Sunday, July 14, 2013

] Fwd: 500 NGƯỜI DÂN VĂN GIANG KÉO ĐẾN TR Ụ SỞ MTTQ VN, 46 TRÀNG THI


TRỰC TIẾP: 500 NGƯỜI DÂN VĂN GIANG KÉO ĐẾN TRỤ SỞ MTTQ VN, 46 TRÀNG THI



10h30: TIN KHẨN CẤP:
Thông tin từ Trịnh Nguyễn, chị Đỗ Thị Thiêm, người phụ nữ kiên cường đã cùng bà con Trịnh Nguyễn đấu tranh bằng phương thức bất bạo động đẩy lùi được các đợt cưỡng chế của chính quyền trong thời gian qua, đã bị bọn "xã hội đen" tạt axit vào người khi đang đi trên quốc lộ 1A sang Hà Nội. Hiện giờ chị Thiêm đang được cấp cứu tại Bệnh viện Xanh - Pôn, Hà Nội.

Diễn biến Trịnh Nguyễn (phường Châu Khê, TX Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) hôm nay khá yên ắng.

"Hôm nay, 4/7/2013, là tròn 22 năm ngày xảy ra một vụ tạt axit man rợ vào một nhà báo Việt Nam - nhà báo Trần Quang Thành. Ngày đó, sau khi vụ việc xảy ra, báo chí hoàn toàn im lặng trước tai nạn của đồng nghiệp".
_____________

Sáng nay, 4/7/2013, khoảng 500 người dân Văn Giang lại kéo đến trụ sở trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 46 Tràng Thi, Hà Nội để hỏi về việc giải quyết các đơn từ mà cơ quan này đã nhận, đã hứa giải quyết với bà con từ cách đây nhiều tháng.









































































Được đăng bởi Tễu vào lúc 10:05 
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên TwitterChia sẻ lên Facebook

Nhãn: CƯỠNG CHẾ VĂN GIANG, Nhật ký Văn Giang, Tin tức, TUYÊN BỐ VĂN GIANG, Văn Giang

Hoàng gia cộng sản Việt Nam!?
Hoàng Thanh Trúc





- “Trên phế tích hoang tàn đổ nát của quốc tế cộng sản - CSVN bới lượm phế liệu, dùng công an/an ninh làm “vôi vữa” xây dựng một “hoàng gia CS” cho riêng mình”. Khi toàn bộ cấu trúc của “đế chế” quốc tế cộng sản đã như những đống hoang tàn đổ nát ở bãi phế thải thì hiện tại giữa thế kỷ 21- đảng CS Việt Nam “biến thể” trên hoang tàn đổ nát đó thành một vương triều Hoàng Gia mang họ “đảng” của tộc họ CS Việt Nam.







Một cái họ “ngoại lai” du nhập, với thái thượng hoàng là Tổng Bí Thư/ngự ngai trưởng tộc “đảng” - Chủ Tịch nước là Vua - Thủ tướng là Chúa - Nội các chính phủ là công hầu khanh tướng (con cháu bầy đàn dòng họ) lãnh ấn sắc phong, tề tựu chia nhau các phẩm trật vai vế triều đình và tỏa về hơn 60 tỉnh thành trên toàn quốc cai trị toàn dân Việt. Tất cả nhân sự, bao gồm luôn viện “quốc vụ khanh” (Quốc Hội) đa phần tuyệt đối đều mang duy nhất một họ “đảng” ngồi trên đầu trăm họ 95 triệu đồng bào con cháu Hùng Vương Âu Lạc.

Hình như trào lưu tiến hóa “dân chủ văn minh” của nhân loại không có liên quan, ảnh hưởng hay tác động gì đến “đảng” hoàng tộc CS này, không có một kẻ hở hay cơ hội nào cho người ngoại tộc khác len lỏi vào các lãnh địa tạo ra “quyền lực” sinh ra “quyền lợi” của hoàng gia “đảng” đang độc quyền ngự trị trên đất nước Việt Nam giữa thế giới văn minh dân chủ của nhân loại

Không phải ẩn dụ, mà là một thực thể, cơ chế độc tài toàn trị chủ tâm khóa kín mọi lối vào đối với người dân thường ngoài “đảng tộc” là tuyển cử nhân tài cho quốc gia mà không thấy ở bất cứ một quốc gia văn minh dân chủ nào trên thế giới hiện nay áp dụng (trừ đảng CSVN).

Mới đây ngày 21/6 Thành ủy Hải Phòng thông báo công khai chính thức về việc tổ chức thi tuyển chức vụ “hiệu trưởng” trường Đại học Hải Phòng, diễn ra vào cuối tháng tám 2013.


Theo đó, tiêu chuẩn quy định “bắt buộc đầu tiên” để thi tuyển vào chức danh này (Hiệu trưởng Trường Đại học) phải là “đảng viên CS” có trình độ cao cấp lý luận chính trị (CS/XHCN) và tiến sĩ trở lên. Ông Nguyễn Văn Thành, bí thư Thành ủy Hải Phòng, cho biết thêm, tiếp theo thi tuyển các chức danh lãnh đạo sở, ngành và các đơn vị tương đương cũng sẽ triển khai rộng rãi trong toàn thành phố cũng giống như mô hình này. (Dân trí và TTO) - 21/6)

Cũng có nghĩa, mọi đối tượng, dù có là vĩ nhân khoa bảng hay hiền tài sĩ phu thượng đẳng trong 95 triệu người dân Việt Nam đều đương nhiên như là những người tầm thường hay mạt hạng, chuẩn không thể bằng “đảng viên CS” có trình độ cao cấp lý luận chính trị (CS/XHCN)!?

Điều này không mới trong chế độ “độc tài toàn trị CSVN” nhưng đây là đầu tiên không phải “nhà nước” mà là một cơ quan “đảng” của một TP lớn trực thuộc TW công khai trước quảng đại quần chúng nhân dân.


“Đảng tộc hoàng gia CSVN” không còn cần phải lấp lửng trong góc khuất sau tấm bình phong bằng các xảo ngôn, mỹ từ, lươn lẹo che mắt nhân dân thêm nữa, mà như trực tiếp công khai. CSVN thông báo cho toàn dân tộc Việt Nam cũng như công luận văn minh toàn thế giới biết rằng: Chính thức, 95 triệu dân thường VN dưới mắt đảng CSVN chỉ là “thứ dân, hạng hai”, hoàn toàn không đủ “tiêu chuẩn” để chen vai sát cánh thể hiện trách nhiệm tham gia góp phần trực tiếp vào việc xây dựng đất nước ở các vị trí “điều hành” thượng, trung và hạ tầng cơ sở quốc gia, dù có khiêm nhường nhất, không liên quan đến chính trị như các trường học cơ sở đào tạo và giáo dục nói trên với công dân “hạng nhất” - đảng viên CS.

Họ, CSVN, công khai tước đoạt mọi cơ hội, bức tử, nhận chìm mọi khát vọng, mọi nguồn nguyên khí nhân tài quốc gia từ 95 triệu dân, để chỉ dành riêng cho khoa bảng “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức CS/XHCN” của họ có cơ hội độc quyền đạp lên đầu dân tộc, rỉa rút, tàn phá, kéo lê hình hài nhược tiểu của quê hương trước các quốc gia láng giềng khu vực, mà quá khứ và hiện nay toàn dân đang chứng kiến.

Thật hài hước, nực cười. Giữa thế kỷ 21, khi văn minh, kiến thức nhân loại có thể thay đổi được cả trái tim người, thì một cái “đảng” của một nhóm người lại mang một cơ chế như “độc tài quân chủ phong kiến tập quyền thời cổ đại” thay đổi áp đặt lên một nên văn minh chớm nở (sau khi quét được thực dân đi) trên đất nước Việt Nam, khống chế không cho “nhân quyền, dân chủ, văn minh, dân tộc mình lớn lên cùng thiên hạ!?

Giờ đây họ cấu kết từ một nhà nước CS độc tài tiến lên lộng quyền “biến thể” thành một XHCN “Hoàng Gia” mang họ “đảng” CS Việt Nam, dưới cái bảng hiệu chiêu bài lừa bịp là: của dân, do dân và vì dân.

Còn mỉa mai nào hơn? Nhà nước của mình, do mình và vì mình nhưng không một người “dân mình” nào trong 95 triệu người “dân mình” Việt Nam được phép ngồi chung với họ (CSVN) trong một chính phủ nhà nước được minh danh là của “dân mình” đó, nếu không mang họ “đảng” của “sắc tộc đỏ” ngoại lai, lạc hậu, CS quốc tế như họ??

Một câu hỏi quay quắt đến nao lòng đặt ra cho toàn Dân Tộc: Đất nước Việt Nam này của 95 triệu người dân Việt, hay tài sản riêng của một nhóm người và 3 triệu đảng viên CSVN?

Để họ khép kín như một “Hoàng gia”, chia chác chức vụ và quyền lực cho công hầu khanh tướng (con cháu phe nhóm bầy đàn), đục khoét mồ hôi nước mắt nhân dân mà hậu quả nhãn tiền ngày nay toàn dân và thế giới ai cũng thấy: Việt Nam như bầy “trâu chậm uống nước đục” có số dân nghèo (thu nhập dưới 2 USD/ngày) nhiều gần đứng đầu trong khối Asean (sau Campuchia), lạm phát cao nhất thế giới, tập đoàn, tổng công ty nhà nước tuyệt đối do “đảng viên CS quản lý” tham nhũng rút rỉa tạo ra một núi nợ xấu khổng lồ không còn khả năng thanh lý lên đến hơn triệu (1.000.000) tỷ đồng và một hệ thống ngân hàng “định hướng XHCN quyền lợi nhóm” chỉ còn là những cái “xác không hồn”. Động mạch chính của nền kinh tế tài chính quốc gia giờ như thoi thóp!

Chúng ta, những người trong 95 triệu đồng bào trong, ngoài nước, có kiến thức, có thể nhận xét được, ghé mắt nhìn vào, một góc nhỏ thôi, thử xem các “COCC” (con ông cháu cha của CSVN) tiến thân “quang minh chính đại” như thế nào rồi so sánh nhân cách phẩm giá của “văn minh và hoang dã” từ nhà nước, cá nhân của cái “đảng” gọi là: của, do và vì dân này.



“Hoàng Gia, Gia đình CS trị ”

* Đứng đầu là Đ/C “X” tóm gọn trong tay 20 tổng công ty tập đoàn đủ mọi ngành nghề quốc doanh sừng sỏ nhất hiện nay, cũng đang là con nợ nhiều nhất trên 1. 000. 000 tỷ đồng – (riêng tài sản gia đình đ/c X theo chuyên gia quốc tế rất lớn khó mà ước đoán!?).

Có 3 con, sắp xếp, bố trí hoàn hảo: Nguyễn Thanh Phượng 33 tuổi chủ tịch Ngân hàng Bản Việt (Gia Đinh Bank) có số vốn là 3000 tỷ đồng; anh là Nguyễn Thanh Nghị, 36 tuổi ủy viên dự khuyết TW/Bí Thư tỉnh Quảng Nam; em là Nguyễn Minh Triết, 24 tuổi Đoàn thanh niên cộng sản HCM giám đốc Trung tâm Hỗ trợ và Phát triển Sinh viên Việt Nam. (Thanh Phượng đang nghỉ sanh) tạm quyền chủ tịch Ngân hàng Bản Việt là Lê Anh Tài cháu Lê Duẫn.







Đây! phò mã Bảo Hoàng và công chúa Thanh Phượng
của đ/c X (bên trái) trong một buổi dạ tiệc với các đại gia.











Bộ “tam sên”: Triết – Phượng – Nghị của thủ tướng “ Ếch”

* Ông Nông Đức Mạnh, con trai là Nông Quốc Tuấn, 50 tuổi “xuất thân là lao động xuất khẩu từ Đông Đức về” nhưng qua cha là Nông Đức Mạnh sắp xếp, hiện nay là Ủy viên Ban Chấp hành TW, chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, thành viên Ủy ban phòng, chống AIDS và tệ nạn ma túy, mại dâm. Kèm theo là Ngô Hoàng Hải, con rể Nông Đức Mạnh, là trưởng phòng tư vấn PMU18 (trung gian đấu thầu các dự án xây dựng hiện đại với viện trợ ODP).







Phụ - tử: Nông Đức Mạnh & Nông Quốc Tuấn

* Tô Huy Rứa, trưởng ban tổ chức TW - Ủy Viên /bộ chính trị. “Tổ chức bố trí” cho con gái ruột Tô Linh Hương, vừa tốt nghiệp đại học mới 25 tuổi (sinh năm 1988) bầu làm Chủ Tịch /HĐ/QT “Đại tổng Công ty” Cổ phần Đầu tư Xây dựng Vinaconex – PVC, nhiệm kỳ bốn năm 2012-2016. Doanh thu Vinaconex năm 2012 ước tính gần 1000. tỷ đồng có 2. 000 cán bộ công nhân viên (hàng trăm kỷ sư tuổi hàng cha chú Linh Hương).






Đây! Nữ Chủ Tịch HĐQT- măng sữa, 25 tuổi - một trái non vì “màu mỡ” bắt phải “chín ép” cố cơ cấu vào quả đấm thép tổng CT xây dựng nhà nước Vinaconex - Ngày 14/04/2012 trong lễ “ra mắt” Tân nữ /CT/ Hội Đồng quản trị. (Tô huy Rứa, ảnh bên phải).






Chúng ta xem! Nữ Chủ Tịch HĐQT “măng non” (áo đỏ) lẻ loi,
ngồi nhằm ghế lơ láo giữa đám “tre già”.
Chỉ hơn 2 tháng, không thể “thùng thình” trong cái áo quá rộng. Ngày 21/6/2012 Tô Linh Hương “bỏ ghế chạy lấy ngươi” xin rút lui từ chức CT/HĐ/QT. Đây là một trong những mưu đồ “tham quyền cướp vị” khôi hài, nhục nhã, nham nhỡ, xấu hổ vô liêm sĩ nhất trong “hoàng gia CSVN”.






Nguyễn Chí Vịnh, Phùng Quang Thanh, Phùng Quang Hải


* Nguyễn Chí Vịnh, 56 tuổi (sinh năm 1957), con của cố tướng Nguyễn Chí Thanh con đỡ đầu của tướng Lê Đức Anh, chính thức nhảy ra cầm đầu Tổng Cục 2 với cấp hàm đại tá rồi thiếu tướng, hiện là thượng tướng, thứ trưởng bộ quốc phòng, (nhưng chưa có bằng tốt nghiệp sĩ quan)! Thăng cấp từ đại úy lên thượng tướng trong một thời gian kỷ lục mà trong lịch sử quân đội NDVN (cũng như thế giới) khôi hài, chưa từng có bao giờ.

* Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng bộ Quốc Phòng, con trai là Phùng Quang Hải, lý lịch không ghi học lực và tốt nghiệp trường đào tạo nào, nhưng mang cấp bậc Thượng tá, là Tổng giám đốc Bí thư đảng ủy, Chủ tịch HĐTV Tổng công ty 319 - Bộ Quốc phòng Việt Nam. Công ty xây dựng 319 là một công ty quốc doanh bao gồm hơn 10 công ty hoạt động trong lãnh vực xây cất, cung cấp vật dụng cho quân đội và các cơ quan chính phủ trên địa bàn khắp nước. Đây là một nguồn lợi “màu mỡ” khổng lồ béo bở.






Lê Kiên Thành Lê Kiên Trung Lê Hãn
Lê Duẫn (các con):

* Lê Ngọc Báu, cùng gia đình: 60 tỷ đồng mua 40% cổ phần sân Golf Đồng Mô. nhiều cổ phần từ Bắc chí Nam: Cổ phần ở 3 siêu thị Sài Gòn, Ngân hàng Á Châu, công ty Vàng bạc và Đá quý.

* Lê Kiên Thành là một tỷ phú cỡ bự ở VN. Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Techcombank. Chủ tịch công ty cổ phần Xây Dựng và Phát Triển Đô Thị. Chủ 1 sân Golf, Tổng Giám đốc công ty Thiên Minh.

* Lê Kiên Trung. Cục Trưởng Cục Hải quan TP/HCM, một cơ quan béo bở nhất Sài Gòn.

* Lê Hãn. Đại tá, Cục trưởng Cục Quản Lý Các Nhà Trường QĐ. Tư lịnh Bộ Tư Lệnh Bảo Vệ Lăng HCM.











Lê Mạnh Hà, Nguyễn thị Doan, cha con: Chi & Anh
* Lê Đức Anh, bố trí cho con trai Lê Mạnh Hà làm PCT/UBND/TPHCM và con dâu Nguyễn thị Doan PCT/Nước

* Nguyễn Văn Chi, cựu ủy viên bộ chính trị khóa X, nguyên chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương đảng - bố trí cho con trai Nguyễn Xuân Anh, 35 tuổi (sinh năm 1976) được bầu vào Thường vụ Thành ủy Đà Nẵng/phó chủ tịch UBND thành phố - Tháng 01/2011, Nguyễn Xuân Anh được bầu chọn làm ủy viên dự khuyết (!?) Ban Chấp hành Trung ương đảng tại Đại hội đảng XI.











Lê Nam Thắng, Nguyễn Sỹ Hiệp, Nguyễn thị Kim Tiến

* Núp dưới cái “bóng ma” cha mình, Lê Nam Thắng, con trai “hung thần” khét tiếng Lê Đức Thọ nắm Bộ “màu mỡ Bưu chính viễn thông”.

* Nguyễn Văn An cựu chủ tịch quốc hội (2001-2006) - Ngày 26/03/2013 bố trí cho con trai Nguyễn Sỹ Hiệp được giữ chức trợ lý thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

*- Nguyễn thị Kim Tiến, Bộ trưởng Y tế là cháu ngoại của cố Tổng bí thư CSVN - Hà Huy Tập.






Trương Gia Bình, Trần Sĩ Thanh, Trần Tuấn Anh

* Trương Gia Bình, con rể tướng Võ Nguyên Giáp, làm tổng giám đốc công ty FPT.

* Trần Sĩ Thanh, sinh năm 1972. Phó bí thư tỉnh ủy ĐắcLắc là cháu của Nguyễn Sinh Hùng, CT/QH - (Nguyễn Sinh Hùng là cháu của Hồ Chí Minh).

* Trần Tuấn Anh: nguyên lãnh sự Việt Nam tại Hoa Kỳ (San Francisco) là con của cựu chủ tịch Trần Đức Lương.






Lê Trương Hải Hiếu, Phạm Bình Minh, Trấn Bình Minh

* Lê Trương Hải Hiếu (con Lê Thanh Hải BT/TU/ TPHCM) - Quận ủy viên, Bí thư đảng ủy phường Bến Thành, quận 1,Thành phố Hồ Chí Minh.

* Phạm Bình Minh Bộ Trưởng Bộ ngoại giao, là con của Nguyễn Cơ Thạch, tên thật là Phạm Văn Cương, (phụ tá cho Lê Đức Thọ trong hội nghị hòa đàm Paris. )

* Trần Bình Minh: Phó Tổng giám đốc đài truyền hình VN là con trai của Trần Lâm, nguyên Tổng giám đốc đài Tiếng nói VN...

Họ, những con người này, từ hình hài ấy, trước đó như một loại “tinh trùng” thụ tinh trong “ống thịt CS” cha mình, bám cái trứng XHCN của mẹ - đi vào cơ thể, để khi lọt lòng sinh ra trên trán đã có đóng dấu đỏ “búa liềm” dòng tộc “đảng”.

Lớn lên vào đời “tham chính” tất cả họ đều đi bằng lối đặc biệt - ngõ “hậu môn” (cổng sau) của Hoàng gia CS mà không cần phải sát hạch năng lực, đạo đức, thông qua thi tuyển cạnh tranh với nhân tài của toàn dân.

Với họ, hình như ngay từ trong “ống thịt CS” cha mình, khi thụ tinh, họ cũng đã được tiêm chủng loài vi rút “hoang dã Cộng Sản”: “mạnh được yếu thua”. Kiến thức dung nạp của họ như không hề biết đến 2 từ: “xấu hổ và liêm sỉ” vốn dĩ, tất yếu cần phải có trong nhân cách của mọi con người, dù có là thiếu học...

Nhân cách và nhân quyền văn minh so với tham quyền, tham lam, gia đình trị “hoang dã”.







Thủ tướng CH Czech
(Tiệp Khắc) - Petr Necas




Biểu tượng của văn minh “văn hóa từ chức”.

Thủ tướng CH Czech (Tiệp khắc) Petr Necas tuyên bố xin từ chức vào ngày 17- 6- vừa qua do một trợ lý văn phòng thủ tướng của ông bị cáo buộc tội nhận hối lộ.

Nhân cách của lãnh đạo

“Tôi hiểu rõ trách nhiệm chính trị của mình, tôi xin từ chức thủ tướng trong ngày 17-6-2013 - Khi tôi từ chức, toàn bộ chính phủ cũng sẽ từ chức theo đúng như quy định của hiến pháp” - AFP dẫn lời Thủ Tướng Necas tuyên bố tại cuộc họp báo ở thủ đô Prague - Thủ tướng Necas dẫn đầu đảng liên minh cầm quyền CH Czech từ năm 2010 và từng vượt qua tám cuộc bỏ phiếu tín nhiệm. (AFP).

Quyền lực của nhân dân







Cũng tháng trước - ngày 5/6/2013 - Khoảng 15. 000 người dân Bulgaria
tụ tập biểu tình trước trụ sở chính phủ ở thủ đô Sofia, hô vang khẩu hiệu
đòi Thủ tướng Oresharski (ảnh trên) từ chức. (ảnh: PressTV)

Ngày 8/06/2013 Chính quyền Bulgaria do Thủ tướng Plamen Oresharski mới thành lập và tồn tại được hai tuần lễ đã phải đối mặt với nguy cơ sụp đổ từ nguyên nhân: Thủ tướng Plamen Oresharski tùy tiện bổ nhiệm doanh nhân 32 tuổi Delyan Peevski con trai (của bạn thân) một đại gia truyền thông giàu có, không có kinh nghiệm chuyên môn làm giám đốc Cơ quan An ninh quốc gia (DANS). AFP mô tả suốt ba ngày kể từ 5 tháng 6 hàng chục ngàn người Bulgaria đã đổ ra đường phố thủ đô Sofia để phản đối thủ tướng Plamen Oresharski. Họ vẫy quốc kỳ, miệng hô vang: “Hãy từ chức”, dù Thủ tướng Orecharski đã hủy bỏ quyết định bổ nhiệm ông Peevski và xin lỗi người dân Bulgaria,... (AFP).

Đó là 2 “cựu” quốc gia CS Đông Âu một thuở là bạn bè chí cốt của CSVN trước kia, đã vĩnh biệt CS/XHCN để hội nhâp với trào lưu đa nguyên văn minh dân chủ.
Liệu, nhân cách phẩm giá của người CSVN-có thể so sánh!?










Quí 3 năm 2012 ngày 3/9/, Ngoại trưởng Hàn Quốc Yu Myung Hwan phải trần tình gửi lời xin lỗi công chúng xứ Hàn về những tranh cãi xung quanh việc tuyển dụng con gái mình – (Ảnh: AFP) Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hàn Quốc nói: "Bộ trưởng Yu đã quyết định từ chức vì ông cảm thấy phiền lòng đã gây ra tranh cãi không đáng có về việc chính phủ tuyển dụng con gái mình".

Ông Yu là Bộ trưởng ngoại giao có thâm niên lâu nhất trong nội các hiện tại, đã bắt đầu làm việc trong chính phủ của tổng thống Lee từ tháng 2-2008.

Ngày 3-9 tại Nhà Xanh, trước PV báo chí, ông Yu khẳng định quá trình tuyển dụng đã diễn ra công bằng và không hề có một sự đặc cách nào, nhưng sự bàn tán của công chúng không hề giảm đi khi cho rằng con gái ông được ưu tiên, vì vậy để bảo toàn danh dự cho cá nhân ông và uy tín chính phủ, ông xin từ chức. (TTO).



Nhân Dân sát hạch đạo đức trước nhậm chức

Ngoài năng lực thông qua sát hạch “thi tuyển” đã chứng minh. Thông lệ tập quán của QH/Hàn Quốc - Nhiều nhân vật chuẩn bị nắm giữ ghế thủ tướng, bộ trưởng hay các chức vụ quan trọng trong nội các phải chứng minh sự thanh liêm và minh bạch của họ trước quốc hội. Chỉ khi quốc hội đồng ý với đa số phiếu thì thủ tướng hay các đối tượng mới có thể nhậm chức.






Ông Kim Tae Ho,Ông Shin Jae Min

* Ông Kim Tae Ho thống đốc tỉnh Gyeongsang đã phải trưng bản giao dịch ngân hàng của gia đình trước quốc hội để khẳng định, chứng minh, ông trong sạch – (Ảnh: Korea Times)

* Ông Shin Jae Min, người sắp nắm giữ ghế bộ trưởng văn hóa - thể thao & du lịch Hàn Quốc, đã phải xin lỗi QH, thừa nhận vi phạm đạo đức vì đăng ký sai khu vực, địa chỉ nhà, để cho con có cơ hội vào trường tốt, học phí thấp (dù điều này xã hội không lên án). - (Ảnh: Yonhap)

Lúc đương nhiệm, Tổng thống Lee Myung Bak của Hàn Quốc đã yêu cầu văn phòng của ông phải luôn theo dõi báo chí, dư luận nhân dân phản ảnh, để chặt chẽ nghiêm khắc hơn trong “kiểm định” các ứng viên, đảm bảo các vị trí trong chính phủ phải đáp ứng các tiêu chuẩn về đạo đức, trước khi đưa ra trước quốc hội phê chuẩn. “Cần phải có tiêu chuẩn đạo đức cao hơn người dân cho tất cả các bộ trưởng và thành viên của chính phủ ” Tổng Thống Lee nhấn mạnh. (Theo Korea Times, Chosun Ilbo)

Không biết nhà “nhà nước và đảng ta” có biết xấu hổ không? Nơi mãnh đất cũng bị chia cắt vì thảm họa cộng sản như Việt Nam, nhưng người ta thông minh - trong nhất thời - không thống nhất bằng xương máu, mà là thịnh vượng cho nhân dân, hùng mạnh cho quốc gia mới là ưu tiên tối thượng!

Để ngày nay một CH/XHCN/VN tự hào “thống nhất” nhưng có đến hàng trăm ngàn thanh niên nam nữ Việt, đang tha phương cầu thực nơi xứ Hàn trong thân phận vợ hờ, osin, bán sức lao động!??.

Những ngày này cả nước, hơn nữa triệu “sĩ tử” con em chúng ta gian nan “lều chõng” thi thố tài năng “vượt vũ môn” trước ngưỡng cửa giảng đường Đại Học – Có buồn không? Hình ảnh “hoàng gia CS” cũng đậm nét theo chân đến những nơi này...






“Cậu ấm, cô chiêu Hoàng Gia CS” được đưa đón đi thi bằng xe cơ quan
(mồ hôi nước mắt nhân dân) cùng các loại xe “thượng đẳng”. Và hình ảnh











Con em đồng bào nghèo, đội nắng gió bươn chải đến trường thi…
Rồi... “con vua sẽ được làm vua – con sải ở chùa cứ quét lá đa” và thế là, một lớp cháu con “hoàng tộc đảng CS” lại...
“Ngày mai kế thừa, “khanh, tướng”mới tiếp tục “đè cổ” cháu con mình (tất nhiên là khanh tướng Hoàng Gia CS).
Hoàng Thanh Trúc

Tài liệu quý giá về cuộc chiến Việt -Trung năm 1979 – Giặc đã ùa vào nhà Việt Nam
Đăng bởi BTV VAOL vào Thứ bảy, ngày 06 tháng bảy năm 2013


Chia sẻ :



“…Nhân dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký ức về những cuộc chiến này. Đảng CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên hình một tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc Việt Nam…”

Những hình ảnh tài liệu trong bài này chắc chắn gây chấn động mạnh cho độc giả vì nó vô cùng tàn khốc. Nhưng đây là dẫn chứng duy nhất để tố cáo những hành vi man rợ của quân đội Trung Quốc đối với các nữ tù binh Việt Nam trong cuộc chiến biên giới Việt Trung kéo dài từ năm 1979 cho đến năm 1989. Đảng CSVN đã giấu nhẹm tất cả mọi tin tức liên quan đến cuộc chiến này. Tác giả Huỳnh Tâm viết bài này thay cho những nén hương gởi đến vong hồn những nữ tù bình Việt Nam đã hy sinh và chết một cách ô nhục cho Tổ Quốc Việt Nam mà không được một ai ghi nhớ. Lịch sử Việt Nam chưa bao giờ có cảnh tượng thảm thương như thế này.

Một nữ tù binh Việt Nam còn mặc quần áo bệnh xá, bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,chúng đang gọi điện báo cho đồng bọn đến tiếp tục cưỡng dâm. Người nữ tù binh này được giải vây và cứu thoát. Ảnh: NF3.86. 

Tội ác chiến tranh, lửa bốc khói ô nhục

Đêm 4/12/1987, pháo binh Việt Nam tăng cường lửa cối pháo trong vòng 43 phút, rót xuống đầu binh lính Trung Quốc. Toàn vùng biên giới Lão Sơn tràn ngập một màu lửa đỏ cháy ngùn ngụt, khốc liệt. Cùng vào thời điểm này, pháo binh Việt Nam bất ngờ đánh trúng vào kho đạn của núi 277, thuộc Sư đoàn 199 Trung Quốc, kéo theo hàng loạt đạn pháo liên tục nổ ầm ì, trên mức độ bình thường; đạn cày tung toé đất đá, bụi, khói lửa bay mịt mù. Đứng giữa chiến trường ngơ ngác trước cảnh điêu tàn chưa bao giờ thấy, binh lính Trung Quốc chui rúc xuống giao thông hào sâu trong lòng đất, chỉ để lại trên mặt đất những tên lính thủ chiến. Bọn họ đã trở thành một loài côn trùng lớn bé lúc nhúc đi tìm chỗ dung thân, nhưng tất cả hầu như bị hủy diệt vì lửa đạn.

Đạn pháo rung chuyển mạnh, từng phút một, đã đánh thức cả vùng biên giới núi Lão Sơn. Quân đội Trung Quốc từ lâu vẫn xay mê với chiến thuật biển người. Lần này chiến binh Việt Nam dùng pháo binh mạnh, đàn áp chiến lũy Trung Quốc và cho họ một bài học chiến sự. Quả nhiên những tên bành trướng Trung Quốc đã tỉnh ngộ không còn xem thường hỏa lực tác chiến của chiến binh Việt Nam.

Hiện thời Sư đoàn 199 và 67 vẫn ra sức cố thủ để còn đất dung thân, tất yếu phải thay đổi chiến thuật, không tin tưởng nhiều vào mật danh do những tình báo Hoa Nam cung cấp và những tên phản dân tộc Việt Nam đang bị bộ máy chiến tranh Trung Quốc nghi ngờ. Có thể uy tín của họ đang xuống thấp, bởi trận mưa cối pháo vừa rồi, do pháo binh Việt Nam tự phát, cho nên tình báo Hoa Nam không có sự kiện để đưa vào kế hoạch chiến trường Lão Sơn.

Cùng ngày, quân đội Việt Nam ngừng bắn pháo trước một giờ, tạo cơ hội thuận lợi cho những đơn vị quân đội Trung Quốc di chuyển đến vị trí phòng thủ mới, và bệnh xá Tập đoàn 25 đồng di chuyển thương binh đến vị trí an toàn. Những quân đoàn Trung Quốc, hối hả tổ chức lại kế hoạch phòng ngự, lệnh tiến hành cố thủ 45 đỉnh núi thuộc vùng núi Lão Sơn,nbảo đảm kiên cố chiến lược, mặt khác kết nối toàn vùng, bao vây quân địch (Viêt Nam), cho đến chiến thắng cuối cùng.

Trong cảnh hỗn mang rối loạn hàng ngũ tại bệnh xá Tập đoàn 25, những thi thể của những nữ tù binh Việt Nam bất ngờ bị phơi bày. Trên lý thuyết, những nữ tù binh đến đây điều trị thương tích nhưng không may cho họ vào thời điểm này, họ lâm vào cảnh ngộ vô cùng bi đát và thảm khốc. Nữ tù binh Việt Nam không chết vì súng đạn, mà chết vì bị hãm hiếp. Những xác chết này nằm lăn lóc, thân thể trần trụi, chết trong căm hờn tủi nhục, đôi môi mím chặt đau đớn, phá tan tất cả thân xác của phụ nữ Việt Nam. Không ai có thể ngờ ở chốn chiến trường lại có cảnh tượng thô bạo như vậy, khó ai tin được người lính Trung Quốc dã man đến thế!

Một số Hải Âu, và NF3.86 đồng chứng kiến bi kịch khiếp đảm, rùng rợn cả người, cho đến mấy mươi năm sau hình ảnh thi thể của những nữ tù binh Việt Nam vẫn còn ám ảnh tâm trí họ. Họ không thể nào quên:

‒ Ngày 4/12/1987, D514, thuộc F199, có nhiệm vụ bảo vệ căn cứ bệnh xá Tập đoàn 25 Trung Quốc. Theo kế hoạch của bộ chỉ huy chiến trường. Di chuyển toàn bộ thương binh Trung Quốc ra khỏi vùng nóng, còn thương binh Việt Nam sẽ được di chuyển cuối cùng. Thực tế trong cuộc tháo chạy, họ đối xử phân biệt thương binh, đưa đến tình trạng mất kiểm soát căn cứ. Trong cơn binh biến hỗn tạp, binh lính D514 nổi cơn thèm khác dục tính, thi nhau hãm hiếp nữ tù binh cho đến chết và sau đó thủ tiêu thi thể. Họ đã chết trong đau đớn và tủi nhục mà không một ai biết đến, thương tổn lớn cho nữ tù binh Việt Nam. Khủng khiếp hơn nữa, nữ tù binh Việt Nam đã bị bọn giặc dã man Trung Quốc cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạn và đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt.


Bệnh xá Tập đoàn 25 của Trung Quốc, theo kế hoạch di chuyển thương binh đến vị trí an toàn. Ảnh: NF3.86. 


Bi kịch dã man này đã diễn ra từ lúc Đặng Tiểu Bình mở cuộc chiến xâm lấn Viết Nam vào ngày 17/2/1979 và kéo dài cho đến cho năm 1989. Không biết đã có bao nhiêu nữ tù binh Việt Nam rơi vào hoàn cảnh bị hãm hiếp và mất tích. Điều này hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc đã bí mật ém nhẹm, không hề một có tư liệu hay hồi ký nào xuất hiện ghi lại cuộc tàn sát những nữ thương binh này tại biên giới Lão Sơn, Lào Cai, Việt Nam. Người ta chỉ được biết qua truyền khẩu.

Những hình ảnh do chính quân đội Trung Quốc chụp lại cho thấy họ ung dung hành động theo bản năng thú tính tàn ác. Hình ảnh những nữ tù binh Việt Nam đã bị hãm hiếp tập thể cho đến kiệt sức, thân thể trần trụi, cho thấy sự ô nhục thảm khốc, xúc phạm đến nhân phẩm của người nữ tù binh Việt Nam. Những người lính Trung Quốc tàn nhẫn quá đáng, sau khi thỏa mãn dục vọng, họ cắt luôn những bộ phận nhạy cảm nhất trên người phụ nữ, khi chết thân thể nữ tù binh Việt Nam không còn nguyên vẹn.


Thi thể của nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, sau đó cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạng, đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt. Thi thể tại hiện trường đang nằm trên băng ca cứu thương của bệnh xá Tập đoàn 25. Ảnh: NF3.86. 


Không có nỗi nhục nào hơn nỗi nhục trên đất Việt quê hương của mình, chính mình bị làm tù binh chiến tranh dưới tay quân đội Trung Quốc. Họ xem nữ tù binh Việt Nam như một món vật mua vui sinh lý. Những ca hãm hiếp, chôn vùi thi thể nữ tù binh không chỉ xảy ra một lần. Những cấp chỉ huy Trung Quốc vờ không biết, và ém nhẹm nội vụ nữ tù binh Việt Nam bị chôn vùi dưới lòng đất lạnh, mộ phần vĩnh viễn vô danh. Hãi hùng hơn nữa, đảng CS Việt Nam không hề lên tiếng và bày tỏ tri ân và thương tiếc người lính xấu số đã hy sinh mạng sống trên chiến trường! Quả thật vô cùng bất hạnh khi con người sinh rồi mất tích không ai biết xác chôn nơi nào để người thân cầu siêu.

Trên chiến trường, cả hai bên Việt Nam-Trung Quốc đều có tù binh. Phía Việt Nam luôn luôn ưu đãi các tù binh chiến tranh Trung Quốc. Trái lại tù binh Việt Nam, nhất là nữ tù binh, đã bị Trung Quốc đối xử tàn nhẫn, xem đây một thứ rác phế thải không tái chế. Trung Quốc chưa bao giờ tôn trọng theo lời cam kết "không hành động tàn bạo hay gây sốc đối với tù binh nữ giới". Những ai có đến hiện trường tìm hiểu và chứng thực quân đội Trung Quốc vô nhân đạo, đối xử với nữ tù binh rất tàn ác. Cộng sản Trung Quốc dàn cảnh chụp hình những nữ tu bình Việt Nam ở trong trại giam được đối xử tử tế, nhưng người biết chuyện thấy rõ đây chỉ là trò trình diễn nhân đạo có tính toán chính trị.



Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, và ức bách cho đến chết, áo ngược bị xé rách toang từng mảnh, cho thấy cự tuyệt thất vọng, thi thể vứt bỏ tại bìa rừng núi 227, cách bệnh xá Tập đoàn 25, 2 km. Ảnh: NF3.86 


Trên hành trình di chuyển đến điểm núi 255, trong tôi có lắm suy nghĩ cuồng kháng, muốn hét lên một tiếng thật lớn để phá tan những uất hận cho những oan hồn của những nữ tù binh bị hãm hiếp đến chết. Tiếng kêu uất nghẹn, không thành lời. Tôi vẫn chưa hình dung được một phóng sự nào nói về nữ tù binh Việt Nam, mà tôi đã gặp trên đường đi. Hình ảnh những tử thi của nữ tù binh vẫn còn dán cứng vào mắt, trong tim, càng suy nghĩ nhiều càng rối rắm không đầu đuôi sự kiện, cứ thế theo bước chân hối hả. Đi không được bao lâu lại thấy trước giao thông hào một thi thể trần trụi, nằm dài trên mặt đất, không có một thứ gì trên người, xem ra những thi thể vô danh tiếp tục xuất hiện.

Hải Âu DF-1, F67, tò mò, muốn biết vì sao có thi thể người phụ nữa ở giữa núi rùng đang có chiến tranh, khi dỡ tấm nilon ra, thấy một phần cây tròn đâm sâu vào trong cửa mình người phụ nữ, máu chảy ra nhiều đã đông đặc tự bao giờ, mồm còn hả to, có lẽ van xin sự sống, hai cánh tay sải rộng cho thấy đau đớn tận cùng vào lúc chết buông xuôi, xác đã lạnh, với những vết bầm tím vắt ngang dọc cả thân người, nơi bắp đùi có vết thương, những thanh nẹp băng bó vải thưa, gấp chữ V còn mới.

Hải Âu DF-1, F67 khẳng định:

– Chính thi thể nữ tù binh Việt Nam đang điều trị tại bệnh xá của Tập đoàn 25.
Riêng tôi đoan quyết:

– Nữ tù binh này người Việt Nam, vì trên nét mặt rất Việt.

Tôi điềm tĩnh lại, muốn làm một cử chỉ nhỏ, rồi tự hỏi:

– Có nên thực hiện một việc nhẹ mà lại vô cùng nặng "tình lý" không, và cũng có nhẽ hổ thẹn với đời chăng?

Tôi lấy quyết định vì đồng tộc Việt, tự khom lưng xuống, đôi tay rút thanh cây gỗ tròn từ trong cửa mình người phụ nữ, máu ứ động trong người phun ra thành vòi đã ngã màu đỏ bầm. Mọi người trố mắt nhì nhau, ngạc nhiên thấy thanh cây gỗ tròn, bán kính 0,5 mm, đầu hơi nhọn, dài 2 m, đâm sâu vào người gần 4 mm, cả người tôi toát mồ hôi lạnh.

Nhân tiện có sẻng cá nhân, chung nhau đào huyệt, 15 phút sau hoàn tất, bắt tay vào tẩm liệm, tiễn người nữ tù binh xấu số xuống lòng đất quê hương. Trên phần mộ có cắm sâu cột gỗ 1,5 mét. [1]

Hải Âu DF-1, D350, cho biết:

– Trước đây vài giờ nhận được tin, bệnh xá Tập đoàn 25, chuyển thương binh đến nơi an toàn, không ngờ lại có sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị hãm hiếp đến thế này!



Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, và hành hung cho đến chết, thi thể vứt ném sau giao thông hào, chỉ phủ lên một lớp nilon của bệnh xá Tập đoàn 25. Ảnh: NF3.86. 


Tại mặt trận biên giới Tây Bắc Việt Nam từ 1979-1987, đảng CS Việt Nam biết rõ những sự kiện này, nhưng đã im lặng, giấu nhẹm không hề công bố về số phận của những nữ tù binh bị hãm hiếp, quằn quại trên chiến trường, đối mặt với những tên lính vô cảm của Trung Quốc.

Ngoài ra, quân đội Trung Quốc đã từng vấy máu tanh, tấn công bệnh xá của Việt Nam, cướp đi những nữ thương binh và cả nữ y tá, chỉ để làm một việc bất nhân hãm hiếp, rồi sau đó thủ tiêu. Quân đội Trung Quốc không thua gì thảo khấu, cực kỳ tàn nhẫn.
Chúng tôi tiếp tục lên đường, từ xa, ở phía trước lưng núi 221, đã có tiếng cầu cứu quen thuộc "Cứu tôi, cứu tôi", bằng ngôn ngữ Việt, dù biết kêu vô vọng bởi không còn ngôn ngữ nào khác, âm ngữ của mẹ Việt bao dung, làm động cơ thôi thúc thành lời, đang vang động trời đất bao la. Tiếng kêu vào không trung tuyệt vọng, hay tiếng kêu cứu trong hy vọng mong manh.


Một nữ tù binh Việt Nam còn mặc quần áo bệnh xá, bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,chúng đang gọi điện báo cho đồng bọn đến tiếp tục cưỡng dâm.Người nữ tù binh này được giải vây và cứu thoát. Ảnh: NF3.86. 


Phát hiện trong tiếng "Cứu tôi, cứu tôi" có âm lượng thân thương, từ xa đã rót vào tai, phản ứng tự nhiên tay làm hiệu nhờ những Hải Âu tiến đến điểm có tiếng âm thanh người Việt Nam.

Không sai người nữ chiến binh rơi vào tay lực lượng quỉ râu xanh Trung Quốc, lúc chạm mặt, bọn chúng cả thảy nửa Tiểu đội lật bật mặc quần, và chạy xuống núi, chỉ còn lại một tên Hán vẫn lõa lồ chưa kịp mặt quần, đang gọi điện báo, riêng nữ tù binh Việt Nam thân thể xòa dài dưới đất, thân lết bết khó nhọc, tay túm lấy chiếc váy để che hạ thể, do bệnh xá cấp, ể oải ngồi dậy với tư thế sợ hãi.
Tôi hỏi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ thân yêu:

– Em, thể nào, cho anh biết, vì cớ nào lại có mặt ở đây?

Trên khuôn mặt của cô ta, có cả hai nét mặt, vừa mừng, vừa sợ, cô nói:

– Em muốn biết quý anh là ai ?

– Em đừng sợ, ở đây không tiện tỏ hết lời. Em tự nhiên theo các anh thì may ra sống.

Tôi ra hiệu, nhờ Hải Âu trừng trị tên Hán, không ngờ Hải Âu rút súng ra chuẩn bị bắn, tôi ngăn cản lại kéo Hải Âu ra xa nói nhỏ:

– Anh phải lấy thẻ số quân, tên tuổi, đơn vị, rồi tặng cho y vài cú đạp mạnh, sau đó cài một quả lựu đạn cho nổ máy điện đàm, tiếp theo bắng dưới chân để y chạy thoát, cho y sống sau này sẽ làm nhân chứng tội ác chiến tranh, những tên khả ố này phải treo tội ác lơ lửng trên đầu, không thể tha thức để chúng nó ung dung sống trong trạng thái bình an ngoài vòng pháp luật. Hải Âu có đồng ý phương thức giải quyết này không?

– Vâng, thưa anh, thượng sách, tôi thực hiện theo ý của anh.

Giải quyết nhanh tay, tên Hán chạy mất dạng, chúng tôi lên đường, nói:

– Mời cô em, cùng đi với chúng tôi.

– Thưa, em không thể đi được vì bên hông trái trúng thương nặng, và bị 6 thằng lính Trung Quốc hãm hiếp hơn 3 giờ liền, em không còn sức để đứng lên, các anh cứ đi, em chết ở đây cũng toại nguyện lắm rồi, và tạc dạ nhớ ơn của quý anh cứu sống, em xin cúi đầu bái tạ ân nhân cứu mạnh, đa tạ quý anh.

Cô ấy vái lạy như tế sao, như người lên "đồng cô" tại Điện Hòn Chén, đối diện lăng Vua Minh Mang, Huế. Vội vã đỡ cô ấy, nói:

– Chúng tôi xin cô đừng xá nữa.

Cùng lúc tôi nhờ những Hải Âu thi nhau cõng cô ấy, với sức nặng 50 ký ngoài, không là bao, tuy nhiên đi đường xa có vấn đề, trên đường đi nhân tiện hỏi về thân thế và sự nghiệp của cô ấy:

– Em có thể cho biết quý danh để tiện mồm được không?

– Dạ, em tên Trần Thị M…..thuộc đơn vị E81, F365, QK2. Quân hàm Thiếu úy, bị thương đêm 28/11/1987, sáng 29/11/1987, em bị lính Trung Quốc bắt làm tù binh. Quê quán thị xã Lào Cai, địa chỉ số: 74, đường..........

Đã đi được 1 giờ đường, tôi nhờ Hải Âu DF-1, F138 tiếp sức cõng cô M.....1 giờ nữa đến căn cứ 255 của Sư đoàn 138 thuộc Quân đoàn 46 Trung Quốc. Thấy cô M.....ngủ say, vô tư trên lưng của Hải Âu, có dáng mệt mỏi. Tôi đề nghị Hải Âu:

– Nhờ anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô này đến bệnh xá Quân đoàn 46 để điều trị, khai báo theo thủ tục tù binh, tùy anh ứng biến.

– Vâng, tôi hiểu phải làm thủ tục như thế nào rồi.

– Cũng nhờ anh thường xuyên đến bệnh xá thăm cô ấy, sau đó anh liên lạc với bệnh xá hỏi họ sẽ đưa cô này đến trại tù binh nào, nhớ anh cho tôi biết địa chỉ để đến thăm cô ấy nhé.

– Vâng, đúng thế phải làm thủ tục nhập trại tù binh, theo qui chế chiến tranh.

Cô M....vừa tĩnh dậy hỏi:

– Thưa, quý anh đã đến nơi chưa?

– Chỉ còn 5 phút nữa là chúng ta chia tay, anh Hải Âu DF-1, F138 đưa cô đến bệnh xá Quân đoàn 46, còn chúng tôi tiếp tục hành trình, sau khi cô ổn định thủ thục tù binh, tôi đến trại thăm cô và những anh em tù binh đồng hương.

Đến đây chúng tôi và cô M..... tạm biệt đi hai hướng, cô M....hỏi:

– Thế thì anh tên gì để báo ân?

– Không tiện sẽ có ngày gặp lại, chào tạm biệt cô M.....

Trên đường đi tôi suy nghĩ nhiều về thân phận làm người phụ nữ Việt Nam quá gian nan, phải tiếp nhận những ngỡ ngàn trong chiến tranh phức tạp. Nhờ tiếp cận mới nhận diện bộ mặt thật của đảng CS Việt Nam và Trung Quốc, nay đã hiện rõ về họ. Chính họ am tường những tội phạm chiến tranh, biết những trường hợp hãm hiếp nữ tù binh, thế nhưng vẫn làm ngơ không can thiệp, trái lại còn khuyết khích đối xử tồi bại hơn, xâm phạm tiết hạnh của nữ tù binh, hai đảng CS không hề có cảm giác xấu hổ đối với hai dân tộc, cho đến nay hồ sơ hãm hiếp tù binh vẫn bí mật khép kín.

Rõ ràng đảng CS Việt Nam đã đồng lõa trong nội vụ này, và không lên tiếng phản kháng Trung Quốc về sự kiện nữ tù binh Việt Nam bị hãm hiếp. Đảng CS Việt Nam đã để lộ "lề thói" chư hầu, coi như đã hết thuốc chữa trị. Họ sống ung dung, vô trách nhiệm trước dân tộc Việt Nam. Hy vọng một ngày, sự kiện về nữ tù binh Việt Nam được bạch hoá, về mọi hành vi dã man, kinh tởm sẽ có lúc hiển thị, thay lương tâm nhân loại, công bố cáo bạch.

Người nữ tù binh Việt Nam còn phải chịu đựng quá nhiều nghịch cảnh bi thương khác, như trường hợp nữ tù binh bị hãm hiếp mang thai, giam hãm nơi bệnh xá bí mật, họ bị đem ra trừng phạt bằng phẫu thuật cắt bỏ tứ chi, chôn sống và ức bách. Có những trường hợp bị tiêm thuốc tuyệt tiêu khả năng sinh đẻ! Tại chiến trường Lão Sơn, CS Trung Quốc đã có sẵn kế hoạch bẩn thỉu vừa hãm hiếp tập thể vừa trừng phát. Có một số nữ tù binh Việt Nam sống không bằng chết, đành quyên sinh để đổi lấy trinh tiết. [2]

Cảnh tượng hãm hiếp không đơn lẻ nhưng được thi hành rộng rãi tại chiến trường Lão Sơn. Trong cuộc chiến biên giới Việt –Trung, cả hai đảng đều có cùng một mẫu số hèn hạ, tạo ra quá nhiều bạo lực, và phủ nhận hành vi tội ác trước hai dân tộc Việt-Hán.

Vẫn chưa hết, nữ từ binh Việt Nam gặp phải trăm ngàn hung thủ gian ác Hán bao quanh, chúng muốn sự thống khổ của người phụ nữ Việt Nam kéo dài lê thê suốt cuộc đời bằng những sĩ nhục về tinh thần lẫn thể xác. CS Trung Quốc không những làm ngơ mà lại khuyến khích cho phép binh sĩ chà đạp thân thể của người phụ nữ Việt Nam. Họ Đặng là thủ phạm nhưng không ai có thể quy trách nhiệm lên nhà tổ chức chiến tranh họ Đặng này. Đúng là một bè lũ ký sinh hoại loạn. Họ dùng 107 nữ tù binh Việt Nam làm trò giải trí vài lần hãm hiếp tập thể để phục vụ chiến trường.[3]

Nhân dân Việt Nam hầu như không biết gì về chiến tranh biên giới 1979 và trận chiến khốc liệt nhất 1984-1989. Đảng CS Việt Nam thành công tước đoạt quốc gia Việt Nam. Việc nước đại sự biến thành của riêng họ không một người dân nào được đụng vào! Họ đang tìm cách xóa nhòa những ký ức về những cuộc chiến này. CS Việt Nam ngày nay đã hiện nguyên hình một tên đại bịp, dối trá đứng trên lịch sử, phá tan hoang dân tộc Việt Nam.

Từ ngày 17 tháng 2 năm 1979 cho đến nay đã trải qua 34 năm, đảng CS Việt Nam vẫn bí mật ém nhẹm không công bố thống kê, tổn thất chiến tranh, tài sản nhân dân, tài sản quốc gia, biên giới lãnh thổ mất bao nhiêu cây số, quân số tham chiến, tử vong, thương binh, tù binh nam nữ được trao trả, mất tích, địch đối xử thế nào với tù binh Việt Nam. Sau cuộc chiến đảng CS Việt Nam chưa hề có ưu đãi xứng đáng nào đối với thương binh, gia đình tử sĩ, v.v...

Đảng CS Việt Nam có thể bóp méo suy nghĩ người dân Việt Nam được một ngày, chứ không thể thay đối vĩnh viễn, bởi những hành động dối trá và lừa bịp không thể tồn tại lâu dài. Nếu lịch sử là một chuỗi dài những kịch bản trên sân khấu, đảng CS Việt Nam chỉ là một kịch bản tồi dở, màn hạ xuống là hết. Nhân dân Việt Nam không phải là con rối để mọi khuynh hướng chính trị đùa cợt.

Nước Việt Nam tồn tại cho đến ngày nay là nhờ ở một hằng số bất biến: chống xâm lược phương Bắc. Dân tộc Việt Nam có phương thức dựng nước bẳng "tình nghĩa đồng bào" sẽ đối phó quyết liệt như lịch sử dân tộc Việt Nam đã từng bao lần thể hiện. Gần đây Trung Quốc đã xua quân mở những cuộc chiến tranh cướp biên giới đất liền và biển đảo của Việt Nam vào những năm 1956, 1972, 1974, 1979, 1984 và 1989, đó là chiến tranh bi thảm đến từ phương Bắc, khơi lại lên vết thương lịch sử dân tộc Việt Nam khó thể quên được.

Dân tộc Việt Nam không thể quên những lời truyền dạy năm 1978 của Đặng Tiểu Bình: "Ta muốn chiến thắng Việt Nam hãy thực hiện giết sạch, đốt sạch, hãm hiếp sạch. v.v..." [4]

Lời tuyên bố phi nhân của họ Đặng, chống nhân loại, chỉ thị cho quân đội Trung Quốc nổi sóng gió máu tanh, hằng ngàn người Việt vô tội, dân lành bị hành hạ tại các tỉnh biên giới, như thị trấn Đồng Chúc, Hưng Đạo, Thanh Thủy, Vị Xuyên.

Những tỉnh Cao Bằng, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, người chết trôi sông, thi thể mất đầu, và thê thảm hơn nữa thân thể phụ nữ loã lồ, cây thọc vào cửa mình, trẻ em vô tội xác lìa hai nơi, chưa kể về những cảnh chết của người du kích địa phương v.v…

Trung Quốc khuyến mại hận thù trên tầm quyết sách. Khi có điều kiện, binh lính Hán triều không cần suy nghỉ, sẵn sàng vấy máu trên mười đầu ngón tay. Tính khoan dung, hiền hòa nhường cho chỗ thú tính man rợ, tàn ác. CS Trung Quốc chưa bao giờ biết tôn trọng nhân phẩm con người, chỉ biết giết, giết và CS Việt Nam, đệ tử thân tín của đàn anh phương Bắc cũng dùng quỉ-thuật giết người đôi khi còn tàn bạo hơn cả CS Trung Quốc.

Giết người cũng cần có đồng minh, cho nên CS Việt Nam và CS Trung Quốc phải kết bè bọn, cao giọng tung hô phương châm 16 chữ vàng "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng đến tương lai", và tinh thần 4 tốt, "Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". Thực chất, Trung Quốc đã cài lưới điện vào hai cụm từ trên, đều nằm trong chiến lược đô hộ Việt Nam lâu dài.

Nhân dân Việt Nam không thể tiếp nhận người bạn xấu phương Bắc bằng ngôn ngữ anh em, cần xét lại quan hệ với Trung Quốc, và đặt các vấn đề hậu chiến tranh từ năm 1956 cho đến năm 1989, từ biên giới đất liền cho đến biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam.

Từ khi Trung Quốc phát động chiến tranh, ngày 17 tháng 2 năm 1979 đến năm 1989, binh sĩ Trung Quốc đã hãm hiếp không biết bao nhiêu nữ tù binh Việt Nam, để lại những vết thương không tẩy xóa được trong tâm não của nữ tù binh đáng thương. Họ mang trong lòng mặc cảm tủi nhục và tuyệt vọng. Họ đã mất hết niềm tin vào tình người, cuộc đời trở nên vô nghĩa, rơi vào tình cảnh trầm cảm khôn nguôi, thân tâm luôn cảm thấy đau đớn. Họ không được bảo vệ theo đúng qui ước chiến tranh. Cả hai đảng CS Việt Nam và Trung Quốc cùng nhau thi thố xem ai tàn ác hơn ai trong cuộc chiến này, xô đẩy toàn dân đến chỗ diệt vong về tinh thần và vật chất. Họ đã vi phạm trắng trợn qui ước chiến tranh và đã xúc phạm đến nhân phẩm của người thất trận, thay vì tạo ra tâm lý bình yên. Trung Quốc đã vi phạm quy ước quốc tề về tù binh, gây tội ác chiến tranh, nhân loại sẽ không tha thứ. Lưới trời tuy thưa, nhưng khó lọt, những kẻ gây tội ác chiến tranh tại biên giới Việt Trung không thể thoát khỏi phán quyết của Tòa án Hình sự Quốc tế (ICC) về tội ác chống nhân loại.

Huỳnh Tâm
Theo Huỳnh Tâm blog




[1] Vào thời điểm này, vùng núi Lão Sơn vẫn còn thuộc biên giới Việt Nam.
[2] 10% Nữ quân nhân trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
[3] 107 nữ tù binh chiến tranh hiện diện tại chiến trường Lão Sơn, Việt Nam.
[4] Đặng Tiểu Bình, tuyên bố ngày 20/12/1978, tại hội nghị Quân Ủy Trung Ương (CPC).

http://www.vanganh.info/2013/ 07/tai-lieu-quy-gia-ve-cuoc- chien-viet.html










Làm Hay Không Làm Chính Trị
Cho Quê Hương?



Chính trị là gì ?
Làm hay không làm, tham gia hay không tham gia chính trị
Chính trị với người Việt ở hải ngoại
Chúng ta không thể làm ngơ được nữa
Nói với thế hệ trẻ, con cháu Lạc Hồng



«Tôi không làm chính trị». Câu trả lời ngắn gọn đã một thời ở đầu môi của một số người Việt khi được mời hay được kêu gọi tham gia một hoạt động, một công tác liên quan đến cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của Miền Nam Việt Nam trước tháng 05 năm 1975.



Cũng câu trả lời ngắn gọn này được lặp lại bởi số người ấy hay được xử dụng bởi một số người của một thế hệ khác, lâu sau 1975, khi họ được gọi hổ trợ hay tham gia cuộc tranh đấu nhằm dân chủ hóa và hiện đại hóa nước Việt Nam, mang lại tự do cho mọi người, công bằng trong xã hội, để xây dựng một vận hội mới tươi sáng cho quê hương của họ.



Cả trong hai giai đoạn trước và sau 1975, câu trả lời cô đọng này hàm súc một ý nghĩa lớn, mang lại những hậu quả lớn và vì vậy cần được bàn đến một cách nghiêm chỉnh, tương xứng với tầm quan trọng của nó.



«Tôi không làm chính trị» là gì ? Và ngược lại, « Vì sao tôi làm chính trị, tôi tham gia chính trị ?» như nhiều người khác quả quyết. Ở đây, tôi muốn hiểu tham gia chính trị là làm chính trị dưới một hình thức và trong một phạm vi nào đấy, chứ không có môt sự phân biệt nào đáng kể giữa hai cụm từ này.



I – Chính trị là gì?



Nhưng trước hết, chính trị là gì mà người thích kẻ không như vậy. Được định nghĩa khá rõ ràng ở các quốc gia nhưng ngay ở những nước có văn hóa cao, người ta vẫn có những nhận thức đôi lúc khác nhau về từ ngữ này. Chúng ta sẽ không để mất quá nhiều thì giờ cho việc định nghĩa từ ngữ mà chú trọng đến sự lựa chọn một thái độ, của người Việt ở trong nước hay đang ở nước ngoài : làm chính trị hay không làm chính trị.



Chính trị bao gồm một lãnh vực hết sức rộng lớn như nhiều người hiểu và các tự điển đông tây đều gần cùng một định nghĩa.



Trước hết, chính trị là mọi việc liên quan đến công cuộc trị nước an dân. Trong một phạm vi rộng hơn, chính trị là các tương quan giữa nhiều quốc gia, giữa các quốc gia và các định chế quốc tế.



Chính trị cũng là các hoạt động liên quan đến công vụ trong một nước. Các lý thuyết tổ chức một quốc gia, các thể chế, các chủ nghĩa, các cương lĩnh của các chính đảng đều ở tuyến đầu của địa hạt chính trị.



Nhưng chưa hết, chính trị còn là một khoa học, một nghệ thuật chuyên về việc quản trị một quốc gia, tham gia hay điều khiển một chính phủ, chính trị cũng là tổng hợp những sự cố của một nước : tình hình chính trị, sinh hoạt chính trị, bối cảnh chính trị, nền chính trị v.v….



Theo ngôn từ mác-xít, chính trị là phần chính của thượng tầng kiến trúc(superstructure) (1), gồm những chủ thuyết và cơ cấu đầu não của một quốc gia xây dựng trên hạ tầng cơ sở (infrastructure) qui tụ những lực lượng và tương quan sản xuất tạo thành căn bản vật chất của xã hội. Tách khỏi cái ngôn từ sặc mùi đối đầu giai cấp này, hạ tầng cơ sở là hệ thống đường sá, cầu cống, phi trường, hải cảng….tất cả những phương tiện và cấu trúc dùng cho việc giao thông vận tải và rộng hơn cho sự hoạt động của một nền kinh tế quốc gia.



Tóm lại, ít có một từ ngữ nào rộng nghĩa hơn từ ngữ chính trị, bao trùm nhiều lãnh vực quan trọng liên quan đến một quốc gia, các định chế quốc tế và cả thế giới nói chung.



II – Làm hay không làm, tham gia hay không tham gia chính trị

Định nghĩa rộng rải và rõ ràng của từ ngữ chính trị được thông dụng và chấp nhận khắp nơi, làm sáng tỏ vấn đề tham gia hay không tham gia, làm hay không làm chính trị, đối với môt người trong cộng đồng, trong quốc gia của họ, trong thế giới (chính trị quốc tế), và đặc biệt đối với chúng ta, người Việt ở trong nước hay người Việt đang ở hải ngoại vì bất cứ môt lý do gì. Đặc biệt vì chúng ta là một trong vài dân tộc bất hạnh nhất trên địa cầu, đã phải chịu đựng một cuộc chiến tranh lúc ác liệt, lúc tạm ngưng, ròng rã ba mươi năm trời rồi , tiếng súng lặng im, chịu đựng tiếp một chế độ hà khắc từ ba mươi năm nay và giờ đây thiết tưởng đã đến lúc cần phải thay đổi.



Thế nhưng, trước khi đề cập đến chuyện của chính chúng ta, hãy tìm hiểu vì sao vấn đề làm hay không làm chính trị, tham gia hay không tham gia chính trị cũng được đặt ra ở khắp nơi trên thế giới. Tìm hiểu vì, ngoài những lý do riêng của chúng ta, các lý do khác đều chung chung giống nhau, loài người vẫn được mệnh danh từ lâu là những “con vật chính trị“.



Thật vậy, với định nghĩa vừa trình bày, không ít thì nhiều, ở nước nào cũng vậy, ai cũng tham gia chính trị, trực tiếp hay gián tiếp, dưới hình thức này hay hình thức khác, qua những hành động trong cuộc sinh hoạt hằng ngày. Ai cũng có những quan hệ ràng buộc mình với xã hội, với quốc gia của mình, những bổn phận cũng như những nhiệm vụ.



Hành sử những quyền công dân trong một nước dân chủ như bầu cử , ứng cử vào các chức vụ dân cử là một thể hiện rõ rệt nhất của sự tham gia chính trị. Đại đa số dân chúng các quốc gia dân chủ tham gia việc nước qua hình thức thông dụng này.



Tranh đấu chống lại gian lận bầu cử, đòi hỏi quyền ứng cử, công khai vận động cho một hay nhiều ứng cử viên tức là làm chính trị, dấn thân chính trị, phục vụ và bảo vệ nền dân chủ của quốc gia. Không có những thành phần năng động và can đảm này, nhiều nước kém mở mang đã có thể trở thành nạn nhân của những chế độ độc tài hay không thoát khỏi được các chế độ quân phiệt. Sự biến đổi quan trọng trong chiều hướng dân chủ hóa ở Châu Mỹ la-tinh trong ba thập niên vừa qua là một bằng chứng không chối cải được của sự kiện lịch sử này.



Phát biểu một ý kiến, xác định một lập trưòng về một vấn đề liên quan đến quyền lợi của xứ sở, của dân tộc, của cộng đồng thế giới là tham gia chính trị bằng sự bày tỏ một tư tưởng, một quan điểm của một người dân trong một nước dân chủ, tự do.



Hoạt động trong một tổ chức, một đoàn thể, một đảng phái chính trị tức là làm chính trị với mức độ dấn thân (engagement, commitment) để thực hiện và phục vụ một lý tưởng, một hoài bảo, một mục đích vượt lên trên quyền lợi cá nhân của mình. Sự cấu tạo một nền dân chủ đích thực bắt nguồn từ đây vì sự học hỏi và thực tập dân chủ đã được diển ra phần lớn trong khu vực, trong môi trường chủ yếu này.



Giữ một trọng trách trong chính quyền, tham dự chính phủ, là làm chính trị bởi sự san sẻ quyền hành và thụ lãnh trách nhiệm trước những cơ cấu đại diện quốc dân. Nói chung, khi con người đã tiến đến thời kỳ tổ chức sinh sống thành một cộng đồng một xã hội, một quốc gia thì hầu hết đều tham gia chính trị để góp phần của mình vào sự tồn tại và phát triển của quốc gia mình. Tham gia tích cực, tham gia với ý thức sâu xa hay nhiều lúc tham gia mà không biết hay không cần biết mình tham gia vì trong nhiều trường hợp một sự tán đồng hay bất đồng, hay ngay cả sự giử im lặng trước một hành vi một sự cố xảy ra trong nước hay trong thế giới đã là một thái độ chính trị, nghĩa là một sự tham gia ở một mức độ nào đấy, công khai hay âm thầm, lặng lẽ.



Bên cạnh sự tham gia chính trị của đại đa số, cố nhiên còn lại những người không muốn “dính” đến, không muốn liên hệ đến bất cứ việc gì ngoài chuyện “làm ăn” sinh sống của họ và chủ trương đóng kín cửa với thế giới bên ngoài. Họ chỉ cần sống với họ trong cái võ ốc mà họ tin là kiên cố, mặc cho “thời tiết“ xã hội, chính trị bên ngoài đổi thay sau bức tường cách nhiệt mong manh, giả tạo. Trong cái thế liên lập (interdépendance, interdependence) của các quốc gia ngày nay, một nước không thể tự tách riêng ra để tồn tại một mình được thì một cá nhân càng không thể tự giam mình trong cái vũ trụ tí hon của mình được. Vươn ra khỏi cái phạm vi hạn hẹp của mình, kết hợp với xã hội chung quanh mình, san sẻ những mối lo chung, những hy vọng chung, thực hiện những dự án, những công cuộc lợi ích chung, chia xẻ những ngọt bùi chung, đấy là tham gia chính trị, làm chính trị. Và chính cái năng lực chính trị tổ chức được thành xã hội, thành quốc gia đã tạo nên sự phân biệt lớn lao giữa con người và con vật dù cả hai đều là những sinh vật, một thời xa xưa trong tiền sử không khác gì nhau mấy.



Thế nhưng, qua bao nhiêu thời đại, từ khi ý thức chính trị còn sơ đẳng cho đến khi phát triển đến cao độ, sáng tạo nên những qui luật trị nước an dân thì bên cạnh những người làm chính trị tốt có lý tưởng, năng lực và đạo đức đã góp phần vào những công trình xây dựng nên sự hưng thịnh của quốc gia, phúc lợi cho thế giới thì cũng không thiếu những chính trị gia hoạt đầu, những kẻ lợi dụng lòng tin của dân chúng gởi gắm nơi mình, những kẻ dùng bạo lực tranh đoạt quyền thế hảm hại đồng bào, những kẻ dùng tà thuyết lường gạt nhân dân, những kẻ bất lương tham nhũng hợp tác với những kẻ tòng phạm “không làm chính trị“ nhưng biết làm tiền bằng mọi cách kể cả bán rẻ lương tâm và danh dự.



Từ xưa đến nay, từ Âu sang Á, ở các nước độc tài cũng như ở các nước dân chủ, phường chính trị gia kể trên không thiếu. Đành rằng trong nghề nào và ở bất cứ đâu cũng có “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng con sâu trong nồi canh chính trị càng lớn mạnh, hậu quả càng tai hại cho một xã hội, một quốc gia. Thành kiến bất lợi của một số người dành cho người làm chính trị và cho cả việc chính trị theo nghĩa họ hiểu, bắt nguồn một phần lớn từ loài sâu bọ này.



Nhưng không phải vì hiện tượng sâu bọ này mà sự tham gia chính trị, sự dấn thân chính trị giảm bớt hào quang, một vầng hào quang kết hợp bằng lý tưởng phục vụ công ích, bằng sự chấp nhận và thực thi những dòi hỏi khắt khe về đạo đức, bằng những nỗ lực làm việc và phục vụ một chính nghĩa, bằng những đóng góp và hy sinh vật chất và tinh thần, bằng sự chấp nhận những hiểm nguy không thiếu, tất cả cho sự thành công của một đại cuộc. Tham gia chính trị, làm chính trị là chấp nhận một thách đố chống nghịch cảnh, vượt ra khỏi cái tôi nhỏ bé của cá nhân mình, hoà mình với mọi người để cùng nhau phục vụ cho cộng đồng, cho xứ sở của mình, cho thế giới mà mình và đất nước của mình phải là một thành phần xứng đáng và hửu ích có khả năng mang lại phần đóng góp chứ không chỉ ngửa tay xin xỏ suốt đời.



Tham gia chính trị, làm chính trị là tự ý gánh lấy một phần trách nhiệm đối với quốc gia dân tộc, chống lại thái độ đứng ngoài cuộc, đóng vai trò “quan sát viên vô tư “ trong lúc đối tượng được quan sát chính là xứ sở, quê hương mình đang ở trong cơn hoạn nạn và đang khẩn thiết cần đến mình để vượt thoát và vươn lên.



Lâu trước 1975, trong thập niên năm mươi, thành phần“trùm chăn này“ đã được ngụy trang dưới nhiều hình thức để che đậy sự nhát sợ của một số người, làm giảm thiểu phần nào khả năng chống Cọng để bảo vệ tự do lúc bấy giờ. Họ không thích cộng sản, họ lo sợ cộng sản chiếm hết Miền Bắc (trước hiệp định Genève tháng 07, 1954 lực lượng Cộng sản còn được gọi là Việt Minh chỉ chiếm giữ một phần lãnh thổ ở thôn quê và một số ít tỉnh ở Miền Bắc và Miền Trung) và Miền Nam Việt Nam nhưng họ không tham gia chính trị vì sợ mang màu sắc chống Cộng, có thể bịết đâu một ngày nào đấy bị trả thù. Tiếc thay cho họ, sự khôn ngoan và phòng xa chu đáo không giúp họ tránh khỏi cảnh ngộ chung của toàn dân, năm 1954 đất nước phân đôi, một triệu người di cư từ Bắc vào Nam và từ tháng tư đen năm 1975 hàng triệu người kể cả họ phải rời bỏ quê hương, lần lượt ra đi khắp bốn phương trời …



III – Chính trị với người Việt ở hải ngoại.



Khi nói với người Việt ở hải ngoại về vấn đề này, tôi muốn ám chỉ tất cả những người gốc Việt hiện ở ngoài Việt Nam, dù họ mang quốc tịch nào, miễn là họ còn tưởng nhớ đến quê hương, trung thành với nguồn gốc và còn ấp ủ trong lòng tình đồng bào Việt Nam ruột thịt. Và cũng trong phạm vi mở rộng của vấn đề “ làm gì cho quê hương“, tôi sẽ không phân biệt những người ra đi trước hay sau 1975 vì những lý do có thể giống nhau , có thể khác nhau tùy theo hoàn cảnh, tùy theo trường hợp của mổi người, mổi gia đình, và tùy theo tình thế biến chuyển không ngừng của đất nước trong hơn nửa thế kỷ khổ nạn với mấy lần vật đổi sao dời.



Lắm lúc trong một cuộc đời, người ta không làm chủ được số phận của mình. Nhưng điều quan trọng là cố gắng tối đa, không vội nản lòng trước khó khăn trở ngại, không chỉ biết lo cho mình mà còn phải san sẻ nổi lo chung của dân tộc.



Tôi muốn dành vài hàng ngắn ngủi để nhắc lại sơ qua một việc nhỏ nhưng có ý nghĩa tương tự như câu chuyện ngày hôm nay, tại mục này: chính trị với người Việt ở hải ngoại. Hoàn cảnh có khác nhau và nhiều năm tháng đã trôi qua nhưng câu chuyện như mới diễn ra ngày nào vì nhiều người trong cuộc vẫn còn đây như giáo sư Lê Mộng Nguyên và nơi hội họp vẫn còn đó, nguyên vẹn ở đường Monge, quận 5 thành phố Paris. Tôi đến thủ đô nước Pháp một ngày đầu thu 1959, chỉ một mình sau khi phái đoàn Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa mà tôi là một thành viên rời Nhã Điển (Athènes) thủ đô của Hy Lạp và hội nghị Liên Hiệp Quốc Tế Nghị Sĩ vừa bế mạc. Mục đích duy nhất là nói chuyện, đúng hơn là tranh luận, với sinh viên Việt Nam mà một số đáng kể là thân Cộng hay đảng viên cộng sản thật sự trong tổ chức Liên Hiệp Việt kiều. Thời ấy, các sinh viên này rất hung hãn nhất là đạo luật về an ninh quốc gia vừa được ban hành ở Miền Nam để trừng trị các hoạt động phá hoại, khủng bố. Mặt Trận giải phóng Miền Nam thành hình sau đấy. Công tác này chỉ là một sáng kiến của tôi, một hành động tự nguyện và được Tổng thống Ngô Đình Diệm chấp thuận. Tôi muốn thực hiện một cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa những người Việt ở trong nước và ngoài nước, đặc biệt giữa những người trẻ dấn thân ở bên này và bên kia chiến tuyến, với sự mong ước, có lẽ là tham vọng, thuyết phục những người trí thức trẻ tuổi đang nghiêng về phía bên kia trở về với chính nghĩa quốc gia, trở về với lý tưởng tự do dân chủ.



Còn là một thanh niên chưa đến ba mươi tuổi lớn lên giữa thời tao loạn, tôi đã và đang làm nhiều nghề (giáo sư, luật sư, chủ bút và chủ báo,….) và cũng đã trải qua nhiều thử thách, tù đày, gian khổ. Có lẽ nhờ vậy chăng mà tôi đã quen và vẫn muốn đương đầu với nghịch cảnh thay vì tránh né khó khăn miễn là phục vụ được lý tưởng của mình.



Sau khi đắc cử Dân Biểu quốc hội và được bầu vào các chức vụ Phó Trưởng Khối Liên Minh Xã Hội (từ năm thứ hai của pháp nhiệm, tôi làm Trưởng Khối) và Chủ Tịch Ủy Ban Lao Động- Xã Hội-Y Tế ( từ năm sau, tôi lần lượt giử chức vụ Chủ Tịch các Ủy Ban Nội Vụ, Quốc Phòng), tôi nhận thấy cần thừa dịp phó hội ở Hy Lạp,sang thẳng Paris để thực hiện một công tác “giải độc” ở hải ngoại chắc chắn không phải là dễ dàng vì ai cũng biết nơi đây là trung tâm hoạt động mạnh nhất của Cộng sản Việt Nam ở Âu Châu, đặc biệt của giới sinh viên và thợ thuyền Việt kiều trong tổ chức Liên Hiệp Việt kiều thời ấy.



Tôi đã thảo luận công khai, trực tiếp với các sinh viên đủ mọi thành phần, quốc gia, thân Cọng, cộng sản thực sự, thảo luận mọi vấn đề liên quan đến tình hình đất nước, đời sống của sinh viên, thảo luận trên căn bản mà tôi đề nghị: quyền lợi chung của xứ sở và tình tự dân tộc. Vì giới hạn của bài này và vì không phải chổ nên tôi không thể kể lại chi tiết ở đây nhưng có thể tóm tắt là buổi họp rất sôi nổi, “phe “ thân Cộng và Cộng không áp đảo được như họ vẫn thường làm trong các vụ hội thảo mà cuối cùng họ chịu lặng im thấy rõ.



Đại Sứ VNCH, bác sĩ Phạm khắc Hy mời tôi ở lại Pháp ít lâu để tổ chức những buổi thảo luận tương tự ở các tỉnh nhưng tôi phải về nước vì nhiều công việc đang chờ đợi tôi.



Bao nhiêu nước đã chảy qua dưới cầu từ độ ấy. Một cuộc đổi đời đã diễn ra. Ngược lại với sự thay đổi vị thế trong nước mà anh bộ đội ở rừng rú và tên cán bộ công an nằm vùng ở Sài gòn đã trở thành cảnh sát chỉ đường giao thông của thành phố tạm thời mang tên “bác”, tại hải ngoại, trên toàn khắp thế giới, con cháu của “ bác” biến đâu mất, kể cả các đại diện ngoại giao cũng núp lén cố thủ trong các công ốc của nhiệm sở.



Họ cẩn thận tránh né cũng phải vì ba triệu người Việt ở khắp nơi không thích họ, nhiều người còn hận thù, chuyện rủi ro có thể xảy ra cho họ nếu ai đó thổi mạnh hòn than đỏ ấp ủ dưới lớp tro tàn mỏng manh. Mất chính quyền, mất chủ quyền ở trong nước bởi bạo lực của một cuộc xâm lăng trắng trợn, ngược lại ở ngoài nước, dân Việt Nam đã thành công lớn, đã thắng lợi lớn trong cả hai phạm vi tinh thần lẫn vật chất.



Từ Mỹ Châu, Úc Châu đến Âu Châu, Á Châu, cộng đồng người Việt quốc gia đã hiên ngang công khai làm sáng tỏ trở lại trước công luận thế giới, chính nghĩa của cuộc đấu tranh bị hiểu lầm và bị xuyên tạc trước đây bởi đạo quân thứ năm của cộng sân quốc tế, bởi những trí thức và ngụy trí thức tả khuynh ở Tây phương, đặc biệt trong giới truyền thông đại chúng, báo chí và truyền hình của Hoa kỳ, của Tây Âu, nghĩa là của cái được mệnh danh là Thế giới Tự do (!) thời bấy giờ.



Tại Hoa Kỳ, lần lượt gần bảy-mươi thành phố ở khắp các vùng trong Liên bang chính thức công nhận lá cờ quốc gia Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của cộng đồng người Việt trong lúc vài thành phố quan trọng có đông người Việt ở Nam California quyết định không bảo đảm an ninh cho các viên chức của chính quyền Hà Nội mà họ khuyến cáo không nên lai vãng đến. Hành động có ý nghĩa đặc biệt này quả thật là hiếm hoi trong lịch sử bang giao quốc tế mà Hoa Kỳ muốn dành cho người Việt định cư trên đất nước của họ để bày tỏ sự tôn trọng của họ đối với sự lựa chọn chính trị hàng đầu của người Việt bất chấp qui lệ nếu không phải là qui ước ngọai giao.



Cộng đồng người Việt mà đại đa số là đồng bào tỵ nạn cộng sản và con cháu của họ, lớn lên hoặc sinh trưởng tại hải ngoại, đã thành công rực rỡ trên đất tạm dung. Tư cách, tài năng của người Việt đều được công nhận khắp nơi. Tỷ lệ học giỏi ở trung học và đại học ở Hoa Kỳ cũng như ở Âu Châu ngang với hoặc cao hơn tỷ lệ của dân bản xứ trong lúc tỷ lệ tội phạm ít hơn hẳn so với mọi sắc dân khác. Khoảng ba trăm ngàn chuyên viên đủ ngành đang hoạt động, lợi nhuận tương đương với dân bản xứ cùng trình độ.



Nhưng một điểm đáng chú ý- và cũng là một vấn đề cần xét lại – là trong năm vừa qua người Việt ở hải ngoại đã gửi hoặc mang về nước ba tỷ đô la Mỹ, bằng tổng số ngoại viện và quan trọng hơn nữa là bằng tiền mặt. Riêng khu vực thành phố Sài – gòn củ đã chiếm hơn một tỷ tám trăm triệu. Một vấn đề cần xét lại vì ngoài những trường hợp trợ giúp nhân đạo hay bà con, bạn hữu túng thiếu cần giúp đỡ, chúng ta không thể cung ứng phương tiện nuôi dưỡng một chế độ độc tài, độc đảng, tham ô nhũng lạm, áp bức, bất công, Một chế độ đang bị thế giới văn minh lên án, môt chế độ mà chính những người cộng sự còn lương tri, những nhà trí thức trong nước, những cựu đảng viên cộng sản cao cấp đã thức tỉnh, những nông dân nghèo khổ ở châu thổ sông Hồng, những đồng bào sắc tộc ở Cao Nguyên thậm chí đến những chiến binh đã chiến đấu hy sinh cho chế độ suốt một cuộc đời, tất cả đã chống đối công khai, không sợ hãi, không lùi bước. Vì tất cả đã đi đến giới hạn cuối cùng của khả năng chịu đựng, của sự nhẫn nhục và trên hết, vì tất cả đã nhận thức nguy cơ của một quốc gia đang thoái hóa với các giá trị tinh thần đạo đức truyền thống của dân tộc bị suy sụp trước sự đăng quang thách thức của thế lực kim tiền,, một thứ kim tiền thủ đắc một cách bất chính và bất lương trên thảm cảnh của đại đa số sống chật vật dưới rất xa mức nghèo khổ.



Đồng bào chúng ta ở hải ngoại lẽ nào làm ngơ trước đồng bào ruôt thịt trong nước đang bị gọng kềm của chế độ xiết chặc, lẽ nào im lặng trước những người bất chấp đe dọa hiểm nguy đang đứng lên tranh đấu cho tự do, dân chủ và quyền sống xứng đáng của con người.



Con người của thế kỷ hai-mươi-mốt mà đời sống đang được phát triển toàn diện, tinh thần và vật chất, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay, con người mà dân Việt đang mơ ước và có quyền mơ ước được như vậy. Chính bạn ở hải ngoại là con người ấy mà đồng bào ruột thịt của bạn ở quê hương đang mơ ước.



Bạn đang ở Hoa Kỳ, nước giàu mạnh nhất thế giới, với tổng sản lượng nội địa tính theo đầu người (produit intérieur brut par personne PIB – gross domestic product per capita GDP) là 44.469 đô-la hay 34.207 euros tinh theo mãi lực (parité du pouvoir d’achat PPA , purchasing power parity PPP), bạn đang ỏ Âu Châu, khu vực đồng euro với 31.035 đô-la Mỹ hay 23.874 euros theo những con số chính thức vào tháng giêng 2005 của những cường quốc phát triển nhất. Trong cùng lúc, bà con của bạn ở quê nhà có lợi nhuận trung bình một năm tính rộng nhất vẫn dưới 500 đô – la Mỹ, thấp khoảng sáu lần lợi nhuận trung bình của người dân Thái Lan kế cận và thấp hơn nhiều lần nữa so với lợi nhuận của người dân Đại Hàn, Đài Loan, khỏi phải sánh với ngưòi dân xứ Hoa Anh Đào mà lợi nhuận (33.165 đôla Mỹ) cao gấp bảy-mươi lần lợi nhuận của dân ta ! Cùng một giống người “da vàng mũi tẹt”, cùng sinh sống trên miền Đông Á, họ đã vượt Việt Nam ngày nay quá xa trên mọi lãnh vực, văn hóa, chính trị, khoa học kỹ thuật, kinh tế, xã hội …và không một ai trong bọn họ muốn tranh dành cái “đỉnh cao của trí tuệ loài người “ mà các vị lãnh đạo Cộng sản Bắc Việt đã, không cười rởn và rất nghiêm chỉnh, tự gán cho mình vào cuối thập niên bảy-mươi khi họ hoàn tất sự nghiệp cách mạng vĩ đại đưa dân tộc Việt Nam trở về thời đại đồ đá!



Từ cái hố sâu xa cách lợi nhuận thăm thẳm này, chúng ta không còn phải ngạc nhiên trước tình trạng cơ cực của đại đa số đồng bào ở khuất lấp trong nông thôn và trong xó hẻm của các đô thị. Một tình trạng không thể che đậy được bởi cái bề ngoài hào nhoáng và đồ sộ của các khách sạn quốc tế, những tiệm ăn sang trọng mùi vị thơm ngon, những khiêu vũ trưòng rực rỡ ánh đèn màu, tất cả dành cho người ngoại quốc , một số ít Việt kiều giàu có về thăm quê (số đông không đến được những nơi này vì quá đắt ngay đối với họ) và đặc biệt cho các nhà “tư bản đỏ “, cán bộ cao cấp của “đảng ta “ và những kẻ làm ăn với chúng. Trên vỉa hè trước mặt, các em bé đang tranh nhau xin tiền và xin ăn chút dư thừa! Xa hơn, kín đáo hơn, các em bé khác đang phải bán mình để nuôi thân và nuôi cha mẹ, những bậc sinh thành đã không tìm ra được việc làm để nuôi con, đành phải ăn vội bát cơm chan nước mắt tủi nhục với con, căm hờn với chế độ đã tạo nên cuộc đổi đời nhục nhã, tang thương này. Xa hơn nữa, ở nước láng giềng Căm-Bốt, có những em bé Việt mới tám tuổi hoặc lớn hơn nhưng vẫn còn vị thành niên đã được cha mẹ bán đi hoặc đưa đến đây hiến dâng trinh tiết rồi hành nghề mãi dâm để nuôi gia đình. Và càng xa hơn nữa, ở tận Trung Đông, ở Đông Âu, ở tận Đại Hàn, Đài Loan v.v….nhiều bà mẹ Việt Nam đã được xuất cảng lao động đến đấy để làm người giúp việc ở tư gia, một số còn bị lợi dụng tình dục, đau xót tủi nhục đến tột cùng, thương nhớ chồng con không kể xiết nhưng họ không còn sự lựa chọn nào hơn giữa ra đi để kiếm sống, và ở lại để cả gia đình cùng khốn đốn vì khó kiếm được việc làm. Người phụ nữ Việt lại còn phải trải qua những ngày đen tối khác khi nhiều thiếu nữ vì nghèo khổ phải chấp nhận lấy chồng để cha mẹ được một số tiền nhỏ – vài trăm đô la Mỹ- rồi theo chồng về Trung Hoa hay Đài Loan sống như tôi tớ trong nhà chồng hoặc trong một số trường hợp bị ép làm những điều đồi phong bại tục.



Tình trạng chính trị , kinh tế, xã hội, vừa được tóm lược không phải để bêu xấu một chế độ vì chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã không thể dấu diếm che đậy gì được nữa mà chỉ để nhắc nhở và kêu gọi đồng bào Việt ở hải ngoại làm một cái gì cho quê hương, cho đồng bào ruột thịt trong nước, cho tương lai của dân tộc.



IV – Chúng ta không thể làm ngơ được nữa



Cùng nhau chúng ta phải chung sức vận dụng khả năng tối đa của mình để tranh đấu cho sự phục hồi tự do, dân chủ, cho sự tôn trọng nhân quyền, cho sự tôn trọng tự do tín ngưỡng và hành đạo của các tín đồ, hoàn trả vô điều kiện tài sản của tất cả các giáo hội Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hoà Hảo, Cao Đài Giáo, Đạo BàLa Môn …



Chúng ta phải tranh đấu tại hải ngoại bằng mọi cách hửu hiệu nhất, công khai hay tiềm ẩn, trực tiếp hay gián tiếp,cả bề rộng lẫn bề sâu,để công luận thế giới công khai nhìn nhận tình trạng của một dân tộc tám-mươi triệu người bị khống chế và đàn áp bởi một chế độ độc tài, độc đảng xây dựng bằng bạo lực, một dân tộc trong suốt ba mươi năm nay, kể từ ngày Cộng sản Bắc Việt thôn tính Miền Nam Việt Nam, không được biết một cuộc bầu cử tự do và trung thực nào cả. Một sự nhìn nhận và theo dõi của thế giới, tạo áp lực mạnh trên chế độ, mở đường lúc cần thiết cho một sự can thiệp như thế giới đã từng can thiệp và sẽ can thiệp ở nhiều nơi mà dân chúng trong nước bị đàn áp bởi chính quyền của nước họ.



Chúng ta phải hổ trợ tối đa các hoạt động của đồng bào trong nước đòi hỏi tự do, dân chủ, đặc biệt của những nhà trí thức, những người cộng sản củ đang thất vọng và phẫn uất với chế độ đã phản bội họ, những nông dân ở Miền Bắc đã đứng lên chống lại cán bộ cướp ruộng, cướp đất của họ và đánh đuổi bọn Công An đến giải tán họ.



Trước cái khí thế đáng khâm phục của đồng bào đang dâng lên chống lại cường quyền, chúng ta phải ngăn tránh mọi hành động vô tình hay gián tiếp tiếp tay củng cố một chế độ đã và đang tận tình khai thác cái thân thể đã héo mòn và suy nhược của Đất Nước cho cái túi tham không đáy của những kẻ cầm đầu và thừa hành của chế độ.



Chúng ta không để cho Cộng sản Hà Nội biến chúng ta thành một loại con tin chỉ vì chúng ta muốn về thăm quê hương. Nếu vì những lý do gia đình hết sức đặc biệt mà phải về trong một thời gian ngắn thì mổi một người trở về ấy phải tìm mọi cách thuận lợi và hửu hiệu nhất để thông báo cho đồng bào trong nước biết rằng nhiều cường quốc và lực lượng dân chủ trên thế giới đang tố cáo và cảnh cáo nghiêm khắc chính phủ Hà Nội về những chánh sách và hành động thô bạo vi phạm dân quyền và nhân quyền, kiểm soát chặc chẻ và đàn áp các tôn giáo. Các cường quốc và lực lựng dân chủ này đứng đầu là Hoa Kỳ sẽ không ngần ngại tiếp tay hổ trợ cho các dân tộc đứng lên tranh đấu cho tự do dân chủ của họ như Tổng Thống Georges W. Bush đã tuyên bố long trọng để mở đầu nhiệm kỳ thứ hai này của ông.



Hơn bao giờ hết, đồng bào Việt ở hải ngoại phải đóng góp công của, năng lực, tài trí của mình vào sự nghiệp xây dựng một vận hội mới tự do, dân chủ, hoà bình và tiến bộ cho Quê Hương .Hơn lúc nào hết, chúng ta phải cảnh giác trước các mưu mô, các thủ đoạn của Cộng đảng nhằm lung lạc tinh thần, chia rẻ hàng ngũ chúng ta.



Chính nghị quyết hớ hênh số 36 của bộ Chính trị Cộng đảng Hà Nội đã tự vạch trần các âm mưu ấy khi đưa ra những luận điệu tuyên truyền nịnh bợ rẻ tiền đối với Việt kiều đồng thời xen lẫn một lời hù dọa trẻ con lỗi thời và lạc chổ với những người chống lại họ đang ở nước ngoài và là công dân của các nước ấy ! Và rất đỗi lạ lùng khi họ đòi giúp đỡ cho Việt kiều , hầu hết ở Âu Mỹ, nơi mà người dân có lợi nhuận trung bình từ sáu-mươi-lăm đến một trăm lần nhiều hơn lợi nhuận của đồng bào ta ở quê nhà, mà Đảng ta và Nhà Nước ta không hề đếm xỉa đến và đành đoạn bỏ quên.



V – Nói với thế hệ trẻ, con cháu Lạc Hồng



Trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, ngoài sự thành công của các bậc cha anh, thế hệ trẻ trên dưới ba mươi đã làm rạng danh cho dân tộc Việt ở Âu Châu cũng như ở Mỹ Châu, Úc Châu trên phương diện học vấn và cũng đã hội nhập khá dễ dàng các quốc gia nơi họ trưởng thành.



Tôi muốn nói thêm vài lời với các bạn trẻ ấy, với thế hệ lớn lên hoặc sinh trưởng ở hải ngoại. Nói thêm vì các cháu chưa biết nhiều hay chỉ biết quê hương qua những tin tức của báo chí và cac phương tiện truyền thông khác, qua những lời kể lại của những người nào đấy, cố nhiên với những nhận định của họ, có thể phản ảnh đúng sự thật, có thể không vì thiếu tính khách quan. Hoặc có thể các cháu có về thăm quê hương nhưng chưa đi đến nhiều nơi trong nước mà chỉ có thì giờ thăm vài thắng cảnh, vài di tích lịch sử, thăm bà con và sống vài hôm ở vài đô thị lớn như Hà Nội, Sài Gòn, v.v … Nhưng các cháu không có đủ thì giờ và người hướng dẫn để quan sát tận nơi và nhiều nơi, đời sống thực, kham khổ, của nhiều giới đồng bào, xa cách và tương phản với cảnh tượng phồn hoa, thịnh vượng giả tạo, bề ngoài, phô trương lố bịch như một sự thách thức không kiềm chế và kiêu căng đối với thân phận hẩm hiu của đại đa số, của quảng đại quần chúng , nghĩa là của hơn bảy-mươi triệu người tức hơn 87 % tổng số dân tám-mươi triệu người trong nước.



Mười triệu người may mắn hầu hết ở thành thị, một ít ở nông thôn, gồm ở đỉnh cao nhất, giới “tư bản đỏ “ giàu từ vài chục triệu đến nhiều trăm triệu đô la Mỹ. Các nhà tư bản này là các cấp lãnh đạo đảng Cộng sản và Nhà Nước, các cán bộ có quyền thế và đía vị trong suốt hệ thống dọc và ngang của chính quyền và trong các xí nghiệp quốc doanh. Bên cạnh tư bản đỏ là giới tư bản “vòng ngoài” chỉ đường mách nước, cộng tác làm ăn chia phần, cũng giàu có như tư bản đỏ.



Không như các cháu ở nước ngoài phải cố gắng học hành,xin trợ cấp, học bổng, vay mượn và nhiều lúc phải làm việc thêm đặng có đủ tiền “ăn học“ở bậc đại học, không thiếu các con cháu của các nhà tư bản nói trên đang ở bậc trung học phổ thông đã được gửi đi du học ở Âu Mỹ, tiêu xài không giới hạn, vượt hẳn con nhà giàu ngoại quốc, như muốn trả thù cho thời kỳ bố mẹ còn là vô sản thứ thiệt, một thời kỳ mà họ không dám nhắc đến nữa vì sợ bị các đồng chí củ lên án phản bội lý tưởng và bỏ rơi hàng ngủ !



Trong lúc ấy, tại Thái Bình ổ Miền Bắc, Quảng Nam ở Miền Trung, Cà Mâu ở tận cuối Miền Nam và khắp các nơi khác, nhiều chục ngàn em bé đang còn ở bậc tiểu học đã phải bỏ học trong niên khóa 2004-2005 này vì cha mẹ các em không “ chạy “ ra tiền để đóng góp cho trường!



Các cháu đang ở kinh đô ánh sáng Paris, các cháu đang làm việc ở trong một toà nhà chọc trời lộng lẫy ở New York hay Chicago , làm sao các cháu quên đành đi được các em bé đáng thương này và các em bé khác đang ăn xin trước các khách sạn, đang chạy theo xin tiền các du khách hay đang bán thân để nuôi cha mẹ già như đã kể trên. Cũng như các cháu, các em bé bất hạnh này mang cùng với cháu, với tất cả cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, một giòng máu Lạc Hồng, nhưng vận số rủi ro đã để các em ra đời dưới bầu trời xã hội chủ nghĩa của quê hương.



Nhiệm vụ của tất cả chúng ta, cao niên, trung niên và thanh nữ, thanh niên như các cháu là phải góp phần tích cực và đắc lực vào công cuộc tìm kiếm và thực hiện một giải pháp khả dĩ mang lại tự do, dân chủ cho đất nước, mở đường cho một vận hội mới tươi sáng cho toàn thể dân tộc.



Không có một cơ hội nào thuận lợi hơn, không có một vinh dự nào xứng đáng hơn là được cống hiến mọi nỗ lực và khả năng của chúng ta vào sự nghiệp lớn lao này, vào lúc này, khi mà trong nước cũng như ở khắp thế giới những huyền thoại về Hồ Chí Minh, về chiến tranh chống Mỹ, chống tư bản đế quốc, về thiên đàng hứa hẹn của Đảng v.v … đã sụp đổ và tan biến như một luồng gió độc thổi qua và những sự thật của lịch sử đã được phơi bày và kiểm chứng mà không còn ai chối cải được nữa , và đặc biệt hơn nữa, khi mà giờ đây diễn biến hoà bính đang chuyển động mạnh, sẽ dẫn đến mục đích cuối cùng: dân chủ hoá nước Việt Nam.



Ngoài việc lo cho đời sống cá nhân và gia đình, mổi một chúng ta vẫn có thể luôn luôn vươn mình lên để theo đuổi và thực hiện một lý tưởng cho cuộc đời , và còn lý tưởng nào cao đẹp hơn, thiết thân hơn, thiêng liêng hơn là phục vụ cho quê hương, cho giống nòi của mình. Trưởng thành xa tổ quốc, các cháu sẽ gặp được nơi môi trường phục vụ này những cơ hội gần gủi với nguồn gốc, xa tránh được nổi lo âu lạc mất căn tính (perte d’identité, loss of identity) điều mà bất cứ ai lớn lên ở xứ lạ quê người cũng có thể cảm nhận một ngày nào đó khi bơ vơ như lạc lỏng giữa những người có thể là bạn bè gần gủi nhưng màu da, chủng tộc khác nhau chưa kể phong tục tập quán nhiều lúc không giống nhau và chắc chắn không cùng một ngôn ngữ.



Tiếp đến nhưng chưa phải là lý do cuối cùng, từ phương vị một chuyên viên dù tài giỏi chăng nữa nhưng luôn luôn thúc thủ trong địa hạt chuyên môn của mình ở nước ngoài mà người tài không thiếu trong các quốc gia phát triển, các cháu có thể trở thành những thành phần quan trọng trong việc tái thiết và hiện đại hóa xứ sở, trở thành những nhân vật góp phần hoạch định các kế hoạch, các chính sách của Nhà Nước Việt Nam tương lai, và biết đâu, và tại sao không, trở thành những người lãnh đạo của một Nhà Nước mà các cháu và cha,mẹ, anh, chị, em của các cháu sẽ cùng đồng bào trong nước đứng lên xây dựng trong tiến trình dân chủ hóa quê hương, một tiến trình đang được đẩy mạnh và không một thế lực nào ngăn cản được.



Dân số Việt Nam đã bắt đầu vượt quá tám-mươi triệu. Nếu được dân chủ hoá, hiện đại hoá, canh tân hóa, lành mạnh hóa, nếu được lãnh đạo bởi những người yêu nước, thương dân, có khả năng, có đức độ, chắc chắn quê hương của chúng ta sẽ chiếm được một địa vị xứng đáng trong cộng đồng các nước văn minh tiền tiến trong thế giới.



Các cháu phải tham dự, phải dành chổ trong cuộc hành trình về nguồn và hướng tới bến vinh quang này, một cuộc hành trình đòi hỏi nhiều nỗ lực nhưng đầy phấn khởi và chứa chan hy vọng ở tương lai.



Hẵn nhiên, các cháu tiếp tục như thường lệ công việc nghề nghiệp của mình tại quốc gia các cháu đang cư ngụ cho đến ngày các cháu tự quyết định lấy tương lai theo tình hình mới của quê hương. Nhưng giờ đây, sự tham gia hoạt động chỉ đòi hỏi ở các cháu quyết tâm đóng góp tài trí và tâm huyết của các cháu vào công cuộc chung của những người muốn biến đổỉ hiện trạng của nước nhà bằng một đường lối tranh đấu quả cảm, kiên trì, bằng những phương thức dân chủ công khai trước thế giới đang nhìn thẳng vào Việt Nam và sẵn sàng hổ trợ khi cần thiết.



Các cháu không thể giam giữ tuổi trẻ của mình trong cái vỏ ốc nhỏ bé để hưởng thụ và tự mãn với vài tiện nghi vật chất rồi chôn vùi cả cuộc đời như một kẻ vô danh lạc lõng trong cái xã hội mà các cháu đã hội nhập.



Đã đến lúc các cháu phải lựa chọn giữa một cuộc đời tầm thường và phí phạm như vậy và một cuộc đời hào hứng, đầy ỳ nghĩa và hữu ích cho các cháu, cho quê hương của các cháu, một cuộc đời mà các cháu có quyền hãnh diện và có thể mang lại vinh quang xứng đáng cho chính các cháu.



* * *



Làm chính trị, tham gia chính trị hay không, giữa lúc quê hương đang chờ đợi?



Thiết tưởng chúng ta đã trả lời minh bạch.



Câu trả lời của những người Việt ở hải ngoại mà tâm tư luôn luôn hướng về quê hương, đất tổ, với niềm tin bất diệt ở một tương lai sáng lạng của nước Việt Nam tự do, dân chủ, hòa bình, tiến bộ, nối tiếp lại với những truyền thống nhân bản, hòa ái, đạo đức, và quyết tâm mạnh tiến trên con đường canh tân toàn diện sau khi cái vòng ngoặc tai ương của lịch sử được khép lại vĩnh viễn.



Paris, đầu Xuân Ất Dậu, 2005
LS. Lê Trọng Quát




(1) Vài danh từ có nghĩa chuyên môn được dịch kèm theo Pháp ngữ và Anh ngữ thể theo lời yêu cầu của một số độc giả không quen nhiều với các danh từ Hán Việt.




Nhiều năm đã trôi qua nhưng vấn đề chính yếu trình bày vẫn còn nguyên tính cách thời sự và trong hiện tình ở quê hương, sự dấn thân của mọi người yêu nước, yêu chuộng tự do, dân chủ, đặc biệt các bạn trẻ, cần phải được khẩn thiết đặt ra một cách toàn diện hơn bao giờ cả.





Paris, tháng 7, 2013



www.vietthuc.org



Lớp huấn luyện của Phạm Hồng Sơn




Ngô Nhân Dụng
















Các tù nhân trong khu K1 trại giam Xuân Lộc đã đấu tranh bất bạo động phản đối cai tù đối xử vô nhân đạo. Trong trại này đang cầm giữ Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, nhạc sĩ Việt Khang, một số tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và nhiều người khác, họ bị tù chỉ vì yêu nước chống Trung Cộng và tranh đấu đòi sống tự do. Dù ở chỗ tù đầy, anh chị em vẫn bền chí phấn đấu. Tạ Phong Tần, Điếu Cày, các cháu Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha nghe được tin này chắc cũng thấy nức lòng.











Ở bên ngoài nhà tù, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn mới gửi đi khắp nơi một “tài liệu huấn luyện;” ông gọi là “27 ghi chú dành cho những Tù nhân Lương tâm dự khuyết.” Gọi là “Dự khuyết,” vì họ đang sẵn sàng bước vào tù; khi lương tâm không cho phép họ im lặng!







Rất nhiều người Việt Nam, nhất là các bạn trẻ, sẽ còn lên tiếng phản đối Trung Cộng xâm lấn, đè nén, khinh thường dân tộc Việt. Nhiều người Việt Nam sẽ còn nổi giận, không thể lặng im trước cảnh đồng bào bị cướp ruộng đất để các tham quan thu lợi. Họ có thể sẽ bị bắt khi lên tiếng. Họ cẩn được chuẩn bị trước khi nếm mùi tù ngục cộng sản.







Đọc những điều “ghi chú” của Phạm Hồng Sơn càng thấy ấm lòng. Mỗi lời căn dặn trong 27 điều “ghi chú” chứa đựng cả tấm lòng thiết tha trìu mến của tác giả đối với những bạn trẻ yêu nước nhưng còn thiếu kinh nghiệm. Anh muốn giúp các tù nhân tương lai tự chuẩn bị. Họ cần chuẩn bị cách cư xử, thái độ cần thiết, cách sống hàng ngày trong nhà tù, nếu mai mốt họ bị bắt, như tác giả đã trải qua. Những lời dặn dò cho thấy tình thương yêu của Phạm Hồng Sơn dành cho những người yêu nước.







Đọc “27 điều ghi chú” của Phạm Hồng Sơn, chúng ta càng tin tưởng. Những người yêu nước, yêu tự do, dù không trong một tổ chức nào chung, cũng phải nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Cho nên, cần nhắc nhở cho nhau những gì cần chuẩn bị khi bước vào nhà tù của các chế độ độc tài; dù họ đang sống ở Campuchia, Syria, Bắc Hàn hay Việt Nam. Trong những tháng năm sắp tới, sẽ còn hàng trăm, hàng ngàn người theo gót Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, Phương Uyên, Nguyên Kha, vân vân. Họ cần được chuẩn bị sẵn sàng, mang sẵn một hành trang để có thể bền bỉ đấu tranh.







Đọc 27 điều ghi chú thấy Phạm Hồng Sơn rất thực tế. Thí dụ, Điều số Sáu anh căn dặn các bạn tù là: “Đừng bao giờ tin lời nói, lời hứa, kể cả cam kết (bằng chữ), của điều tra viên (nhà chức trách). Đừng bao giờ trở thành nguồn tin [cung cấp thông tin] cho họ (dù họ đã biết hay chưa). Cũng đừng bao giờ sững người khi họ nói đồng đội của bạn đã phản bội bạn.” [Các chữ in nghiêng do chúng tôi viết thêm].







Điều số Bẩy: “Ba điểm cần nhớ nằm lòng khi làm việc (đi cung, đi thẩm vấn, “đi làm” hay gặp gỡ bất kỳ nhân vật nào thuộc chính quyền): 1. Nói nhiều không có lợi. 2. Nổi nóng, khiếm nhã không có lợi. 3. Nhượng bộ hay coi thường đối thủ đều là nguy hiểm.” Điều 17 rất cụ thể, “Cảnh giác với ba loại thời tiết dễ làm bạn không còn là bạn: nóng quá, lạnh quá và đặc biệt tiết trời u ám, ẩm thấp (như tiết tháng Ba miền Bắc).”







Điều số 20 cũng cụ thể, cho thấy Phạm Hồng Sơn đầy đủ kinh nghiệm và rất lo lắng tới sức khỏe của các người bạn cùng chí hướng: “Ba cách đơn giản giúp tăng cường sinh lực và sức dẻo dai cho cơ thể: 1. Chạy (hoặc đi bộ) ngay tại chỗ hoặc trong khoảng cách 2m. 2. Chống đẩy (hít đất), đứng lên ngồi xuống nhiều lần. 3. Làm dẻo các khớp từ cổ đến chân, xoa bóp cơ thể.” Nếu có thể, xin Bác sĩ Phạm Hồng Sơn chú ý tới mấy phương pháp tập luyện thân thể đồng thời rèn tâm chí, như các phép tập theo Hồng Gia Việt Nam. Các phép tập dưỡng sinh này không đòi hỏi chỗ rộng rãi, trong nhà tù vẫn tập được; có thể làm hàng trăm lần không mỏi, giúp điều hòa các khớp xương, tim, phổi và toàn thể nội tạng được khỏe mạnh. Thí dụ: Đứng một chỗ xoay mình qua lại, bằng cách dùng bộ eo xoay chuyển, còn thân thể và tay chân buông lỏng lẻo (Xoay Âm Dương). Hoặc: Đứng tấn lưng thẳng, vận động các xương sườn, xương lồng ngực, kéo theo vai và các bắp thịt bụng, hay cánh tay buông lỏng vận chuyển theo (Sư Tử Hí Cầu). Các tù nhân vì lương tâm cũng nên bắt chước các cựu tù nhân như Doãn Quốc Sĩ, Nguyễn Viết Khánh, dùng phương pháp tọa thiền hoặc khí công để bảo vệ thân, tâm bình an, không sợ, không giận, không lo âu.







Rải rác trong 27 điều ghi chú có nhiều câu đáng học thuộc lòng: Đừng quá thành kiến với công an. Nhưng phải cảnh giác khi họ tử tế. Người ác nhất vẫn có lúc tử tế nhưng hãy nhớ công an là công cụ của chế độ độc tài toàn trị – chế độ không bao giờ muốn tính thiện con người trỗi dậy có lợi cho bạn (Điều số 9). Chính kẻ thẩm vấn cũng có nỗi hoang mang của riêng họ. Họ sợ không khuất phục được bạn. Họ hồi hộp sẽ không moi tin thêm được từ bạn (số 10). Khi nỗi nhớ thương gia đình (con cái, cha mẹ, vợ chồng) trào dâng, nên nghĩ đến ba điều … (13).







Nhìn lại tất cả 27 “điều ghi chú” của Phạm Hồng Sơn, thấy giống như mới dự một bài giảng trong một khóa huấn luyện dành cho những ai “sắp vào tù.” Có thể đặt tên lớp huấn luyện này là “Khóa Phạm Hồng Sơn.” Khi ghi lại 27 điều này, Phạm Hồng Sơn cho thấy anh đang nhìn tương lai và tin tưởng. Cuộc tranh đấu của dân ta sẽ ngày càng lan rộng và mạnh mẽ hơn. Sẽ còn rất nhiều người, nhiều bạn trẻ sẵn sàng bước vào tù. Vì họ yêu nước; vì họ muốn dân Việt được sống trong tự do dân chủ.







Sau “Khóa giảng” chuẩn bị vào tù này, chắc Phạm Hồng Sơn sẽ còn tiếp tục các “khóa giảng” khác, cùng các nhà tranh đấu khác, cùng đóng góp vào cuộc vận động dân chủ của dân Việt. Những người tranh đấu cần chuẩn bị tinh thần; nhưng cũng cần chuẩn bị cả một hành trang lý luận khi phải đối phó với các cuộc hỏi cung, nhất là giới trẻ chưa đủ kinh nghiệm. Chuẩn bị thân, tâm để sống trong tù, nhưng cũng phải chuẩn bị lý trí, kiến thức, để sẵn sàng giải thích tại sao mình tranh đấu, sẵn sàng bước vào tù. Hơn nữa, cần nối kết các cuộc tranh đấu đòi tự do và chống xâm lược với cuộc vận động của các người lao động lương không đủ sống, các nông dân đang bị cướp đất ruộng, và các ngư dân đang bị tàu thuyền Trung Cộng tấn công. Đồng bào tranh đấu vì các nhu cầu thiết thực; nhưng họ cũng cần hiểu tại sao dân tộc Việt phải được sống tự do dân chủ. Vì chỉ trong cuộc sống tự do dân chủ thì mới có cơ hội giảm bớt những nỗi khổ của đồng bào.







Tại sao người nông dân bị cướp đất? Tại sao họ không được đền bù xứng đáng? Tất cả chỉ vì bọn tham quan ăn cướp, ăn chặn. Tại sao nhiều tham quan ô lại như vậy? Tại sao chúng hoành hành mãi như vậy? Vì có một nhóm người độc tài lạc hậu, dốt nát ngồi trên đầu trên cổ người dân suốt bao nhiêu năm nay. Tại sao các ngư dân vẫn tiếp tục bị “tàu lạ” đuổi bắn, bị cướp bóc ngay trong biển nước mình? Vì có một chế độ nhu nhược không cương quyết phản đối công khai, cũng không dám thưa kiện ra trước các tòa án và dư luận quốc tế! Tại sao họ lại hèn yếu, nhu nhược như vậy? Vì họ bị ràng buộc bởi một thứ chủ nghĩa lỗi thời, vì thế mà kết tình “đồng chí anh em” với bọn xâm lăng. Cuối cùng, chỉ vì một chế độ độc tài nên các nông dân đã bị cướp đất, các ngư dân cứ tiếp tục bị cướp nguồn sống ngoài biển. Muốn thoát các nỗi khổ đó, phải chấm dứt chế độ độc tài, cho dân tộc Việt được sống tự do dân chủ.







Đầu tiên, phải thi hành đầy đủ những quyền tự do, như tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp, được chính thức ghi ngay bản hiến pháp hiện nay. Người dân phải được quyền làm chủ đất, ruộng, nhà ở, chứ không để cho một đảng Cộng sản tiếp tục vai trò một địa chủ vĩ đại, còn nhân dân thành bọn mướn đất, làm thuê, cấy rẽ. Phải xóa bỏ chế độ hộ khẩu đang tước bỏ các quyền công dân của những nông dân lên thành phố tìm việc làm.







Muốn đạt được những đòi hỏi trên, tự nhiên phải xóa bỏ điều số 4 trong hiến pháp dành độc quyền thống trị cho riêng các đảng viên Cộng sản. Phải thi hành quyền tự do hội họp để mọi người được tự do lập công đoàn độc lập, các hiệp hội nông dân, các giáo hội, hội từ thiện, cho tới các đảng chính trị. Phải sửa đổi luật bầu cử để mọi người dân trưởng thành được tự do ứng cử, bỏ phiếu kín; những người nắm quyền hành pháp, lập pháp đều phải do dân tự do bầu lên. Quyền tư pháp phải độc lập, không bị một phe đảng nào thao túng.







Cần phải cung cấp những lý luận trên đây trong các “Khóa huấn luyện Phạm Hồng Sơn.” Phải chuẩn bị một hành trang đầy đủ cho các bạn trẻ đang dấn thân trên con đường mà bao người đi trước đã mở ra. Những Tạ Phong Tần, Điếu Cày, các cháu Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Trần Huỳnh Duy Thức, Việt Khang, vân vân, đang sống trong tù, cũng chỉ theo cùng một chí hướng như ông cha chúng ta trước đây, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, vân vân.







Chúng ta đang chứng kiến cuộc thức tỉnh của một thế hệ mới. Ngày nay, những người tranh đấu không cần phải xuất ngoại, cũng không cần phải “lập hội kín.” Họ lại có thể sử dụng một trang bị tối tân là mạng lưới internet. Cho nên chúng ta có thể những “mở khóa huấn luyện” công khai hoàn toàn mở cửa, cho tất cả các bạn trẻ tham dự. Phạm Hồng Sơn đã khai giảng lớp huấn luyện đầu tiên. Mọi người phải giúp anh tiếp tục.







http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=168754&zoneid=7#.UdRZd6yJu4k







No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin cuối ngày-28/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link