Vòng
kim cô trên đầu giới khoa học xã hội
Tiếp tục trao đổi với tác giả Từ Huy, nhân bài Vụ Luận văn về Mở Miệng: còn
cơ hội nào cho ngành KHXH&NV? (Mạng Bauxite Việt Nam 7-10-2013)
Vương
Trí Nhàn
I / CŨNG CHỈ LÀ MỨC ĐỘ… THÔNG THƯỜNG
Trong đời sống văn chương học thuật ở ta,
luôn luôn người ta thấy có những hiện tượng tạm gọi là chệch hướng, còn
chữ của giới chính thống là sai lầm hư hỏng chống đối. Rồi có sự tố giác phê phán.
Rồi sau vài lời nói qua nói lại và có khi cả những “chiến dịch đấu tranh” kèm
theo là những xử lý, dư luận lại rơi vào im ắng cho đến khi … có những vụ
mới.
Vụ Mở
miệng và luận văn Nhã Thuyên thuộc loại ấy.
Về khâu xử lý, tôi nhớ thời chống Mỹ, cả Lưu Quang Vũ lẫn
Phạm Tiến Duật đều có những chuyện lôi thôi khiến người một hai năm, người tới
bốn năm năm, bị cấm in trên các báo. Tức là hình thức xử lý còn nặng hơn rất
nhiều so với cách chức hoặc cho thôi việc thời nay.
Đặt trên cái nền chung, thấy tình hình chung quanh vụ luận văn về “Mở miệng” hôm
nay còn là ở mức… có thể hiểu được.
Điều tôi cho rất đáng hoan nghênh là, khi nhìn nhận vụ việc,
nhà nghiên cứu Từ Huy đã không dừng lại ở hiện tượng cụ thể mà nhân đó nêu ra
nhiều vấn đề chung của giới KHXH. Tôi cho là một sự triển khai cần thiết. Trong
phạm vi bài này, tôi thử đi vào giải thích tại sao giới nghiên cứu KHXH
VN đã có những ứng xử như tất cả chúng ta đã thấy.
Cả giới đã được đào tạo để trở thành như thế
Nhắc tới mấy năm 1956-58, ngày nay chúng ta chỉ nhớ tới vụ Nhân văn Giai phẩm ,
và những ảnh hưởng của nó tới giới sáng tác.
Nhưng thời điểm trên cũng là bước ngoặt trong giới ở ta đại
học ở ta, rõ nhất là giới nghiên cứu các bộ môn thuộc khoa học xã hội.
Sự phát triển trước đó của đại học là tự phát. Nay nền đại
học non trẻ và “tiên thiên bất túc”, “bất thành nhân dạng” về nhiều
phương diện ấy, được làm lại với những chủ đích rõ ràng.
Nếu ở các nước khác, đại học là khu vực cuộc sống được thể
nghiệm, khu vực tự trị, khu vực dân sự điển hình, thì ở
ta nó được đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt cũng như sự can thiệp mạnh mẽ
và trực tiếp của chính trị. Các cơ sở đại học phải trở thành những “pháo đài xã
hội chủ nghĩa” như chữ nghĩa hồi 1958-60 vẫn dùng.
Lý do thì, như chỉ dẫn của một tác giả Nga mà tôi nêu trong
bài viết ngày 14-10-2013 trên blog này, KHXH ở VN được sinh ra như
thế, nó phải như thế, có gì là lạ. Nó cũng có nghiên cứu, nhưng là chỉ làm ở
mức hết sức sơ lược. Trong những lúc bốc đồng, hoặc cố ý làm dáng, người ta
cũng tuyên bố đi tìm chân lý, đứng về phía sự thật lịch sử… nhưng đó chỉ
là trong ao ước. Phần chính khoa học lúc này phải làm là những công việc mà
thần học trung thế kỷ vẫn làm. Nếu thần học cuối cùng phải chứng minh được chỗ
đúng của các kinh sách có liên quan tới Chúa thì khoa học xã hội lúc này lấy
việc đi vào minh họa cho cái đúng của thời hiện nay, cái
đúng theo các chỉ thị nghị quyết, cái đúng của cấp trên… làm mục đich.
Trên đại thể là thế, mà trong từng việc cụ thể cũng là thế.
Tôi lấy một ví dụ. Vào
những ngày hạ tuần tháng Mười 2013, trên báo chí đang rộ lên lời trách cứ các
nhà nghiên cứu lịch sử hiện đại về việc sao không đưa tướng Giáp vào sách giáo
khoa. Tôi xin thanh minh hộ các giáo sư sử học thế này – họ đâu có quyền! Đây
toàn là do chỉ thị từ trên xuống cả. Thách kẹo cũng không có người biên soạn
SGK dám tự tiện viết khác và các thầy lên lớp từ tiểu học tới đại học dám
giảng khác.
Không có ngoại lệ
Đọc bài của Từ Huy, ngay từ đầu, tôi đã không hiểu những lời ưu ái
mà tác giả đưa ra đối với khoa nọ của trường đại học kia. Rằng đó là nơi rất có
truyền thống tìm tòi chân lý. Rằng ở nơi đó luôn luôn có sự đón nhận, làm “bà
đỡ” cho những tư tưởng mới trong nghiên cứu văn chương.
Theo chỗ tôi biết thì hiện nay chẳng có một cơ sở nào như
thế cả.
Cuối bài, Từ Huy có nói tới tình trạng tạm gọi là “vượt
thoát” và kể ra là đã có những trường hợp khá thành công cả trong khu vực
mà tác giả có quan hệ.
Trước hết là trong sáng tác, tôi thấy những trường hợp như Nguyễn
Huy Thiệp, như Bảo Ninh đúng là những nhân vật vượt thoát thành công thật.
Nhưng thử hỏi là sau họ làm gì có những tên tuổi nào khác.
Thứ nữa, nay các tác tác giả này đã được các tài liệu chính thống
công nhận đâu! Trong xã hội, Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp vẫn được hoan nghênh
được in lại. Nhưng họ không bao giờ được đưa vào giảng dạy trong nhà trường.
Khi cần kể thành tựu của giới nghiên cứu, Từ Huy có phần lúng túng
hơn. Những ưu điểm tác giả nêu ra ở đây chỉ hạn chế trong việc sử dụng những lý
thuyết văn học ở nước ngoài vào để thúc đẩy tình hình trong nước.
Về mặt số lượng, tôi cho là người đi theo phương hướng này còn rất
ít.
Hơn thế phải nói thẳng là những thành công của mấy người này còn ở
mức rất khiêm tốn. Trong những trường hợp tốt nhất thì chúng ta mới may mắn
được coi là những người thuộc bài, còn việc áp dụng những kiến thức đó vào việc
nghiên cứu văn học Việt Nam – xin lỗi cho tôi nói một cảm giác mà có thể nhiều
người không đồng ý – còn chưa có thành tựu nào đáng kể.
Trong một bài viết gần đây, tôi có
nói rằng giáo dục ở ta nói chung đang trong tình trạng vô phương cứu chữa. Một
trong những luận cứ của tôi là giá kể bây giờ có chương trình đúng đắn, sách
giáo khoa đúng đắn thì cũng không lấy đâu ra người để dạy các chương trình đó cả.
Và người ta cũng không biết làm gì với hàng triệu giáo viên đang đứng trên bục
giảng hiện nay; ở họ, có một cái gì đó đã cứng lại rồi, họ không thể thay đổi
được nữa!
Với giới đại học cũng thế.
II/ THỬ XÁC ĐỊNH MỘT THỰC TRẠNG
Khi điểm lại tình hình, Từ Huy có ngỏ ý “trách móc” rằng sao từ
ngày xảy ra cái vụ phê phán luận văn này, sau vài lời phản biện yếu ớt, trong
giới không thấy nhiều người lên tiếng. Trong khi tỏ ý lo lắng cho tình hình từ
nay về sau, tác giả thỉnh thoảng không quên giảng giải cho mọi người thế này
mới là nghiên cứu, thế kia mới là khoa học.
Tôi thì tôi thấy cách cư xử của cả giới KHXH như
vừa rồi là nằm trong bản chất và lý do tồn tại của nghề nghiệp. Có một guồng máy
đã hình thành, họ vừa là sản phẩm, lại vừa là các thành tố góp phần vận hành
guồng máy đó. Bận lắm, quay cuồng lắm! Về chuyện nên làm thế nào, họ không có
thời gian mà nghĩ đến nữa. Cái phần tự vệ trong mỗi người
luôn luôn mách bảo họ rằng biết ra chỉ thêm phiền, tốt hơn là đừng biết đừng
nghĩ.
Cáo trạng và biện hộ
Đi vào cụ thể hơn.
Từ Huy tự hỏi nguyên nhân của vụ phê phán Luận văn về Mở
Miệng xuất phát từ những hiềm khích cá nhân hay xuất phát từ một chủ trương?
Trả lời:
là chủ trương. Để mượn lại chữ của Từ Huy, chẳng có “nhát dao nào là mù quáng
cả“.
Từ Huy cảnh báo: Điều gây tuyệt vọng không
phải chỉ là sự tái bùng nổ đáng ngạc nhiên của những cây bút phê bình dao búa [
…] mà còn là (và có lẽ chủ yếu là) biểu hiện của thái độ chấp nhận đầu hàng ở
giới đại học. Chính sự chấp nhận này rất có thể sẽ đẩy KHXH&NV vào tử lộ.
Trả lời: Không đầu hàng sao được! Đến những Trần Văn Giàu
Trần Đức Thảo Nguyễn Mạnh Tường Đào Duy Anh Trương Tửu… cũng phải mất chức khi
người ta đã chẳng cần, nữa là những cá nhân mới nẩy nòi lên chính trong tay nhà
cầm quyền mấy chục năm nay. Dựng lên thành bụt đạp xuống
thành đất ngay, chuyện đâu có lạ.
Còn lo rằng, do đó, nó – bộ môn KHXH mà chúng ta đang quan
tâm – sẽ suy tàn ư? Khó lòng sống sót ư? Người ta đã
đẻ, người ta sẽ nuôi. Cái việc phù phép cho nó trở thành sống động đâu có quá
khó. Người ta sẽ biểu dương nó, khen ngợi nó. Cấp tiền nuôi nó. Ban cho nó danh
hiệu. Giới thiệu nó với giới khoa học quốc tế (còn việc quốc tế có công nhận
không thì không cần biết). Còn muốn gì nữa?
Từ Huy nhắc tới một chân lý: không có tự do học thuật thì
khoa học không thể phát triển được.
Trả lời:
Trên nước Việt Nam này, không có thứ KHXH mà Từ Huy hiểu và các
nước người ta vẫn hiểu. Ngược lại, ở ta, cũng như ở nước Nga xô viết trước đây,
nó có một cái nghĩa riêng. Theo nghĩa này, tự nó vẫn phát triển chứ đâu có dừng
lại. Cái làm cho nó phát triển không phải là tự do mà là các… mệnh lệnh
chỉ thị hồi trước và và các đơn đặt hàng. Cái đó thì hiện nay không thiếu,
không bao giờ thiếu.
Từ Huy viết : Người nghiên cứu cũng có
quyền nhìn đối tượng theo cách của mình, có quyền đưa ra một quan điểm nghiên
cứu và chứng minh quan điểm đó bằng các lý lẽ lập luận được thể hiện trong công
trình của mình. Quan điểm đó đúng hay sai, có thuyết phục người khác hay không,
đó là chuyện cần phải tranh luận, nhưng người nghiên cứu không thể bị vùi dập
vì quan điểm riêng.
Trả lời:
Không. Ở KH XH Việt Nam, khi đã nhận những chức danh như giáo sư tiến sĩ ,
người ta không có quyền có quan điểm riêng, lại càng không có quyền có quan
điểm sai (so với cái đúng mà nhà nước quy định). Chỗ riêng tư, anh có vụng trộm
nói khác nghĩ khác, tôi tạm tha. Nhưng công khai thì không. Cái chuyện ăn đòn
(= vùi dập) khi làm sai là chuyện đương nhiên. Anh có vì thế mà chết cũng
chẳng ai thương tiếc. Cố nhiên, người đứng đắn thì sẽ ăn đòn xong lại đứng dậy,
nhưng đó là việc riêng của anh.
Sức sống dai dẳng
Từ Huy lo một khối băng giá đang ngự trị trong cả giới. Và
tác giả đặt giả thiết:
Đằng sau sự im lặng của giới đại học [ … ] có thể đọc
thấy điều gì? Nỗi sợ hãi? Sự hạn chế về năng lực chuyên môn? Sự tê liệt khả
năng phản ứng? Sự thờ ơ vô cảm (coi đấy không phải là việc của mình)? Sự chuẩn
bị tâm lý cho một quá trình chịu đựng vô điều kiện những áp đặt từ trên xuống,
bất kể những áp đặt đó phi lý như thế nào, một quá trình chịu đựng lâu dài chưa
biết bao giờ mới kết thúc?
Trả lời: Tất
cả sự dự đoán của tác giả là đúng. Nhưng cần biết thêm, cách phản ứng của con
người hiện nay nói chung – chứ không phải riêng của các “nhà” KHXH – bị điều
kiện hóa rất chặt chẽ và đó chỉ là một bộ phận trong sự chịu đựng hàng
ngày. Đừng quá hy vọng ở họ. Họ sẽ chẳng chết như đã chẳng sống. Họ sẽ như thế
này… mãi. Và sống có lý có lẽ, có sự tự tin cẩn thận.
Hồi chống Mỹ, miền Bắc, tức “bên thắng cuộc” sống trong một tình
thế bị cắt đứt hoàn toàn với giới khoa học bên ngoài. Phía tư bản thì những
Freud, Kafka, Sartre, Camus , Levy Strauss … đều phản động hết không nói làm
gì. Ngay cả với thế giới XHCN cũng vậy. Trung Quốc rơi vào cách mạng văn
hóa, còn Liên Xô bị coi là xét lại, là một thứ nấm độc cần phải từ chối.
Những năm đó, bao nhiêu sinh viên và thực tập sinh đang học các
ngành KHXH ở Liên xô và Đông Âu đều bị gọi về dù học còn dang dở.
Tôi tuy chỉ ở bên văn chương nhưng mọi chuyện bên khoa học
cũng được biết ít nhiều, vì cả hai khu vực này đều trong phạm vi chi phối
của ông Tố Hữu. Tôi nhớ có một tư tưởng của
Tố Hữu, do giới tuyên huấn lúc ấy cho lan truyền, cho rằng về khoa học tự
nhiên thì chúng ta có thể kém các nước, nhưng còn về khoa học xã hội thì
ta là nhất, các nước khác cần cắp sách đến học chúng ta.
Về sau này, những tư tưởng đó có thể được trình bày kín đáo hơn,
nhưng theo tôi thấy nó không bao giờ mất hẳn. Và nó biến hình thành những tư
tưởng tinh vi hơn, chẳng hạn về cái gọi là tinh thần dân tộc trong nghiên cứu
xã hội hay được nói gần đây. Riêng nó đủ tạo nên sức sống dai dẳng của các loại
các bộ môn khoa học ở VN hôm nay.
Mức độ suy đồi
Không phải trong giới không còn những người muốn làm khoa học xã
hội thực sự.
Ở đây có một số người được đào tạo đúng bài bản,
tiếp thu được tinh thần khoa học chân chính từ nước ngoài về. Ngay
trong những người chỉ là dân nội địa cũng có những người do lương tri và
học hỏi mà cảm thấy lẽ ra chúng ta phải có một thứ khoa học khác.
Tuy vậy, trong thực tế, có hai khía cạnh phải tính tới.
Một là ngay từ điểm xuất phát, giới đại
học ở ta, nhất là bên KHXH, đã được hình thành theo kiểu ba vạ. Không ít người trong
họ ban đầu là những cán bộ tuyên truyền chỉ giỏi về xách động, thiếu chuyên môn
nhưng lại thừa ý chí, xông vào đủ mọi lĩnh vực và nay hóa ra những nhân vật đầu
đàn, những pioneer (tạm dịch: người đặt nền móng)
cho KHXH VN hiện đại.
Việc bảo vệ con đường đã qua của KHXH hôm nay là lẽ sống của họ.
Cố nhiên họ thừa hiểu, mọi cố gắng đưa ngành này vào quỹ đạo của KHXH thế giới
đều có nghĩa là phủ định công lao và vai trò của họ, đời nào họ cho phép.
Hai là mấy chục năm
nay, tình trạng ọp ẹp ngành này kéo dài. Trên cái mặt bằng quá thấp của
giáo dục nước ta, KHXH chính là khu vực trũng nhất. Học sinh phổ thông giỏi đi
học y khoa, học tin học, học kinh tế… chứ mấy ai chịu theo bên văn bên sử. Khi
vào ngành rồi, thì lại có sự sàng lọc tiếp theo, theo phương châm “ hồng trước
chuyên sau”.
Ở các ngành khoa học tự nhiên, thì sự kém cỏi còn khó che
giấu. Chứ ở đây, cứ mạnh mồm là được. Không có gì lạ nếu bộ phận kém cỏi và
hoạt đầu trong KHXH, lại được coi là bộ phận đáng nâng đỡ và dần dần đóng vai
thao túng tình hình.
Những người ưu tú thì bị chèn ép, chỉ riêng việc chống lại chủ
nghĩa bình quân cũng đủ khiến họ tiêu mòn sức lực.
Quan trọng không kém là vai trò của đãi ngộ. Trong khi các cán bộ
có thiện chí khoa học cô đơn, và thiếu đủ mọi điều kiện để làm việc, thì những
kẻ nịnh nọt, một lòng một dạ kiên trì thứ khoa học minh họa tha hồ
được khen thưởng, được cho đi học nước ngoài, được cấp những khoản kinh phí lớn
để “nghiên cứu”, những gì họ viết ra được đưa vào sách giáo khoa chính thức
giảng dạy cho hàng triệu sinh viên học sinh.
Các nhà nghiên cứu trẻ có phải là thánh cả đâu? Bao nhiêu thông
minh vốn có trong họ trước tiên được sử dụng để giúp họ thích ứng với
hoàn cảnh mà cũng là để mỗi người tìm cho mình một chỗ đứng. Nhu cầu tự do và
khả năng học hỏi ở mỗi người dần bị mài mòn, người trước kẻ sau họ đều rơi vào
cái quỹ đạo đã được vạch sẵn.
Xét đại trà, bộ mặt của giới nghiên cứu đã hình thành đúng
như sự nhào nặn của những người trả lương họ. Để đỡ phiền phức, càng ngày,
những người trong cuộc càng tự mình thỏa mãn với công việc và trình độ của
mình, không ai có ý ân hận và lo lắng về sự xa cách giữa KHXH Việt Nam và KHXH
thế giới.
Không có gì là khó hiểu trong cái định hướng mà cả giới đã chọn.
Thắc mắc mà làm chi khi bây giờ khi đại cục đã hỏng, tôi chỉ một con
chim non bé bỏng – vứt trong lồng con giữa một lồng to (Tố Hữu).Trong khi
đó, nhìn đi nhìn lại hóa ra so với ngày hàn vi mình nay cũng không đến nỗi nào.
Phần lớn các nhân vật khôn ngoan trong giới đã đạt tới cái đích mà họ ôm ấp.
Giáo sư cũng có, tiến sĩ “ như lợn con”, viện sĩ hàn lâm nếu muốn rồi anh cũng
có thể có.
Khi những điều kiện vật chất được thỏa mãn thì những đòi hỏi về
tinh thần dần dà rồi cũng tan biến.
Từ Huy đặt vấn đề trách nhiệm Chỉ còn hy vọng khi những
người làm nghiên cứu ở Việt Nam, với tư cách cá nhân, vẫn giữ được cho mình
quan điểm độc lập so với quan điểm chính thống này. Điều đó cũng đồng nghĩa với
việc họ phải nhìn thấy trách nhiệm của chính họ […] trong sự
suy tàn của ngành KHXH&NV
Theo tôi hiểu, với giới nghiên cứu KHXH hiện nay, hai chữ trách
nhiệm theo nghĩa cao nhất của nó – trách nhiệm với lịch sử – đang là thứ xa xỉ.
Trong nhiều luận văn công bố gần đây, Từ Huy đã giảng giải cho
chúng ta thấy giới đại học phải có một cách hoạt động như thế nào, người làm
khoa học xã hội phải có trình độ và tư cách như thế nào.
Chẳng hạn, trong bài này, tác giả có nói đến yêu cầu của giới khoa
học là đi tìm chân lý chứ không phải đi tìm cái đúng như cấp trên chỉ thị, và
nhiều khi họ nghiên cứu mà họ không biết rằng mình sai hay đúng.
Về phần mình, tôi ngờ rằng những điều đó ngày càng khó nghe
đối với giới nghiên cứu hiện nay, vì chúng đánh vào lòng tự ái của họ, lương
tâm của họ, là điều mà chính họ muốn quên lãng và không muốn ai nhắc lại nữa.
Từ Huy có lẽ đã cảm thấy điều đó khi mở đầu bài viết bằng
đoạn cảm thán Vẫn biết rằng những gì nói ra
ở đây có thể chẳng ai nghe, có thể chẳng nhận được sự hồi đáp nào, mà có khi
lại tự gây nguy hiểm cho bản thân, chuốc lấy sự thù ghét của đồng nghiệp. Nhưng
đã cầm bút thì không làm khác được.
Đây tôi không nói rằng việc giới nghiên cứu im lặng là tốt, nhưng
chúng ta cần phải thông cảm với họ. Họ được đào tạo theo những cách khác và đặt
quyền lợi của mình ở những điểm khác. Nêu ra những yêu cầu có tính chất ” chuẩn
mực quốc tế ” đối với họ, là làm phiền họ và cũng chỉ gây thất vọng vì sẽ chẳng
bao giờ mà yêu cầu đó được thỏa mãn.
Sống tiếp như thế nào đây
Chúng ta thường chỉ lo lắng là có vẻ như KHXH ở ta hiện nay không
có thành tựu. Cái đáng lo hơn là con
người. Khi con người đã hỏng thì còn làm ra cái gì có giá trị nữa!
Một bạn theo dõi tình hình khoa học ở Nga kể với tôi câu chuyện
sau:
Đúng năm
1991, khi Liên xô sụp đổ thì một nhà khoa học trẻ bảo vệ thành công một luận án
tiến sĩ xuất sắc về chủ nghĩa vô thần. Đó là một người hết sức thông minh. Ông
hiểu rằng cả tuổi trẻ của ông đã đi vào con đường sai lầm. Cảm thấy không có lý
do để sống nữa, ông nhẩy lầu tự tử.
Ở ta không có những con người như thế. Trong trường hợp tốt nhất
chúng ta chỉ có những mẫu người như Trần Quốc Vượng đã mô tả và sống theo. Cái
gì cũng có một chút. Một chút phải đạo, một chút chống đối làm dáng. Một chút
khoa học, một chút một chút xẩm chợ nói liều. Một chút cống hiến hết mình, một
chút nhặt nhạnh kiếm chác và hưởng thụ.
Vả chăng, cái mẫu như ông Vượng cũng đang ngày một hiếm.
Thế tức là tình thế hoàn toàn tuyệt vọng hay sao? Khi tự đặt cho
mình câu hỏi này, tôi tìm tới câu trả lời nước đôi. Vâng, tuyệt vọng thật .
Đáng lẽ chúng ta phải có hàng trăm Bảo Ninh, hàng vài chục Nguyễn Huy Thiệp thì
văn chương chúng ta mới khởi sắc được, chứ chỉ có một hai người ấy, mọi sự hy
vọng đều là tự dối mình. Tuy nhiên, chúng ta không thể chết như ông tiến sĩ
người Nga, chúng ta phải sống. Đối với các bạn trẻ, tôi nghĩ nay là lúc phải
phân thân, vừa biết sống như mọi người, vừa dành một phần tối đa có thể để học
hỏi và thầm lặng bắt tay vào, làm một cách hết lòng, làm như làm cho chính
mình, những việc tử tế, có đóng góp cho khoa học mà cũng là có đóng
góp thực sự cho nhân dân đất nước .
May mà chúng ta làm khoa học xã hội, công cụ làm việc nhiều
khi chỉ cần ít cuốn sách là đủ. Cũng chẳng cần chung quanh công nhận vội…Bởi
cái đích của ta rất xa…Trong việc này mỗi người có thể rất đơn độc, và thất bại
nữa…Và trước mắt là chịu thiệt, là không có cả danh lẫn lợi. Nhưng niềm vui lớn
nhất, niềm vui của cuộc truy tìm chân lý đang chờ. Nhờ thế, lòng ta luôn luôn
thanh thản.
Trong cái cuộc sống khó khăn này, có một điều theo tôi nên nghĩ.
Là không phải chúng ta bi đát, mà nhiều người khác trên trái đất này cũng bi
đát, các trí thức Nga , các trí thức Trung Quốc, và gần đây các trí thức
Afganistan, Iraq , Ai Cập… Nghĩ rộng ra nữa, đọc kỹ vào văn học phương Tây thế
kỷ XX, thì ở đâu chúng ta chẳng bắt gặp cái giọng đau đớn vì sự bất lực khi
muốn làm người tử tế.
Trong thời hiện đại, có thể anh cần chấp nhận một số điều kiện mà những con người cổ điển thà chết chứ không chấp nhận. Phải sống để làm bằng được cái điều anh đã dự định ( như Tư Mã Thiên xưa nuốt nhục để làm nốt sứ mệnh của người viết sử). Như vậy là anh đã không đầu hàng, hơn thế nữa, đã chiến thắng .
Trong thời hiện đại, có thể anh cần chấp nhận một số điều kiện mà những con người cổ điển thà chết chứ không chấp nhận. Phải sống để làm bằng được cái điều anh đã dự định ( như Tư Mã Thiên xưa nuốt nhục để làm nốt sứ mệnh của người viết sử). Như vậy là anh đã không đầu hàng, hơn thế nữa, đã chiến thắng .
Ở một trang sổ tay cũ, tôi có chép được một câu danh ngôn,
đúng hơn là một lời tự nhủ của một nhà văn, nó từng ám ảnh tôi nhiều năm, hồi
chiến tranh đã thấy đúng, nay càng thấy đúng:
Thời đại chúng ta cốt
yếu là một thời đại bi thảm, bởi thế chúng ta từ chối coi nó là một cái gì bi
thảm. Cuộc đại biến động đã xảy ra, chúng ta ở giữa những đổ nát, chúng ta bắt
đầu xây dựng những túp lều trú ngụ tạm bợ và dấy lên chút hy vọng nhỏ bé
mới. Đó là một công việc khá nhọc nhằn. Nay là lúc không có con đường bằng
phẳng nào dẫn tới tương lai. Nhưng chúng ta sẽ đi vòng quanh hoặc bò qua những trở
ngại. Chúng ta phải sống thây kệ bao nhiêu bầu trời đã sụp.
Câu này của D.H. Lawrence (1885 – 1930), tôi đọc được từ
trong một cuốn sách của ông Nguyễn Hữu Hiệu, hình như là cuốn Con đường sáng tạo in
ở Sài Gòn trước 1975.
V. T. N.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment