30 tháng tư:
Nhìn người rồi lại nhìn ta!
Lữ Giang
Cuộc
tháo chạy của VNCH năm 1975 được khởi đầu bằng cuộc tháo chạy của Cộng Hòa Khmer.
Mỗi lần đến 30 tháng tư, chúng ta cần nhìn lại hai cuộc tháo chạy này dưới
những khía cạnh khác nhau để rút thêm những bài học lịch sử.
NHÌN NGƯỜI
TRƯỚC…
Với
sự hậu thuẫn của Mỹ, ngày 18.3.1970 trong lúc Sihanouk đang ở ngoại quốc, Thủ Tướng
Lon Nol cho quân đội bắt giữ chính quyền dân sự ở Phnom Penh, bao vây toà nhà
Quốc hội và triệu tập Quốc hội bỏ phiếu phế truất Sihanouk khỏi vị trí Quốc trưởng
và trao quyền lực khẩn cấp cho Lon Nol. Lon Nol cử Hoàng thân Sirik Matak –
người bị chính phủ Pháp loại bỏ để trao ngôi vị cho Sihanouk - giữ chức Phó Thủ
tướng. Sau cuộc đảo chính, Hoàng thân Sihanouk đến Bắc Kinh và bắt đầu ủng hộ
Khmer Đỏ trong cuộc chiến lật đổ chính phủ Lon Nol.
Tháng
10 Lon Nol tuyên bố thành lập Cộng hòa Khmer và Lon Nol trở thành Tổng thống đầu
tiên. Hoàng thân Sirik Matak được cử làm Phó Tổng Thống.
Hoàng thân
Sihanouk
Tháng
4 năm 1973, Lon Nol đình chỉ hoạt động của Quốc hội, tuyên bố thành lập "Hội
đồng Chính trị Tối cao" bao gồm chính ông, Sirik Matak, Cheng Heng và In
Tam.
Vào đầu
năm 1975, Khmer Đỏ và CSVN bắt đầu mở cuộc tấn công chế độ Lon Nol, thành lập
vòng đai bao vây thủ đô Phnom Penh. Quốc hội Hoa Kỳ quyết định không cấp viện
trợ thêm cho Campuchia nữa. Ngày 1.4.1975, Tổng Thống Lon Nol tuyên bố từ chức
và bay đi tỵ nạn ở Hawaii. Hoàng thân Sirik Matak quyền Tổng Thống.
Sáng
12.4.1975 Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Eagle Pull, di tản các nhân viên, các viên
chức Mỹ và một số viên chức Campuchia bằng máy bay trực thăng từ thủ đô Phnom
Penh tới các hạm đội Mỹ trong vịnh Thái Lan.
Đại
sứ Mỹ ở Cambodia lúc đó là ông John Gunther Dean đã thông báo cho các viên chức
cao cấp của Cộng Hòa Khmer biết Hoa Kỳ dành cho họ quyền tỵ nạn chính trị tại Hoa
Kỳ, nhưng Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ Tướng Long Boret, Lon Non (em của Lon Nol)
và các thành phần nội các của chính phủ Lon Nol đã từ chối, mặc dầu Long Boret
và Sirik Matak có tên trong danh sách “Bảy kẻ Phản Bội” (Seven Traitors) bị
Khmer Đỏ tuyên án tử hình. Tổng cộng có 150 người trong chính phủ Cộng hòa Khmer
đã di tản theo người Mỹ. Còn Hoàng thân Sirik Matak đích thân viết cho Đại sứ
John Gunther Dean một lá thư có nội dung như sau:
“Tôi thành thật
cảm tạ Ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi! Tôi
không thể bỏ đi một cách hèn nhát như vậy! Với Ngài và
nhất là với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi
lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do. Quý vị từ
chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết. Ngài ra đi, tôi
cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ngài
nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ở đây và ở lại đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó
là điều tệ hại, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày
nào đó. Tôi chỉ ân hận một điều là đã quá tin và chót
tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ! Xin Ngài nhận
những cảm nghĩ chân thành và thân hữu của tôi.”
Ký
tên: Hoàng thân Sirik Matak
Hoàng thân Sirik
Matak
Riêng
về Thủ Tướng Long Boret, Đại sứ John Gunther Dean kể:
"Long
Boret đã từ chối việc di tản. Ông ta là một người tài giỏi. Trẻ hơn nhiều so
với Lon Nol hoặc Sirik Matak. Khi cá nhân tôi đến gặp ông vào ngày 12 tháng 4,
trong cuộc di tản buổi sáng sớm của chúng tôi, đề nghị ông ta hãy dắt vợ con
cùng chúng tôi rời khỏi Phnom Penh vì tôi lo sợ cho sự an toàn của ông ấy, ông
ta cảm ơn tôi nhưng [như ông ta nói] nghĩ rằng tính mạng của ông ấy không đáng
lo ngại.”
Thủ Tướng Long
Boret
Ngày
17.4.1975, lực lượng Cộng hòa Khmer sụp đổ, Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh. Hoàng
thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret, Lon Non và các viên chức hàng đầu của Chính
phủ Cộng hoà Khmer đã bị bắt đưa đi xử tử tại trung tâm thể dục thể thao Cercle
Sportif. Các đơn vị thuộc quân đội Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer của Lon
Nol còn lại trong thủ đô đều bị tước vũ khí và đưa đi xử bắn toàn bộ tại sân
vận động Olympic.
Trong
Hồi ký “Ending the Vietnam War” Kissinger nói rằng chính quyền Ford đã bất ngờ và
xấu hổ vì trên thực tế các quan chức hàng đầu của Campuchia đã từ chối rời khỏi
đất nước, bao gồm Hoàng Thân Sirik Matak, Thủ tướng Long Boret và em trai cựu
Tổng thống Lon Nol là Lon Non, mặc dầu họ nằm trong danh sách mà Khmer Đỏ đã tuyên
án tử hình.
RỒI QUAY LẠI
NHÌN TA...
Tướng
Dương Văn Minh vốn nổi tiếng là THAM, NGU, HÈN nên bị Mỹ khai thác và đưa ra làm
con bài thí mỗi khi muốn thay đổi tình hình.
1.- BỊ DÙNG LÀM SÁT THỦ
Đại
Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Giám Đốc Phủ Đặc Ủy Trưởng
Trung Ương Tình Báo của VNCH đã kể lại hai chuyện liên quan đến những sự vi
phạm nghiêm trọng của Dương Văn Minh, nhưng được Tổng Thống Diệm bỏ qua cho:
Đại tá Nguyễn Văn
Y
Vụ thứ nhât:
Chôm thùng phuy vàng của Bình Xuyên
Ông cho
biết vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào
Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Họ thấy một người
đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi,
nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một
cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận
chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông cho mò tìm và vớt được hai thùng, một
thùng đựng bạc giấy và một thùng đựng vàng. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt
phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao
cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Dương Văn Minh chẳng báo
cáo gì về vụ vàng này. Ông Diệm đã ra lệnh điều tra. Hai người được trao nhiệm
vụ điều tra là Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá
Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội. Đại Tá Xuân báo cáo số vàng Tiểu Khu
Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh. Nhưng sau khi suy nghĩ,
ông Diệm nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó đi cho yên!”
Vụ thứ hai:
Chứa chấp gián điệp Việt Cộng.
Vào đầu
năm 1960, nhân viên tình báo thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh ở
số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước
nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra.
Khoảng
tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh,
đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính
Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của
Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu tá trong bộ
đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát,
nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh
viên chống ông Diệm.
Trong
cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt
có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn,
em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin
của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương
Văn Nhựt.
Ông
đã trình vụ này cho Tổng Thống Diệm, nhưng sau khi nghe, Tổng Thống đã đưa cho
ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được
Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không
muốn nhắc tới cái vụ này nữa.” Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên
tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi
qua Cam-bốt và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: Nếu trở lại sẽ bị thanh
toán.
Ngày
18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức
Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.”
Biết
Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm, nên năm 1963 khi tổ chức đảo chánh
ông Diệm, Mỹ đã dùng Dương Văn Minh làm Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng,
tức chỉ huy cuộc đảo chánh. Nhưng khi hành động, Thiếu Tá Lucien Conein chỉ để
cho Dương Văn Minh làm sát thủ, giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô
Đình Nhu và hai người chống đảo chánh là Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng
Đặc Biệt, và Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, còn việc tổ chức và điều
hành quân đội đảo chánh đều đặt dưới quyền chỉ huy của hai nhân viên CIA là
Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm và Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu.
Tướng
Minh được trao quyền lãnh đạo chính phủ trong giai đoạn chuyển tiếp, sau đó bảo
Tướng Khiêm làm “chỉnh
lý” ngày 30.1.1964, loại bỏ các tướng râu ria của Dương Văn Minh
về tội “thân Pháp”, đưa Tướng Nguyễn Khánh ra làm sát thủ Ngô Đình Cẩn. Nguyễn
Khánh ban hành một đạo luật hồi tố để giết Ngô Đình Cẩn. Giới luật gia phản đối vì luật này vi phạm nguyên tắc bất hồi tố (non-retroactive) của
hình luật và điều 11 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng khi Mỹ bảo
thì chẳng cần luật pháp, nên Nguyễn Khánh đã cho xử bắn Ngô Đình Cẩn.
Sau đó các biến loạn đã xảy ra, Mỹ loại Nguyễn Khánh và đưa
hai tên tà lọt của CIA là Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm lên
cầm quyền tại Miền Nam cho đến ngày mất nước.
2.- BỊ DÙNG LÀM
HÀNG TƯỚNG
Ngày
21.4.1975, Đại Sứ Martin đến thuyết phục Tổng Thống Thiệu từ chức để đưa Dương Văn
Minh lên đầu hàng, nhưng ông Thiệu chẳng biết gì hết, còn hỏi ông Martin: “Nếu tôi từ
chức, viện trợ Mỹ có đến không?” Đại Sứ Martin trả lời: “Tôi không dám
hứa nhưng có thể có”.
Frank
Snepp cho biết sáng 20.4.1975, Đại Sứ Mattin đã đi gặp Đại Sứ Mérillon của Pháp
và xin tiếp một tay. Đại sứ Merillon cho Tướng Minh biết ông ta đã liên lạc với
phía bên kia, họ cho biết chỉ nói chuyện với tướng Minh. Tướng Minh tưởng thật,
đồng ý làm Tổng Thống để điều đình với “phía bên kia” và thành lập một “chính phủ
hòa hợp hòa giải”. Tướng Timmes đã đến gặp Tướng Minh để thăm dò, Tướng Minh
cười và trả lời: “Vẫn còn cơ hội cho các cuộc thương thuyết…” (There was still
a chance for negotiations). Nhưng chiều 28.4.1975, lúc 17 giờ 50, sau khi nhận
chức Tổng Thống, Tướng Minh đã cho người đi tìm Đại Sứ Mérillon thì ông đã biến
mất rồi!
Đến
đây người Việt mới nhận ra rằng Mỹ là "siêu cộng sản"!
Tổng Thống Dương
Văn Minh
Lúc
11 giờ sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng.
Lúc
11 giờ 30, chiếc xe tăng T-54 đầu tiên của Việt Cộng tiến trên đại lộ Thống
Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập một cánh cổng đã mở, sau khi bắn hai phát đại
bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên
nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra
khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa
Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội
ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ
hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.
Khi mọi
người chưa kịp làm gì tiếp thì Trung Tá Bùi Tùng, Chính Ủy Lữ Đoàn Xe Tăng 203
tới. Ông Minh thấy ông Tùng người to cao thì lễ phép chào và nói:
-
Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào lâu rồi để bàn giao chính quyền.
-
Trung Tá Tùng nói:
-
Các ông là người bại trận. Các ông không còn gì để bàn giao mà chỉ có đầu hàng
vô điều kiện.
Ông Tùng
buộc Tổng Thống Dương Văn Minh và Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh Sài
Gòn tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Dương Văn Minh bị
dẫn tới Đài Phát Thanh Sài Gòn
Bản tuyên
bố đầu hàng do Chính Trị Viên Bùi Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh
phát đi vào lúc 13 giờ 30:
“Tôi, Đại tướng Dương Văn
Minh, Tổng Thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân Lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ
khí đầu hàng không điều kiện quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố
chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ
trung ương đến địa phương trao lại cho Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam
Việt Nam.”
Tính
lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống chỉ 36 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều
28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng, kết thúc cuộc đời làm
con bài thí của Mỹ trong một thời điểm rất bi thảm.
NHỮNG BÀI HỌC
ĐẮT GIÁ
Nhìn
lại những gì mà Thủ Tướng Long Boret và Hoàng thân Sirik Matak của nước Campuchia
nhỏ bé đã làm rồi nhìn lại hành động của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ Tướng
Trần Thiện Khiêm và Tổng Thống Dương Văn Minh của nước Việt có lịch sử ngàn đời
oai hùng…, ít ai không cảm thấy đau buồn.
Người
Mỹ khi rút khỏi Sài Gòn không hề thông báo cho các viên chức cao cấp của VNCH rằng
Hoa Kỳ dành cho họ quyền tỵ nạn chính trị tại Hoa Kỳ như họ đã thông báo cho
các viên chức Cộng Hòa Khmer khi rút khỏi Phnom Penh, nên hầu hết các viên chức
cao cấp VNCH đã phải bị đi tù vì hợp tác với Mỹ. Chính quyền Ford cũng không hề
“bất ngờ và xấu hổ” về chuyện này. Mặc dầu vậy “tình hữu nghị
Việt – Mỹ vẫn đời đời bền vững”.
Hoàng
thân Sirik Matak đã nói với người Mỹ “không bao giờ
tôi lại tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do” và “Tôi chỉ ân hận một
điều là đã quá tin và chót tin ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ!”, trong khi đó đa số
người Việt đấu tranh vẫn tiếp tục tin tưởng rằng người Mỹ sẽ giúp họ “giải phóng
quê hương” và mỗi khi có chuyện gì bất bình thường đi mách với Mỹ!
Đó
là những bài học lịch sử đắt giá. Triết gia George Santayana (1863 – 1952) đã
nhắc nhỡ chúng ta:
“Những người không thể
nhớ quá khứ bị kết án tái diễn nó. Học từ quá khứ của chúng ta là cách duy nhất
có trách nhiệm để chuẩn bị cho chính chúng ta về tương lai, nhất là khi quá khứ
đó là chứng tích của thất bại đáng ghi nhớ.”
Ngày
28.4.2016
Lữ Giang
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment