáng chút
buồn về nhận thức xã hội của họ, nhất là những người mang hàm nọ, cấp kia.
“Tập quyền tham nhũng”
Khi nói đến sự tồn tại của một đảng phái, chế độ thì phải xét đến
lý tưởng chính trị và nền tảng vật chất của nó. Một chế độ dân chủ đa đảng thì
người lãnh đạo do dân bầu lên trong sự cạnh tranh giữa các đối thủ, quyền uy
của lãnh đạo phụ thuộc mức tín nhiệm của nhân dân. Mà muốn được nhân dân tín
nhiệm thì lãnh đạo từ trung ương đến địa phương phải làm sao cho giang sơn, tổ
quốc được vẹn toàn, nhân dân phải được tự do, bình đẳng, làm chủ đất nước, địa
hạt, kinh tế, văn hóa, mức sống… phải phát triển tương xứng với khả năng của
quốc gia, xứ sở đó. Khi vận động tranh cử chức lãnh đạo ở chế độ dân chủ người
ứng cử phải trình bày, hứa làm những việc gì có lợi cho dân, cho nước, khi tại
vị họ phải giữ gìn phẩm hạnh, làm những việc tốt đẹp đã hứa giữ uy tín cho bản
thân và đảng phái mình để được dân bầu lại. Ở chế độ đa đảng thì đảng cầm quyền
bị các đảng đối lập, báo chí tư nhân “soi” từ chân tơ, kẽ tóc, cơ quan luật pháp
trung lập (không bị đảng nào lãnh đạo, thao túng) chỉ bảo vệ lẽ phải nên tham
nhũng vẫn có nhưng rất khó và ít.
Ngược lại, chế độ độc tài giới lãnh đạo tồn tại không phải từ tín nhiệm
của nhân dân mà bằng tranh đoạt bạo lực (“cướp chính quyền”), nền tảng vật chất
gồm lợi ích quốc gia đất đai, rừng, biển, khoáng sản, các doanh nghiệp trọng
điểm, thuế, phí… Thâu tóm tất cả tài nguyên, của cải quốc gia, giới cầm quyền
chế độ độc tài ban phát, nuôi dưỡng lực lượng vũ trang, thiết thập trại giam,
nhà tù trước hết là bảo vệ họ, trấn áp mọi phản kháng đối lập để giữ quyền cai
trị mãi mãi. Để khống chế nhân dân trong lĩnh vực tư tưởng, chế độ độc tài áp
dụng một nền giáo dục đào tạo “công cụ” phục vụ, bảo vệ chế độ, tổ chức hệ
thống tuyên truyền độc quyền từ trung ương đến địa phương gồm tất cả cơ quan
truyền thông đài phát thanh, truyền hình, các báo, tạp chí, các cơ quan tuyên
truyền, các đội lưu động từ trung ương đến địa phương, hệ thống loa phường, xã,
ấp cùng bộ máy giả dân như quốc hội, mặt trận, các đoàn thể thanh niên, phụ nữ,
thiếu nhi, công đoàn, cựu chiến binh… gọi là “đại diện nhân dân” nhưng tất cả
do đảng độc tài lãnh đạo, quốc hội thì do “đảng cử, dân bầu”, thành phần hầu
hết đảng viên để trước hết phụng sự chế độ độc tài. Tất cả bộ máy tuyên truyền,
giả dân “định hướng” tư tưởng để nhân dân không biết mình có quyền gì chỉ tuyệt
đối phục tùng chế độ độc tài như một “đàn cừu” (lời GS Ngô Bảo Châu).
Như vậy, ở chế độ độc tài hàng chục, trăm triệu thậm chí hàng tỷ
nhân khẩu thì cũng chỉ là những đám đông không có thứ phương tiện gì để kiểm soát,
khống chế mọi ham muốn của nhà cầm quyền từ phường, xã đến tỉnh, huyện, trung
ương. Tức người dân không có gì để quan chức chế độ độc tài phải kiêng nể. Hiện
tượng hàng loạt vụ án bị xử oan, tồn đọng hết năm này qua năm khác, vô số những
vụ oan sai bị hại phải đi kiện cáo, tố cáo tham nhũng, lộng hành cả 10, thậm
chí 50 năm. Những đoàn dân oan lang thang đi thỉnh cầu suốt năm này qua năm
khác ở các thành phố, thủ đô nhưng báo chí quốc doanh ngoảnh mặt, không được
nhà cầm quyền độc tài nghiêm túc xem xét, giải quyết, tức “…vô cảm trước dân
tăng hơn và lan rộng” (lời PCT nước Nguyễn Thị Doan), những vụ tham nhũng quá
trắng trợn như Vinashin, Vinalines, Agribank hàng trăm ngàn tỷ đồng…
Nhà cầm quyền chế độ độc tài không có động lực để buộc phải đoái
đến người dân vì họ không có quyền sử dụng lá phiếu hay luật pháp để phế truất
lãnh đạo như chế độ dân chủ, đa đảng. Chính vì vậy đây là môi trường lý tưởng
để quan chức chế độ độc tài tha hồ thỏa mãn dục vọng mà ít sợ bị phanh phui,
trừng phạt.
Ở chế độ độc tài quan dưới chỉ còn sợ quan trên vì chỉ có quan
trên ban phát chức tước hoặc trừng phạt được họ. Hiện tượng “20 phút gặp bí thư
(thành ủy) bằng 20 năm đi kiện” là như thế. Ngược lại, quan trên cũng không thể
trực tiếp “ăn của dân không từ cái gì” mà phải “hưởng lộc” nhờ tạo cơ hội, bao
che cho cấp dưới vơ vét để có các loại giá trị mà cung tiến lên. Đó là một thứ
khế ước không cần văn bản. Ngoài “ăn chia” với cấp dưới, quan độc tài có điều
kiện sử dụng con cháu, người thân, đại gia lập các tổ chức kinh tế để thông
đồng, “tham nhũng chính sách” mua rẻ, bán đắt để gián tiếp vơ vét của cải xã
hội. Vì vậy, ở chế độ độc tài quan trên không thể vô tư trừng trị tham nhũng
của cấp dưới, con, cháu, đại gia…do cùng “nhóm lợi ích” bất chính. Ở chế độ độc
tài quan chức ít có cơ hội tham nhũng vật chất thì tham nhũng chính trị, quyền
lực mà đã có quyền lực là có biếu xén, cống nạp vật chất qua bán ghế, cất nhắc.
Về cơ bản, bộ máy ở chế độ độc tài là một thiết chế cai trị và tham nhũng nên
lâu nay xuất hiện thuật ngữ quốc tế gọi các chế độ độc tài là “chế độ tập quyền
tham nhũng” là như vậy.
Tham nhũng là nền tảng chế độ độc tài
Ở chế độ độc tài bất cứ ai trong bộ máy đảng, DN nhà nước muốn lên
chức để có cơ hội lương cao, lộc hậu… được gọi là “tiến bộ” phải gia nhập đảng
là điều tiên quyết. Chính vì điều này mà đảng độc tài dù thế nào vẫn có nhiều
người gia nhập chủ yếu để “tiến bộ”. Do bị tuyên truyền đảng cầm quyền là “tất
yếu, quang vinh muôn năm” như thời phong kiến vua là “thiên tử xuống cai trị hạ
giới” với sức mạnh tuyệt đối của bộ máy trấn áp… nên người dân cúi đầu phục tùng,
phụng sự chế độ độc tài lâu ngày thành một thứ “tập quán”, bản năng. Việc phục
tùng tuyệt đối, luồn lách, hối lộ… quan trên để được thăng quan, tiến chức, lợi
lộc quá lâu đã trở thành như một “lẽ sống” rất phổ biến, không ít người có học hành
hẳn hoi còn huyênh hoang tự hào, khoe khoang có ô nọ, dù kia… ngay cả khi nhà
cầm quyền đã thoái hóa, biến chất. Cũng có một bộ phận người gia nhập đảng để
con cái được ưu tiên, ưu đãi trong công tác nhờ lý lịch “đỏ”. Cũng có những
người gia nhập đảng theo phong trào, như một thói quen, người ta thế, trước thế
thì mình cũng vậy, đảng viên là một thứ bảo đảm giá trị cho bản thân, gia đình
để an toàn trong xã hội nhiễu nhương.
Thử hỏi, thời nay nếu không vì lên chức, lên lương, không bổng
lộc, ưu tiên, ưu đãi… thì liệu còn có bao người vào cái đảng độc tài đã “thoái
hóa, biến chất” kia để làm gì? Tôi thách đố nay đảng độc tài nào dám bỏ chính
sách cán bộ phải là đảng viên, tức bất cứ CBNV nào trong DN, cơ quan đảng, nhà
nước có đức, có tài thì thăng quan, tiến chức không căn cứ đảng viên xem sao!
Có thể khẳng định, nếu thực hiện điều bình đẳng cơ bản hiện đang tồn tại ở bất
kể nước dân chủ, văn minh nào thì đảng độc tài sẽ teo tóp đi đến tan rã trong
thời gian rất ngắn vì không mấy ai gia nhập cái đảng mà người dân nói “ông/bà
ấy là cán bộ,đảng viên nhưng là người tốt” lại chẳng có quyền lợi hơn người thường,
phải đóng tiền hàng tháng.
Tình trạng những năm gần đây rất nhiều cán bộ to, nhỏ, lớn, bé khi
còn làm việc thì khai gian tuổi để tại vị lâu nhưng khi về hưu (không còn cơ
hội tham nhũng, bổng lộc…) bỏ sinh hoạt đảng, là như thế. Cũng có một số ít
đảng viên không bị tha hóa khi về hưu, nghỉ công tác vẫn ở lại đảng để đấu
tranh nội bộ hy vọng tổ chức mình đã từng gắn bó có ngày “phục thiện”. Một số
còn sinh hoạt cho có hội hè, vui vẻ, khi chết được đảng tổ chức lễ tang, có cái
vòng hoa của chi bộ.
Với một đảng chính trị bao giờ cũng phải có lý tưởng, cương lĩnh
để vận động nhân dân ủng hộ mình và phấn đấu, tồn tại như giải phóng dân tộc,
xây dựng đất nước, tự do, dân chủ… Ở VN từ những năm 1930 thời thuộc Pháp phần
lớn đảng viên CS mang lý tưởng tốt đẹp là giải phóng dân tộc, thời chiến tranh
với Mỹ là tư tưởng “chống Mỹ cứu nước, xây dựng CNXH” (dù là ngộ nhận- chính
xác là: “Chống Mỹ cứu đảng, phục vụ Trung Quốc”) rất đáng trân trọng nhưng
trong thời bình những năm qua đảng CS sống trên lý tưởng nào?
– Bảo vệ tổ quốc ư? Không phải, vì nếu có lý tưởng ấy thì đảng đã không
ra công hàm 1958 công khai tuyên bố các quần đảo ở biển Đông của nước ta thuộc
hải phận TQ, để họ xâm chiếm nhiều phần giang sơn, biển đảo của tổ quốc mà
không có phản ứng thích đáng nào, không cho họ thuê mượn những vùng đất chiến
lược an ninh của quốc gia, vẫn nhận, quan hệ với kẻ xâm lược nước mình là bạn
“16 chữ, 4 tốt”, vay, nhận tiền viện trợ, đón tiếp kẻ xâm lược với sự trọng thị
cao nhất, cho họ đăng đàn ba hoa trước quốc hội rồi vỗ tay rào rào. Người đứng
đầu quân đội lại sợ dân ta ghét kẻ xâm lược, luôn hô hào: “Hòa bình là vô giá,
thượng sách”, (tức mất giang sơn, biển, đảo… vẫn không bằng hòa bình), yêu cầu
kẻ xâm lược “giữ nguyên hiện trạng”, tức công nhận những phần giang sơn, biển đảo
họ đã cướp đoạt của dân tộc, hoặc ưu ái “để dành” cho con, cháu đòi lại phần
giang sơn bị chiếm đóng.
– Lý tưởng xây dựng đất nước ư? Không phải, bởi vì, nếu đặt lý
tưởng ấy lên trên lợi ích của đảng thì đảng CS đã không thực hiện cải cách ruộng
đất, cải tạo công thương nghiệp… triệt hạ mầm mống một nền kinh tế lớn, kéo dài
chế độ kinh tế bao cấp từ năm 1975-1986 khi nền kinh tế VN đã kiệt quệ, dân ta
đã sắp chết đói; đã tư nhân hóa hầu hết nền kinh tế để tăng hiệu quả, không coi
DN nhà nước là “chủ đạo” khi nó ngốn phần lớn vốn liếng XH nhưng sản phẩm làm
ra không tương xứng, là “địa bàn chiến lược” của tham nhũng.
– Lý tưởng đem lại dân chủ, tự do cho nhân dân ư? Không phải, vì
nếu có lý tưởng ấy thì đảng đã không duy trì điều 4 trong Hiến pháp, không cấm
báo chí tư nhân, đã không bắt bớ, khủng bố, tù đày những người hoạt động dân
chủ, nhân quyền… ôn hòa như trong hiến pháp qui định và họ đã cam kết với quốc
tế.
Như vậy, trong thời bình các lý tưởng cao đẹp kia không có thì tất
nhiên nhà cầm quyền chế độ độc tài chỉ còn lý tưởng tư hữu, làm giàu- bản tính
cố hữu của con người. Một người, một đảng chỉ còn lý tưởng làm giàu mà lại độc
quyền cai trị, nắm mọi sức mạnh, tài nguyên, của cải đất nước, không bị ai
tranh giành, giám sát, “vừa đá bóng vừa cầm còi”… thì tất yếu tham nhũng là
“chủ đạo” vì đó là phương pháp làm giàu nhanh nhất, dễ nhất.
Như vậy, nhà cầm quyền chế độ độc tài rất khó chống lý tưởng, mối
lợi duy nhất của mình, khó “buông” điều 4, đất đai, rừng, biển, khoáng sản, DN
“chủ đạo”, luật pháp, truyền thông…cho nhân dân. Việc nhà cầm quyền nắm mọi
phương tiện chống tham nhũng nhưng hầu hết vụ tham nhũng đều do nhân dân và báo
chí phát hiện, lãnh đạo đảng CS xác định “bộ phận không nhỏ, bầy sâu” (tham
nhũng) nhưng không tìm ra… do ở chế độ độc tài tham nhũng là một thứ “quyền lợi
tất yếu” của quyền hành nên “tham nhũng xử lý người chống” (lời ĐBQH Trương
Trọng Nghĩa) và “người không tham nhũng bị người tham nhũng cô lập” (đại biểu
QH Nguyễn Ngọc Phương); năm qua, ở Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang… nhà cầm quyền
tổng kết hầu như không có tham nhũng… là như thế. Bởi vì, chính cán bộ đảng
viên cầm quyền là thủ phạm tham nhũng làm sao lại phát hiện, trừng trị TN?
Trong cuộc họp ban chỉ đạo phòng, chống TN ngày 28/12/2015 chính ông TBT đảng
CS Nguyễn Phú Trọng cũng thừa nhận: “chống tham nhũng khó vì lợi ích kinh tế,
chính trị chằng chịt”.
Phải khẳng định: Chế độ của ông không thể chống tham nhũng!
Tại sao có những vụ tham nhũng bị trừng trị?
Mặc dù tham nhũng là cơ sở tồn tại của các chế độ độc tài nhưng họ
vẫn hô hào chống tham nhũng, duy trì bộ máy thường xuyên thanh, kiểm tra các cơ
quan, DN rồi xử lý này, nọ, nhiều khi lại đi cả nước khác để “học tập” chống
tham nhũng…
Thế nhưng trên thực tế thì những động thái kia có vẻ cho đủ lệ bộ,
các thế lực dùng công cụ này để giỡn mặt, đấu đá phe phái “bên kia” hoặc vụ
việc quá lộ liễu không xử lý sẽ có hại cho chế độ. Khi tham nhũng bị lộ thì
thấy bộ máy chống tham nhũng xử lý loanh quanh như để bao che, giảm sự nghiêm
trọng, “hóa bùn” những vụ TN liên quan đến “uy tín” quan chức, đại gia lớn và
chế độ độc tài. DN Vinashin, Vinalines, nhiều ngân hàng… cũng như rất nhiều DN,
đại gia “có máu mặt” qua cả chục lần thanh tra, kiểm toán nhưng chỉ được “phát
hiện” khi nó đã làm cho DN trước sự sụp đổ là như vậy. Khi người, DN “cần bao
che” bị quá lộ liễu, “hóa bùn” không xong thì mới phải miễn cưỡng xử lý với mức
nhẹ nhất có thể như vụ đất đai ở Đồ Sơn, vụ cướp đầm của ông Đoàn Văn Vươn (Hải
Phòng)…
Hiện tượng ông Trần Văn Truyền “trùm” chống tham nhũng, một trong những
người “chém gió” mạnh nhất về chống tham nhũng ở VN nhưng chính ông là một trùm
TN, khi bị phanh phui số “của nổi” chỉ bị xử lý như “gãi ghẻ”, dư luận bức xúc
vụ quan chức đường sắt ăn hối lộ 11 tỷ VNĐ nhưng phiên tòa xử tháng 10/2015 lại
là tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn..” với tội nhẹ hơn rất nhiều.
Kỳ họp thứ 10 QH 13 tháng 10-11/2015 còn hủy án tử hình tội tham nhũng
nếu nộp trả 2/3 tài sản tham nhũng dẫn đến đại biểu QH Nguyễn Bá Thuyền phải
kêu lên: “Tha hết cán bộ làm trái thì có tội với dân!”. Xử nhẹ tội tham nhũng
nhưng nhiều người, nhà báo chống tham nhũng “quá đà” có “hậu vận” đen tối… là
điển hình của vấn đề chỉ “chống từ thắt lưng xuống” và “chống có chọn lọc, mức
độ”… Từ bao năm qua mặc dù dùng nhiều từ ngữ chống tham nhũng mạnh mẽ nhất
nhưng trên thực tế thì chế độ độc tài như thể tạo điều kiện để bộ máy quyền
hành vơ vét tối đa một cách “có trật tự” để không đến mức làm xã hội hỗn loạn,
tức “tham nhũng ổn định”.
Trên thực tế, với những vụ cán bộ cấp cao ở chế độ độc tài bị
“chống” chỉ xẩy ra khi giới cầm quyền tranh giành quyền lực, phái nọ dùng “chiêu”
chống tham nhũng để gạt ra khỏi “đội hình” đối thủ không thể dung hòa trong bộ
máy cai trị, “dằn mặt” đối thủ đồng thời mị dân là lãnh đạo trong sạch, vì
nước, vì dân.
Thời gian qua, ở TQ hàng loạt ủy viên trung ương bị trùm đảng CSTQ
Tập Cận Bình trừng phạt chỉ là sự tranh đoạt, củng cố quyền hành và mị dân, làm
lu mờ những căn bệnh kinh tế, xã hội…trong nước đang đến hồi nguy kịch. Nếu độc
tài CS chống TN thực sự thì căn bệnh này ngày càng phải ít đi và không thể có
những quan chức chưa phải chóp bu chứa trong nhà vàng, bạc, đô la, nhân dân tệ…
cả 5 xe tải mới chở hết, có hàng chục vợ lớn, bé, bồ bịch, con riêng đàn lũ.
Có thể khẳng định hầu hết quan chức trong bộ máy chế độ độc tài
đều giàu có hơn hẳn những người cùng hoàn cảnh, tức tham nhũng. Như vậy nếu thực
sự chống tham nhũng diệt “cả hổ và ruồi” thì tất cả hệ thống cán bộ chế độ độc
tài phải bị xử lý, tức bộ máy đảng độc tài cũng lập tức tan rã vì “lấy ai làm
việc” và không ai còn gia nhập cái tổ chức chỉ có lý tưởng tham nhũng lại bị
tất yếu trừng phạt, không thể thực hiện lý tưởng.
Đấy là những lý do tại sao từ khi đảng CS độc tài nắm quyền đến
nay liên tục hô hào chống tham nhũng, học tập làm theo tấm gương đạo đức nọ, kia,
hứa nọ, hứa kia… nhưng tham nhũng ngày càng phát triển trở thành quốc nạn:
“nhìn đâu cũng thấy, sờ đâu cũng có…” .
Tóm lại, các chế độ độc tài không thể chống tham nhũng và nó sẽ
chết nhục nhã vì căn bệnh thuộc bản chất của chế độ này.
N.Đ.Â
Tác giả gửi BVN
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment