Chuyện bé như
hạt gạo hay thảm họa quốc gia:
Nguy cơ ngộ độc kim loại nặng ven biển miền
Trung và những tác hại lâu dài
ThS Trần Thị Thanh Thoả1, Thiều Mai Lâm 2, và GS.TS Trương Nguyện Thành3
1 Khoa
Sinh học, Trường Đại học Thủ đô Tôkyo, Nhật Bản (thoa.tran@riken.jp)
2Viện Khoa học Cao phân
tử, Đại học Kỹ thuật Virginia, Mỹ (thieu@vt.edu)
3Khoa Hóa Học, Đại Học
Utah, Mỹ (Thanh.Truong@utah.edu)
Hiện tượng cá biển chết hàng loạt ở Vũng Áng và dọc bờ biển dài
hàng trăm km ở các tỉnh miền Trung đã khiến dư luận cả nước quan tâm, bức xúc,
cuộc sống của nhân dân các tỉnh liên quan gần như bị đảo lộn [1]. Biển và nguồn
lợi biển không chỉ là nguồn sống của rất nhiều ngư dân dọc bờ biển, nó còn là
một trong những nguồn kinh tế trọng yếu của nước ta. Bên cạnh đó, việc ngộ độc
do ăn đồ biển nhiễm độc đã khiến người dân trở nên hoang mang. Những hiện tượng
tương tự như thế này và hậu quả nghiêm trọng của nó đã từng được ghi nhận trong
lịch sử môi trường thế giới [2]. Do tính nghiêm trọng của vấn đề, ngay
khi hiện tượng này xảy ra, GS.TS Trương Nguyện Thành đã lập tức cảnh báo vào
ngày 20 tháng 4 năm 2016 trên Mạng Kết Nối Các Nhà Khoa Học Việt Nam ở Toàn Cầu
[3].
Với nghi vấn là việc cá chết liên quan đến nhiễm độc kim loại nặng
(KLN) và những tác hại lâu dài của nó, giáo sư và cộng sự đã có bài viết trao
đổi về vấn đề này dưới góc nhìn của những người làm khoa học.
Kim loại nặng là gì? Nguồn gốc của kim loại nặng là như thế nào?
Kim loại nặng (KLN) là những nguyên tố kim loại có khối lượng
riêng lớn (>5 g/cm3), có thể gây độc tính mạnh ngay cả ở nồng độ thấp. Ví dụ
về kim loại nặng gồm có: chì (Pb), thuỷ ngân (Hg), cadimi (Cd), arsen (As), bạc
(Ag)… KLN có rất nhiều ứng dụng trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, cũng như
các sản phẩm công nghệ cao như điện thoại thông minh, xe hơi điện … [4]
Kim loại nặng (kim loại quí hiếm) thường có trong lòng đất và
thường bị khóa chặt trong cấu trúc của một số loại đá nên bình thường trong thiên
nhiên thì vô hại. Ngay cả trong cơ thể sống, với nồng độ cực thấp KLN cũng có
vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất. Lượng kim loại nặng tích luỹ
trong lòng đất rất ít trong khi nhu cầu sử dụng nó ngày càng tăng do đó kim
loại nặng càng trở nên quí hiếm.
Trong qui trình khai thác, các kim loại
này được giải phóng; một số còn tồn lại trong chất thải (đa số là chất lỏng
nhưng đôi khi chất khí) sẽ thoát ra môi trường chung quanh qua các ống thải. Nó
có thể bay trong không khí, ngấm xuống nguồn nước ngầm, hấp thụ bởi cây cỏ, hải
sản, và súc vật [4].
Đường xâm nhập của các kim loại nặng và tác hại của nó với sức
khoẻ
Kim loại nặng thường có tính bền vững rất cao. Do vậy, nó sẽ tồn
tại rất lâu trong đất, nước, không khí. Nếu các sinh vật hấp thụ các KLN này thì
chất độc sẽ được tích luỹ và chuyển qua các sinh vật (động vật cũng như thực
vật) khác nhau qua chuỗi thức ăn. Con người thường là mắt xích cuối cùng của
chuỗi thức ăn và các KLN này sẽ đi vào cơ thể qua ăn uống. Ngoài ra, chúng cũng
có thể xâm nhập qua đường hô hấp và qua niêm mạc (da) [5].
Nếu hàm lượng KLN vượt quá ngưỡng cho phép sẽ rất độc và gây tác
hại lâu dài đến cơ thể con người. Những nguyên tố KLN như arsen, cadimi, crom,
chì, thủy ngân đều được cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) và Cơ quan Quốc
tế Nghiên cứu về Ung thư (IARC) coi là tác nhân gây ung thư ở người [4].
Nguy
hiểm hơn nếu cơ thể tích lũy hàm lượng lớn kim loại nặng sẽ dẫn đến nhiều biến
chứng nặng nề, gây tổn thương não, co rút các bó cơ, biến dạng các ngón tay,
chân, khớp, làm người bệnh phát điên và tử vong sau khi tiếp xúc từ vài giờ đến
vài tháng hoặc năm. KLN có thể tiếp xúc với màng tế bào, ảnh hưởng đến quá
trình phân chia DNA, dẫn đến thai chết, sự dạng, quái thai của các thế hệ sau.
Tác hại về sức khỏe của kim loại nặng đã được cộng đồng khoa học quốc tế nghiên
cứu và công bố trong thời gian dài [5].
Tại sao lại nghi ngờ cá chết ở Vũng Áng và miền Trung hiện nay là
do nhiễm độc kim loại nặng?
Để khẳng định một cách chính xác, các phương pháp phân tích hóa
chất thường dùng trong các phòng thí nghiệm hóa học, phân tích chất lượng nước,
v.v. có thể xác định chính xác hóa chất gây cá chết. Thí dụ dùng phương
pháp Atomic Absorption Spectroscopy (AAS) có thể tìm ra những kim loại nặng hấp
thụ trong cá chết hoặc Gas Chromatography Mass Spectroscopy (GC-MS) xác định
hàm lượng vết các chất hữu cơ.
Những thí nghiệm này không quá phức tạp
chỉ cần trình độ cử nhân hóa học là làm được. Tuy nhiên lý do vì sao cho đến
giờ chưa có một báo cáo nào công bố cụ thể các chỉ số cho toàn dân biết để
phòng tránh vẫn là một điều khó hiểu [6]. Trong lúc chờ kết luận của cơ quan
chức năng, chúng tôi đưa ra những bằng chứng sau để có thể kết luận khả năng
hai trường hợp có thể xảy ra.
Trường hợp 1: Nhiễm độc kim loại nặng
1. Chất có khả năng giết hàng loạt cá biển trên một
diện rộng như thế phải là chất kịch độc như kim loại nặng và kể cả chất phóng
xạ. Theo thiết kế của khu công nghiệp, cổng xả thải được đặt ở vị trí 2 km
ngoài khơi, nơi được cho là có khả năng làm loãng mọi hóa chất một cách nhanh chóng
do dung lượng lớn của nước biển. Tuy nhiên, đối với các kim loại nặng như chì
thì một lượng rất nhỏ, chỉ cần 1 g trong 1 triệu lít nước cũng đủ chết người
(Nồng độ IDLH (Immediately Detrimental to Life and Health) từ Environmental
Protection Agency (EPA -Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ) và 1 g trong 10 triệu lít
nước đủ nguy hại đến cá2 (Xem
bài báo khoa học của Solomon).
2. KLN khối lượng riêng nặng nên khi bị phát tán sẽ
dần chìm xuống dưới nên mới gây chết rất nhiều cá ở tầng đáy. Như các thông tin
báo chí đăng có thể thấy cá sống ở lớp nước sâu bị ảnh hưởng nhiều hơn cá sống
ở lớp nước mặt. Điều đó có thể là dấu hiệu cho thấy do các hợp chất chứa kim
loại nặng chìm xuống dưới làm chết các loại cá và sinh vật dưới đáy biển.
3. Kết luận kiểm tra của Sở NN&PTNT Thừa Thiên
– Huế cho biết, nguyên nhân cá chết hàng loạt là do pH nước thay đổi đột ngột,
chất lượng phú dưỡng () tăng cao đột ngột. Câu hỏi đặt ra: “từ đâu ra và
tại sao pH nước tăng đột ngột?”.
Đá ở khu vực Vũng Áng rất giống loại đá phosphorite: có lỗ nhỏ và
màu ngả vàng.
Hình 1- So sánh đá ở khu vực Vũng Áng và đá phosphorite
Hình 2- Nước thải từ Formosa (trái) và nước thải từ quá trình khai
thác vàng (phải)
b. Trong qui trình khai thác đá phosphorite sẽ thải ra nước thải
màu vàng.
Nếu đúng như nhận định ban đầu nguyên nhân gây chết cá là từ nước thải
của Formosa thì ta có thể liên hệ thấy nước thải này có màu vàng, rất giống với
màu đặc trưng của nước thải khi khai thác phosphorite.
c. Cấu trúc của đá phosphorite điển hình thường có chứa gốc ion
kim loại nặng và :
(Một số ít ion bạc trong cấu trúc này có thể được thay thế bởi các
loại kim loại nặng khác nhau). Khi khai thác đá phosphorite sẽ giải thoát một
lượng lớn , ion Ag+ cũng
như một số kim loại nặng vào nước thải.
d. Phosphoric acid là một acid yếu do đó với lượng lớn ion, theo nguyên
tắc chuyển dịch cân bằng Le Chatelie, chiều phản ứng sẽ bị đẩy ngược để tạo
nhiều ion OH- hơn [phản
ứng thuỷ phân được thúc đẩy] và do đó nâng cao độ pH của nước.
e. Theo nghiên cứu của Salamon, chỉ cần 0,1 ppb (part per
billions) lượng ion bạc là đủ giết cá. 0,1 ppb tương đương với 1 g cho 10
triệu lít nước. (Hệ số biến đổi: 1 ppb = 1 g/1 triệu L)2
Trường hợp 2: Nhiễm độc bởi cyanua
Trong kỹ thuật khai thác mỏ kim loại, NaCN thường dùng để chiết
xuất vàng và các kim loại quí hiếm. Thí dụ trong trường hợp chiết xuất
vàng từ quặng, NaCN giúp biến vàng thành chất có thể tan trong nước theo phản ứng
sau và đồng thời sản xuất NaOH, một bazơ mạnh theo phương trình sau:
4 Au + 8 NaCN + O2 +
2 H2O → 4 Na[Au(CN)2] + 4 NaOH
NaCN là một loại muối rất dễ tan trong nước. Do đó nếu không
kết hợp với kim loại thì ion cyanua sẽ xuất hiện ở dạng ion trong nước thải.
1. Vì phản ứng hóa học thải ra NaOH do đó nồng độ
pH của nước sẽ tăng phù hợp với báo cáo của Sở NN&PTNT Thừa Thiên – Huế.
2. Ion cyanua (CN-) tan trong nước là một chất
cực kỳ độc. Nó làm hệ thống hô hấp của động vật mất chức năng tiêu thụ
oxy. Nồng độ IDLH của CN-
là 25 g/ 1 triệu lít [14]. Tuy không độc bằng kim loại nặng nhưng với lượng lớn
cyanua cũng có thể gây cá biển chết hàng loạt.
3. Khu vực miền Trung được biết có nhiều mỏ vàng.
Do đó khả năng chất thải có từ việc khai thác vàng và kim loại quí hiếm cũng
không phải là thấp (Xem Hình 2- so sánh nước thải của Formosa và nước thải từ
quá trình khai thác vàng).
Tác hại có thể dự đoán trên diện rộng của sự việc ở Vũng Áng
Khi cống thải được đặt ở 2 km xa bờ biển thì cột nước thải có thể
cao vài chục đến cả trăm mét. Dòng hải lưu nơi đó đủ mạnh để phát tán
chất độc trong diện rộng từ vài trăm đến ngàn km dễ dàng và nhanh chóng. Thực
tế cho thấy tác hại đã lan ra trên 250 km bờ biển.
Hình 3- Cột nước thải và sơ đồ vùng biển nhiễm độc [8]
Theo lí thuyết, những chất này nếu là kim loại nặng thì tác hại của
nó có thể là khôn lường và rất khó ước đoán. Các loại hải sản ở khu vực nhiễm
độc đều có thể bị nhiễm nặng.
Lượng độc tố có thể ngấm sâu xuống mạch nước ngầm
và gây hại lâu dài. Tình trạng ở Vũng Áng có tầm nguy hại đến sức khỏe và mưu
sinh của dân chúng trên diện rộng do dòng hải lưu và phân phối hải sản tiêu thụ
trên cả nước chứ không chỉ giới hạn ở Vũng Áng. Lịch sử thế giới đã ghi nhận
rất nhiều trường hợp thương tâm về việc nhiễm kim loại nặng từ môi trường và
cuộc đấu tranh pháp lí không hề dễ dàng.
Một vài ví dụ đau thương được ghi nhận về nhiễm độc kim loại nặng
Hình 4- Nạn nhân bị nhiễm bệnh Minamata
Bệnh Minamata là đại thảm họa môi trường của Nhật – như cái giá
phải trả cho việc quá nôn nóng phát triển kinh tế mà bỏ qua việc bảo vệ môi trường.
Từ năm 1932-1968, công ty Chisso (Nhật) sử dụng thủy ngân hữu cơ là chất xúc
tác để sản xuất acetaldehyde, axit acetic và các chất dẻo. Methyl thủy ngân là
chất kịch độc, độc đến nỗi chỉ vài giọt rơi vào da có thể dẫn đến tử vong ngay
lập tức. Trong quá trình sản xuất, methyl thủy ngân được sinh ra và đổ thẳng
xuống vịnh Minamata mà không qua bất kì một sự xử lý nào [9].
Thủy ngân phát tán trong môi trường nước, bám vào phù du và lắng xuống
bùn. Cá hấp thụ oxy trong nước qua mang cá, tích lũy thủy ngân trong cơ thể.
Khi ăn phải những con cá bị nhiễm độc đó, dần dần người ăn sẽ tích lũy lượng
thủy ngân đáng kể trong cơ thể. Khi đi vào trong cơ thể người, thủy ngân tấn
công thẳng vào hệ thần kinh trung ương, hệ nội tiết, và các cơ. Thủy ngân
làm con người trở nên loạn trí, các khớp xương bị co rút, dẫn đến biến dạng cơ
thể. Người mẹ nhiễm thủy ngân sẽ đẻ con ra quái thai, dị dạng hoặc bị nhiễm
bệnh Minamata bẩm sinh. Hậu quả là hơn 17000 người dân phải gánh chịu căn bệnh
này suốt hơn 60 năm [10].
Tác hại của việc khai thác KLN cho môi trường có thể biểu hiện
trực quan hơn ở chung quanh khu vực nhà máy khai thác kim loại nặng ở Baotou, Trung
Quốc, năm 2012 súc vật bị chết do nhiễm khí độc. Ngay cả cây ăn trái cũng èo
uột và trái có mùi hôi thối [11].
Nếu là NaCN thì sao?
Tuy tính độc hại lâu dài của cyanua không tàn khốc như kim loại
nặng, chất độc này có thể phá hủy hệ thần kinh và bộ phận hô hấp, thay đổi hồng
cầu [15]. Người bị nhiễm độc rất khó thở và dễ bị chảy máu mũi. Những triệu
chứng này không phù hợp lắm với triệu chứng tìm thấy ở những người bị ngộ độc
do ăn cá nhiễm độc báo chí đã đưa thời gian gần đây [12].
Không ăn cá chết thôi chứ hải sản sống thì ăn không sao? Tắm biển
cũng không sao?
Đây là một nhận định sai lầm trầm trọng. Khi cá chết có nghĩa
nồng độ chất độc đã vượt ngưỡng. Nhưng cá còn sống không có nghĩa là
không có bị ngấm chất độc. Tuy trường hợp cá chết do NaCN thì ít nguy hại hơn, nhưng
nếu là kim loại nặng thì hệ quả lớn hơn nhiều. Xin nhắc lại tất cả hải
sản từ vùng ô nhiễm có xác suất hấp thụ độc tố rất cao đặc biệt là những loại
sinh vật sống sát đáy. Những độc tố này tồn dư, tích luỹ qua chuỗi thức ăn. Do
cơ thể con người không có khả năng thải kim loại nặng hiệu quả, nó sẽ tích lũy
dần dần và gây tác hại lâu dài như nói trên.
Đã có nghiên cứu chỉ ra
lượng nhiễm độc thuỷ ngân vào cơ thể người từ việc ăn cá lên đến 95% [10]. Ngay
cả lí do lần này không liên quan đến kim loại nặng thì việc chất độc tồn dư ở
những con cá chưa đủ liều lượng giết chết cá là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Thậm chí đã có ngộ độc với người xảy ra ở Quảng Bình (Bố Trạch), Hà Tĩnh (Kì
Anh) [12]. Do vậy, đây là một nhận định vô cùng nguy hiểm. Người ngộ độc
KLN qua đường tiêu hóa thường có triệu chứng bụng quặn đau, buồn nôn, tiêu
chảy, nhức đầu và kiệt sức.
Bên cạnh đó, như chúng tôi đã đưa ra trước đó bên cạnh sự nhiễm
độc do hô hấp và qua đường thức ăn thì chất độc có thể đi vào cơ thể qua da (niêm
mạc). Do vậy, trong thời gian này hạn chế việc tắm biển, thậm chí các bạn tham
gia điều tra nên có bảo hộ khi lặn sâu vào vùng nhiễm độc.
Không đưa ra lời cảnh báo để tránh việc chặn đi đường sống của
hàng triệu dân nghèo?
Cũng có một vài ý kiến cho rằng, khi chưa có bằng chứng cụ thể
chúng ta không đưa ra nhận định để tránh làm mất đi nguồn sống của người dân hay
làm nhân dân hoang mang.
Theo chúng tôi đây là một nhận định hết sức sai lầm.
Khoa học ngoài việc tìm ra bằng chứng còn có chức năng dự báo để đề phòng
trường hợp xấu nhất. Chúng ta đề phòng trường hợp xấu nhất nhưng mong đợi vào
tình huống khả quan nhất. Nếu chúng ta không cảnh báo kịp thời, hậu quả sẽ lan
nhanh, sâu và rộng hơn cho cộng đồng đến mức độ không còn khả năng kiểm soát
được. Như ví dụ trên: vụ nhiễm độc Minamata cũng được phát hiện nhờ vào lời
cảnh báo của viện trưởng Hosokawa của bệnh viện Kumamoto, khi nghi ngờ nhiễm
độc thủy ngân hữu cơ của các bệnh nhân. Tại thời điểm đó, sự việc như này chưa
hề có tiền lệ trước đó [10]. Chúng ta đi sau nên học những bài học của
người đi trước để tránh sai lầm. Hơn nữa việc chúng ta được cảnh báo là để
chúng ta biết và đề phòng chứ không hề vì thế mà sợ hãi.
Những phát ngôn thiếu trách nhiệm
Thời gian gần đây nhiều cơ quan chức năng nhà nước đưa ra kết luận
“nguyên nhân cá biển chết hàng loạt là do độc tố” [13].
Về điều này, một người
dân không có hiểu biết về khoa học cũng có thể kết luận được, đặc biệt là những
nạn nhân trúng độc phải cấp cứu do ăn đồ biển ở khu có cá chết. Có hai
nguyên nhân cá biển chết hàng loạt: (1) báo hiệu sắp có thiên tai từ động đất
hay núi lửa ở thềm lục địa (điều này xưa nay chưa bao giờ xảy ra ở Việt Nam);
(2) có sự thay đổi lớn về số lượng vi sinh vật trong vùng nước (hiện tượng nước
nở hoa, hay dịch bệnh) và (3) chất kịch độc do con người thải ra trong nước
biển. Kết luận của cơ quan chức năng chỉ khẳng định rằng chúng ta sẽ
không có thiên tai. Điều 90 triệu dân Việt cần biết từ cơ quan chức năng
là xác định cá chết và người dân bị ngộ độc là do hóa chất gì để cộng đồng khoa
học có thể hổ trợ tìm phương án giải quyết.
Lãnh đạo Formosa nói 300 tấn hóa chất nhập về sử dụng để tẩy rửa
một số đường ống không gây hại và với khu công nghiệp thì chỉ “bé như hạt gạo”
[13]. Kết luận của lãnh đạo Formosa rất mập mờ và khó hiểu, gây phẫn nộ
cho rất nhiều người dân Việt Nam. Xin phép được hỏi hóa chất tẩy rửa
đường ống đó có tên hóa học là gì? Nếu lãnh đạo Formosa không trả lời
được thì xin cho biết tên thương mại là gì? Chi cục Hải quan Hà Tĩnh có thể cho
dân biết thông tin cụ thể về 300 tấn hóa chất này không?
Mới đây lãnh đạo Formosa còn tuyên bố để phát triển kinh tế việc
chết vài con cá biển là chuyện nhỏ và là cái giá phải đánh đổi. Chỉ tiếc
là việc chết cá biển không phải là chuyện “bé như hạt gạo” mà nó có thể là cảnh
báo cho một tai họa còn khủng khiếp hơn chất độc màu da cam sắp đổ xuống các
thế hệ tiếp theo của Việt Nam.
Kết luận
Có thể coi sự việc nghiêm trọng này là một thảm họa quốc gia, một quốc
nạn tác hại khôn lường và lâu dài. Với sự nguy hiểm của chất độc chúng tôi cho
rằng cần có một nghiên cứu toàn diện với sự hỗ trợ của cộng đồng khoa học quốc
tế như World Health Organization (WHO) và nên khẩn cấp trong thời gian này. Chính
phủ cần yêu cầu Formosa dừng ngay việc xả nước thải ra biển cho đến khi có kết
quả điều tra chính thức. Các cơ quan luật pháp cũng như các luật sư cần thu
thập thông tin đầy đủ để có thể bắt buộc Formosa bồi thường thiệt hại cho dân
về sức khỏe cũng như thiệt hại kinh tế nếu sự thật chất độc là do Formosa thải
ra. Trong khi chờ kết luận của cơ quan điều tra thì người dân tạm dừng
tiêu thụ các loại hải sản và không đi tắm biển.
Người dân ở vùng bị
nhiễm, cần phải xét nghiệm mẫu nước sinh hoạt và sản xuất nơi mình đang sống. Chúng
tôi đã có bài viết hướng dẫn cách lấy mẫu và gửi đi xét nghiệm để có kết quả
chính xác (xem http://www.vjsonline.org/news/h%C6%B0%E1%BB%9Bng-d%E1%BA%ABn-c%C3%A1ch-l%E1%BA%A5y-m%E1%BA%ABu-m%C3%B4i-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-bi%E1%BB%83n-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-v%C3%A0-tr%E1%BA%A7m-t%C3%ADch). Nếu
các bạn cần tư vấn thêm về cách xử lý nước hoặc trao đổi về các kết quả nhận
được có thể gửi email cho chúng tôi. Nếu có điều kiện hãy dùng máy lọc để lọc
nước trước khi dùng kể cả đó là nguồn nước sinh hoạt.
Đồng thời chúng ta
cũng nhanh chóng phổ biến đến người dân, để nhân dân an tâm, có biện pháp đề
phòng và cũng cần đề phòng các lực lượng mê tín dị đoan lợi dụng hiện tượng này
để tung tin đồn nhảm và trục lợi. Hơn lúc nào hết người dân cần tự mình trang
bị những kiến thức cần thiết để bảo vệ cho chính bản thân và gia đình.
Tài liệu tham khảo
2- Frances Solomon, ‘Impacts on aquatic ecosystems and human
health’, Mining.com (April, 2008) http://www.infomine.com/library/publications/docs/Mining.com/Apr2008c.pdf
4- Tác hại của KLN: ”Heavy Metals Toxicity and the Environment”. http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4144270/
5- Lars Järup, Hazard of heavy metal contamination, British
Medical Bulletin 2003; 68: 167–182. http://bmb.oxfordjournals.org/content/68/1/167.full
7- Ảnh bồn chứa nước xả. http://m.nguoiduatin.vn/kinh-ngu-mat-tich-sau-cong-bo-bi-mat-ve-ong-xa-thai-cua-formosa-a237658.html
10- Sách của bộ Môi trường Nhật Bản (Japanese Ministry of the Environment
-環 境 省 )
https://www.env.go.jp/chemi/tmms/pr-m/
mat01/en_full.pdf
11- Khai thác kim loại nặng ở Baotou, TQ. http://www.theguardian.com/environment/2012/aug/07/china-rare-earth-village-pollution
13- Lý do cá chết từ Formosa. http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/yeu-to-doc-cuc-manh-gay-hien-tuong-ca-chet-hang-loat-3392108.html
T.T.T.T – T.M.L – T.N.T
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment