From: Tien Mai <
Date: 01/20/2016 11:39
AM (GMT-06:00)
Subject: Bắc Kỳ 9
nút_Bắc Kỳ 2 nút
Đọc lại những bài viết cũ, nhưng ý nghĩa thì luôn luôn
gần vơi hiện tại ngày hôm nay vì nó đã bóc trần sự thật về con
người cộng sản.
Bắc kỳ 2 nút nhà văn Dương Thu Hương đã nhận xét.
Sự thật đã chứng minh “con người ít nhiều là sản phẩm của xã
hội”, vậy thì xã hội man rợ tất nhiên sản xuất ra con người dã man. Từ cái bản
chất dã man này, tự nó, sinh ra tệ trạng sinh hoạt đầy tính chất nguy hiểm, độc
ác, gian manh, quỷ quyệt khó lường v.v. Đó là kết quả tất yếu không cần lý
giải.
Bắc Kỳ 9 nút_Bắc Kỳ 2 nút
Bắc Kỳ 2 nút
“Anh hãy đi cho khuất mắt tôi, các anh đeo dai
như con đỉa. Chúng tôi đã sợ các anh quá rồi! Hai mươi mốt năm trước, chúng tôi
đã phải bỏ cả nhà cửa làng xóm để chạy xa các anh vào đây, vậy mà bây giờ các
anh vẫn lại theo bám, không buông tha!”
Đó là lời người con gái ở Hố-Nai Biên-Hòa (bắc
kỳ 9 nút) nói với tên bộ đội (bắc kỳ 2 nút) khi hắn theo tán tỉnh cô sau
30-4-1975. Cô là thế hệ thứ hai của một gia đình di cư vào Nam sau 20-7-1954.
Tội nghiệp cô gái bắc kỳ! Chúng tôi, những người lính thời ấy, trách nhiệm thế
nào với nỗi nghẹn ngào cay đắng này của cô?
Note: Một số hình ảnh trong
bài viết này là hình minh họa
Ván bài thắng ngược! Tại sao
con số 9 nút (1954) lại thua con số 2 nút (1975)? Cái gì khiến cô gái bắc kỳ
này lại sợ tên bộ đội bắc kỳ kia? Trải nghiệm thực tế, đơn thuần trong sinh
hoạt xã hội của “bác” Hồ trước và sau những năm 1975 để giải mã những nguyên
nhân căn bản khiến con số 9 nút phải thua con số 2 nút:
Bắc Kỳ 9 nút
Ở năm thứ 5 của đời tù tội, lần đầu tiên mẹ tôi
đi thăm tôi ở trại Ba-Sao Nam-Hà, quà cho tôi thật khiêm tốn, trong đó có hai
hộp sữa đặc là đáng quý nhất. Tôi nói đường xá xa xôi, mẹ mang làm chi hai hộp
sữa này cho nặng, thì mẹ tôi cho biết bà mua ở Hà-Nội khi đi ngang qua. Chia
tay, tôi ôm hai hộp sữa vào lòng, nghĩ tới chiều nay có được cái “ngọt ngào của
cuộc đời", cái ngọt ngào đã biến mất
trong suốt hơn 5 năm trong đời tù đày, mà đôi chân tôi bước đi khấp khểnh, cao
thấp như đang ở trên mây.
Thế nhưng, trời sập rồi! cái đinh vừa đâm lút
vào hộp sữa thì một dòng bùn đen túa ra, tôi mềm người rũ gục như một tàu lá
úa. Ngồi
cạnh tôi, người bạn thân trong tù đang chờ được chia xẻ, đôi mắt trợn tròn rồi
rủ xuống như muốn khóc! Bóc nhãn hiệu ra, thấy cạnh hộp sữa có một vết hàn. Như thế là người Hà-Nội đã
tinh vi sáng tạo: rút ruột sữa ra, bơm bùn đen vào rồi hàn lại. Quả thật (mẹ
tôi), Bắc Kỳ 9 nút đã thua Bắc kỳ 2 nút!
“Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy
vũ bất năng khuất”. Tôi
đã học cái văn hóa đó ở nhà trường. Ở nhà, trong hoàn cảnh nghèo, mẹ tôi thường
nhắc nhở anh em chúng tôi phải luôn giữ cái chất “bần tiện bất năng di” ấy. Đó
là cái nhân cách căn bản được giáo huấn ở học đường miền Nam Việt-Nam, ở cái
đất nước mà con người hiền hòa, chân chất, đơn thuần, vô tư không ôm hận thù,
không biết cướp bóc, lừa bịp, đểu cáng vv. Đó chính là cái đất nước ở phía sau
vĩ tuyến 17 kia.
Còn ở miền Bắc, cái đất nước
trước vĩ tuyến 17 thì sao? Người ta dạy nhau cái gì ở nhà trường và ngoài xã
hội? Người ta dạy nhau rằng “bần cùng sinh đạo tặc”. Hậu quả là sau 30- 4-1975,
người Bắc Kỳ, tay cầm dao, tay cầm súng, tràn vào miền Nam điên cuồng giết
người cướp của, hành động của “kẻ dã man thắng người văn minh” mà nhà nữ văn sĩ
C/S Hà-Nội Dương Thu Hương đã nhận xét.
Sự thật đã chứng minh “con người ít nhiều là
sản phẩm của xã hội”, vậy thì xã hội man rợ tất nhiên sản xuất ra con người dã
man. Từ cái bản chất dã man này, tự nó, sinh ra tệ trạng sinh hoạt đầy tính
chất nguy hiểm, độc ác, gian manh, quỷ quyệt khó lường v.v. Đó là kết quả tất
yếu không cần lý giải.
Chỉ có một mẩu cá khô lấy trộm trong khi vận
chuyển lương thực, ông chiến hữu của tôi miệng phải ngậm miếng cá đó, cổ đeo
cái bảng viết hai chữ “ăn cắp”, đứng trước cổng trại suốt ba ngày! Miếng ăn quý
hơn mạng người! Ông ngục sĩ Nguyễn-chí-Thiện khi còn sống đã nói rằng: “miền
bắc thắng miền nam là do chế độ lương thực tem phiếu”. Ông đúng hay sai? Đây là
câu trả lời: “Em xin anh, chúng em mà nói trên đài thì ở ngoài kia, cha mẹ và
vợ con em sẽ bị cắt hộ khẩu, họ sẽ chết đói!”. Đó là lời của ba tên tù binh bị
bắt trong trận đánh cuối cùng ở Long-Khánh.
Tôi còn nhớ, ngày 3/9/1978, ngày giỗ “bác” Hồ
của nhân dân bắc kỳ (2 nút), tại trại giam ở Yên-Bái, địa danh có cái tên nghe
rợn người: “Ma thiên lãnh!”, tù nhân được nghỉ một ngày để chuẩn bị làm giỗ
“bác”. Bàn thờ được trải khăn đỏ, sau bàn treo lá cờ to, trên bàn có hình “bác”,
trước “bác” đặc biệt có một mâm hoa quả bằng hình vẽ mà trước đó, nguyên một
ngày, ông tù nhân Lê-Thanh, họa sĩ kiêm điêu khắc gia có tiếng trong quân đội
miền Nam “thua cuộc”, đã phải vẽ trên cả chục bản để ông cai tù trưởng trại lựa
chọn.
Sau khi đã nhuần nhuyễn nói về tài thao lược và
đạo đức của “bác”, trưởng trại để ý thấy tù nhân xì xầm về bức họa trái cây
kia, ông bèn rất là trân trọng và tự tin nói rằng: “bác thường dạy “trong đấu
tranh gian khổ, tính chất khắc phục là quan trọng”, cho nên khả năng “biến
không thành có, biến khó thành dễ” là thành tích luôn được biểu dương, khen
thưởng”!
Giỗ “bác” hôm nay, “bác” được ăn hoa quả giấy.
Quả nhiên gậy “bác” đập lưng “bác”! Phần tù nhân, nghe xong chỉ thấy họ lặng
im. Tôi đoán họ đang nghĩ đến nhờ ngày giỗ “bác”, bữa ăn trưa nay được tăng
thêm trọng lượng.
Ông chiến hữu (bắc kỳ 9 nút) nằm cạnh tôi kể
chuyện anh: “Bọn công an (bắc kỳ 2 nút) cùng người giúp việc nhà anh, là chị đã
xin nghỉ việc vài ngày sau 30/4/1975, đạp cửa bước vào và lớn tiếng hỏi anh:
“lương lính, quân hàm thiếu tá, một tháng anh lãnh bao nhiêu? Anh trả lời chỉ
vừa đủ sống cho hai vợ chồng và năm đứa con. Tên công an quát lớn: chỉ đủ sống
thì làm sao anh có cái nhà to thế này? Đây là anh đã lấy của nhân dân, vậy bây
giờ anh phải trả lại cho nhân dân. Anh có ba ngày để dọn ra khỏi căn nhà này.”
Một hơi thở dài, rồi một cơn ngủ thiếp của một
ngày “chém tre, chặt gỗ trên ngàn, hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai” của ông
chiến hữu (bắc kỳ 9 nút) đã thay cho phần kết của chuyện kể mà tôi thiển nghĩ,
những người dân miền Nam, cái đất nước ở sau con sông Bến-Hải kia đều đã biết
cái số phận căn nhà đó ra sao.
Những ngày vừa qua, nhân lễ kỷ niệm 50 năm anh
em Tổng Thống Ngô-đình-Diệm bị sát hại, vài đài truyền hình có chiếu lại hình
ảnh của gần một triệu người bắc kỳ (9 nút) bồng bế, gồng gánh, mang theo những
chổi cùn, rế rách, luộm thuộm dắt díu nhau lên con tàu “há mồm” xuôi nam. Sau
đó họ được định cư ở những vùng xa, vùng xâu, hoang vu hẻo lánh, lập nghiệp. Mơ
ước cư ngụ ở giữa thành phố ồn ào, xôn xao, đối với họ chỉ là hoài bão.
Thế còn 30-4-1975, bắc kỳ (2 nút) xuôi nam thì
sao? Vai đeo súng, tay cầm dao, nghênh ngang tràn vào thành phố cướp của, lấy
nhà, chiếm đoạt, chễm chệ ở trong những căn nhà lớn ngay giữa thị thành. Áp đẩy
khổ chủ đến vùng xa, vùng sâu có tên gọi là “kinh tế mới”! Cái tư thế “chễm
chệ” kể trên, mỗi ngày một phát triển lớn, tới độ, bây giờ 38 năm sau, gần như
toàn thể những thành thị ở miền nam, trên những đường phố lớn, trong những căn
nhà to, chủ nhân đều là bắc kỳ (2 nút). Như vậy, chẳng phải rõ ràng bắc kỳ (2
nút) không những chỉ thắng bắc kỳ (9 nút), mà còn thừa thắng xông lên, áp đảo
luôn cả những nam kỳ chủ nhà, không nút nào hay sao?
Tên công an chính trị viên, phó trại giam, tốt
nghiệp viện triết học Marx, trong đối thoại về chủ nghĩa Cộng-Sản, hỏi tôi rằng
“chân lý có thay đổi không?” Tôi trả lời: “đã là chân lý thì không thay đổi”.
Hắn cười.
Hôm nay, hắn đúng, tôi sai. Chân lý của Marx
quả đã thay đổi. Thế giới C/S của Marx đã xây dựng gần một thế kỷ, hoàn toàn
sụp đổ. Học trò của Marx đã chia tay ý thức hệ với Marx, lũ lượt bỏ chạy qua
vùng đất tư bản, thấy của cải vật chất phong phú thừa thãi mà chóng mặt, hoa
mắt nên làm càn làm loạn”. “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”, thế hệ sau tiếp
nối thế hệ trước, gia sức trấn lột, cướp bóc, lừa bịp, điên đảo, tham nhũng bừa
bãi, trơ tráo tới độ vô văn hóa, vô nhân tính.
Trở lại con số 9 nút (1954) và con số 2 nút
(1975) mà người ta mệnh danh là bắc kỳ cũ và bắc kỳ mới, với những chuyện xảy
ra ở trên một đất nước xa Hà-Nội tới ngàn dậm này: Đất nước Hoa-Kỳ.
“Này chị kia, ở nước Mỹ chợ nào cũng có chỗ cất
shopping- car, sao chị lại bỏ bừa sau xe của tôi?“ Cứ tự nhiên như ở Hà-Nội!,
“Nhà tôi” (bắc kỳ 9 nút), bực mình la lớn. Hai bà (bắc kỳ 2 nút) tỉnh bơ, nổ
máy xe biến mất. Còn lại là hai tôi, mỗi người đẩy một xe đưa vào chỗ cất.
Một lần khác, người bạn tôi kể rằng “Đi chợ,
mua vội, tay chỉ cầm có hai gói cà-phê, đang xếp hàng chợt một chị bắc kỳ (2
nút) chen ngang vào đứng trước anh, anh phản đối thì chỉ hỏi lại: “xe của ông
đâu?” Anh giận quá la lớn: “Đây là ở nước Mỹ, mua nhiều hay ít đều phải xếp hàng
chứ không phải ở Hà-Nội của chị”.
Tại một nhà hàng, cháu gái của tôi cầm tờ biên
lai tính tiền do bạn trai là người Mỹ trả, tới nói với người thâu ngân rằng:
“chúng tôi gọi hai tô bún thịt nướng chứ đâu phải chả cá thăng-long mà tính
nhiều thế này?” thì được thâu ngân viên buông gọn một chữ “nhầm”, rồi đếm tiền
hoàn lại, không một lời xin lỗi. Tôi đoán chắc người Hà-Nội, chủ nhân (2 nút)
tưởng Mỹ khờ khạo (đã bị bác và đảng đánh bại), nên mập mờ đánh lận con đen.
Trên đường về nhà, dọc hai bên đường, ở giữa
lòng cái thủ đô có tên Little Saigon này, lác đác những căn nhà to như dinh thự
mà người Hà-nội đã bỏ tiền triệu để sở hữu một cách ngạo nghễ, khiến tôi chợt
nhớ đến ông chiến hữu bại trận của tôi năm xưa đã phải “trả nhà cho nhân dân”
(nhân dân Hà-Nội), mà xót xa!
Tôi miên man tự hỏi, chẳng lẽ từ niềm tự hào
“đánh thắng hai đế quốc lớn” của người Hà-Nội đang được thể hiện một cách ngang
ngược, lỗ mãng, vô văn hóa ngay giữa cái thủ đô của người Việt tị nạn trên đất
nước Hoa-Kỳ này đến vậy sao? Lý do gì họ có mặt nơi này? phần đất nơi cư ngụ
cuối cùng, mà những người hoảng sợ đã phải bỏ nhà bỏ của để chạy xa họ? Tôi
đang nghĩ đến người con gái bắc kỳ (9 nút) ở đất Hố-Nai Biên-Hòa năm xưa. Tôi
ước ao được gặp lại cô ở nơi này, nơi cư ngụ cuối cùng của những người kinh
hoàng, hoảng hốt bỏ lại quê hương, chạy trốn những kẻ bạo tàn! Tôi muốn lại
được nghe cô nói rằng “Các anh hãy đi cho khuất mắt tôi, tôi đã sợ các anh quá
rồi, chạy xa các anh tới nửa vòng trái đất mà các anh vẫn không buông tha!”
Ông nhà văn Hoàng-hải-Thủy của miền nam cũ, mới
đây cay đắng than rằng “Nếu một ngày nào đó trên đất nước Hoa-Kỳ này, giữa nơi
ở của những người Việt tị nạn có phất phới lá cờ đỏ sao vàng thì xin cho tôi
được chết trước!” Nghe mà xót xa cay đắng quá! Mong là con bài 2 nút sẽ không
thắng ngược 9 nút thêm lần nữa!
Bùi Trọng Nghĩa/K18-BBTĐ
CA
DAO XHCN - 2013
Cục
đá mà biết
nói năng
Dũng
Hùng Sang Trọng
hàm răng chẳng
còn
Có
gan ăn cắp
chịu
đòn
Đảng
ta ăn cướp
lại
còn đánh dân
*
Đố
ai đếm
được
lá rừng
Đố
ai giết
được
Trọng
Hùng Dũng Sang
Bốn
thằng
tứ
trụ
Việt
gian
Để
dân nước
Việt
hân hoan ăn mừng
*
Thu
đi để lại
lá vàng
Bác
đi để lại
một
thằng
họ
Nông
Thằng
này quả
thật
chơi
ngông
Bảy
mươi
lấy
vợ
má hồng
đẹp
xinh
*
Bắc
thang lên hỏi
ông trời
Đánh
tan cộng
sản
đợi
thời
nào đây
Ông
trời ổng
nói làm ngay
Sửa
xong hiến
pháp bó tay con à
*
Ngươi
về
nói với
dân là
Nam
Quan hải
đảo
đảng
ta bán rồi
Nếu
mà dân vẫn
cứ
ngồi
Ngày
mai mất
nước
thành người
Trung Hoa
*
Hò
ớ ơ...
Còn thời
buôn nước
bán dân
Hết
thời
đảng
lấy
dây thung bắn
ruồi
Chưa
tạc
bụt
đã nặn
b...
Cái
thằng
y tá mà đòi dạy
dân
*
Ngày
xưa
bác cũng đi tù
Thiếu
ăn đói lở sưng
vù con chim
Từ
ngày đảng
bác dựng
nên
Trường
học
thì ít xà lim thì nhiều
*
Chiều
chiều
ra bến
Ninh Kiều
(Cần
Thơ)
Dưới
chân tượng
bác đĩ nhiều
hơn
dân
Ai
ơi
chớ nghĩ
mình đần
Đảng
kia lãnh đạo
cù lần
gấp
đôi
*
Ba
cô nhập
học
đầu
năm
Một
cô bị bắt
hầu
Sầm
Đức
Xương
Mười
ba đảng
cũng làm luôn
Học
theo gương
bác chẳng
buông em nào
*
Non
kia ai đắp
mà cao
Lương
cộng
sản
ít cớ
sao nó giàu
Hỏi
Sang Trọng
Dũng một
câu
Đảng
không suy thoái sao sâu cả bầy
*
Muốn
sang thì bắc
cầu
kiều
Muốn
không mất
nước
bỏ
điều
bốn
ngay
Chơi
dao sẽ bị đứt
tay
Đảng
đùa với
lửa
có ngày diệt
vong
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment