Việt Nam khó được vào Tổ chức Hợp tác Xuyên Thái Bình
Dương vì vi phạm quyền lao động quốc tế căn bản
Nguyễn Quốc Khải (Danlambao) <http://danlambaovn.blogspot.com/> - Việc thương thuyết về Hiệp Ước Hợp Tác
Xuyên thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership - TPP) giữa 12 quốc gia trong
đó có Việt Nam, có nhiều triển vọng sẽ kết thúc trong năm 2014. Hoa Kỳ là quốc
gia có nền kinh tế mạnh nhất đang lãnh đạo việc thương thuyết này. Khi nhiều nước
họp lại để trao đổi thương mại với nhau, luôn luôn có một số vấn đề phải cùng
nhau giải quyết. Những vấn đề chính của TPP bao gồm quyền lao động, đầu tư, thu
mua hàng hóa và dịch vụ của chánh phủ, dược phẩm và nông phẩm. Quyền lao động đứng
hàng đầu, một vấn đề giản dị đối với những nước văn minh, nhưng xem ra gai góc
đối với Việt Nam. Giữa một nước giàu và tiên tiến nhất là Hoa Kỳ và một nước
nghèo và chậm tiến nhất là Việt Nam, đương nhiên có sự xung khắc mạnh mẽ về vấn
đề lao động.
Trong phần (I) của bài phân tách này chúng ta sẽ bàn về
quyền lao động ở Việt Nam. Ở phần (II), chúng ta sẽ nói về quyền lao động và việc
gia nhập TPP của Việt Nam.
I. QUYỀN LAO ĐỘNG
Điều 69 của Hiến pháp Việt Nam 1992 quy định rằng “Công
dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền
hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luận.”
Điều 25 của Hiến Pháp Việt Nam 2013 cũng quy định tương tự:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp,
lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.”
Trên thực tế, công dân Việt Nam không có những quyền như
vậy kể cả quyền hội họp và lập hội.
Quyền tập họp
Tại Việt Nam, công dân không có quyền tự do hội họp. Điều
5.2 của Nghị Định 38/2005/NĐ-CP về biện pháp bảo đảm trật tự công cộng ký ngày
18-3-2005 ngăn cấm“tập trung đông người trái với quy định của pháp luật ở lòng
đường, vỉa hè, trước trụ sở cơ quan, tổ chức, tại khu vực đang diễn ra các hội
nghị quốc tế, kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoặc các hoạt động chính trị
quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
chính trị - xã hội hoặc nơi công cộng khác.”
Điều 7 của Nghị Định này quy định rằng “Việc tập trung
đông người ở nơi công cộng phải đăng ký trước với Ủy ban nhân dân có thẩm quyền
nơi diễn ra các hoạt động đó và phải thực hiện đúng nội dung đã đăng ký. Quy định
này không áp dụng đối với các hoạt động do các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tổ chức.”
Bộ Công An sau đó quy định thêm rằng tất cả mọi tập hợp từ
năm người trở lên, phải có giấy phép của chánh quyền địa phương. (1)
Quyền lập hội
Việt Nam có những tổ chức do chánh phủ bảo trợ (government-sanctioned
organization viết tắt là GSO) nhưng không có một tổ chức phi chánh phủ nào cả
(non-government organization viết tắt là NGO). Tất cả những GSOs tại Việt Nam kể
cả những tổ chức tôn giáo - ngoại trừ một số ít độc lập thường xuyên bị chánh
quyền gây khó khăn (2) phải trực thuộc
hoặc liên kết với với chính quyền.
Thực tế là Việt Nam chưa phê chuẩn Công Ước 1948 của Liên
Hiệp Quốc về Quyền Tự Do Lập Hội và Bảo Vệ Quyền Tổ Chức (U.N. Convention of
1948 concerning Freedom of Association and Protection of the Right to Organize)
bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 4-7-1950, nghĩa là đã hơn nửa thế kỷ.
Quyền tổ chức và thương lượng tập thể
Một cuộc đình công của công nhân tại VNHình (Báo Lao Động)
Công nhân Việt Nam không có quyền tổ chức và thương lượng
tập thể. Tất cả mọi cuộc đình công đều tự phát, không có người lãnh đạo, và đều
bị chánh quyền và chủ nhân coi là bất hợp pháp. Những cuộc đình công này không
được hỗ trợ bởi bất cứ nhóm nào hay bởi chánh phủ. Do đó, sức mạnh thương lượng
tập thể rất yếu.
Theo luật lao động hiện hành, công nhân phải đưa những cuộc
tranh chấp ra tòa. Họ chỉ có thể đình công nếu những tranh chấp không thể giải
quyết được bằng thương lượng. Công nhân bắt buộc phải bồi thường chủ nhân nếu
tòa án xét thấy rằng cuộc đình công của công nhân là bất hợp pháp. (3)
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (TLĐLĐVN) là một tổ chức
công đoàn duy nhất ở Việt Nam. Tất cả những công đoàn địa phương đều phải gia
nhập TLĐLĐVN, một phong trào quần chúng thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, một tổ chức ngoại
vi của Đảng CSVN. Tất cả những người lãnh đạo công đoàn ở cấp quốc gia hay địa
phương, đều là đảng viên Cộng Sản.
TS Đỗ Quỳnh Chi, một chuyên gia về lao động, sáng lập
viên và giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Lao Động, đã viết trong tài liệu nghiên cứu
xuất bản vào 2008 rằng không phải là một điều bất thường khi những quản trị
viên của công ty trở thành người lãnh đạo công đoàn và những chủ công ty tìm
cách ảnh hưởng đến cuộc bầu cử công đoàn. Do đó, những người lãnh đạo công đoàn
thường được lãnh lương nhiều hơn những công nhân khác.
TS Đỗ Quỳnh Chi nhận xét thêm rằng đảng CSVN tìm mọi cách
để tuyển mộ đảng viên trong khu vực tư - một khu vực xảy ra nhiều vụ đình công
nhất. Mục tiêu là để thu nhận đa số các công nhân trong khu vực này vào đảng
vào năm 2020 và thiết lập các tổ đảng viên trong tất cả các công ty. Điều này
cho chúng ta thấy rằng đảng CSVN hi vọng kế hoạch này sẽ giúp CSVN không những
đã nắm được hết các chi nhánh công đoàn ở các công ty, mà còn len lỏi vào hàng
ngũ công nhân hầu chi phối họ và giới hạn những cuộc đình công bất hợp pháp. Nếu
tình trạng hiện tại không thay đổi, TS Chi cho rằng công đoàn không thể là một
công đoàn thực sự. Nó sẽ tiếp tục là một tổ chức của nhà nước và tiếp tục có những
cuộc đình công bất hợp pháp.
TS Võ Trí Hào tại Đại Học Kinh Tế thành phố HCM nói trắng
ra rằng: “Ai cho tiền hoạt động thì bảo vệ người ấy; Công đoàn thời kỳ Đổi mới
chưa bao giờ đứng ra tổ chức đình công để đấu tranh quyết liệt quyền lợi cho
công nhân.” (4)
Ông Tống Văn Công, trong một bài bình luận đăng trên báo
Lao Động, phân tách một số trường hợp đình công đã nhận xét rằng chủ tịch công
đoàn cơ sở ăn lương của chủ nên không dám tập hợp ý kiến của công nhân, không
dám gửi kiến nghị và đối thoại với chủ nhân, và không dám tổ chức đình công.
Sau khi các cuộc đình công xảy ra, cấp trên của công đoàn và đại diện chính quyền
phải đến công ty tiến hành thủ tục làm thỏa ước lao động tập thể. Ông Công kết
luận rằng công đoàn cơ sở hiện nay không đóng một vai trò nào cả. Theo ông Cống,
cần phải để công nhân tự chọn lựa người có tâm huyết dược công nhân tín nhiệm
vào công đoàn cơ sở. (5)
Thật là oái ăm khi giới công nhân lại bị kiềm chế trong một
quốc gia do đảng CSVN lãnh đạo, nhưng chính đảng này tự nhận là “đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của
dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.” (6)
Với tất cả những giới hạn và chế tài như trên, giới công
nhân mất hết tất cả những võ khí để tranh đấu bảo vệ quyền lợi của mình.
TLĐLĐVN không đại diện công nhân mà chỉ là một công cụ của đảng CSVN dùng để kiểm
soát giới công nhân.
Cấm cưỡng bức lao động
Một số phúc trình tiết lộ rằng có vấn đề cưỡng bức lao động
tại Việt Nam. Tù nhân thường xuyên bị cưỡng ép làm việc không được trả lương hoặc
được trả rất ít. Tù nhân sản xuất thực phẩm và những sản phẩm khác để tiêu thụ
trong nhà tù hay bán ở địa phương. Hạt điều là một trường hợp nổi tiếng. Human
Rights Watch tường thuật rằng cưỡng bức lao động được sử dụng tại các trung tâm
phục hồi ma túy trên toàn quốc Việt Nam. Các tù nhân tại những trung tâm này phải
bóc vỏ hạt điều trong sáu đến bẩy giờ mỗi ngày mà chỉ được lãnh $3 mỗi tháng.
Cũng theo bản phúc trình này, trong thời gian 2000-2010, có trên 309,000 tù
nhân đã đi qua 59 trung tâm giam giữ tại Việt Nam. (7)
Ngoài ra, các tù nhân tại các trại tù khác, kể cả các tù
nhân lương tâm, gần đây đã tố cáo rằng họ bị cưỡng bức tham gia vào việc chế biến
hạt điều. (8) Việc xuất cảng hạt điều mang lại cho Việt Nam 1.5 tỉ Mỹ Kim mỗi
năm.
Điều kiện làm việc và lương bổng
Cũng như Hiến Pháp 1992 và 2013 của Nước Cộng Hòa Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam bảo đảm mọi quyền căn bản của công dân, luật lao động Việt
Nam bảo đảm trên giấy tờ đầy đủ quyền lợi của công nhân như tại bất cứ một quốc
gia phát triển trên thế giới. Trên thực tế, phần đông những công nhân Việt Nam
phải chịu đựng lương thấp, làm nhiều giờ một ngày, không được trả lương phụ trội,
điều kiện làm việc hại sức khỏe, không có bảo hiểm, và không có hưu bổng. Đây
là những lý do tại ra sự bất ổn về công nhân tại Việt Nam.
Làn sóng đình công dầu tiên xảy ra vào năm 2005 ở Việt
Nam ở một mức độ ôn hòa. Con số đình công tăng dần vào những năm kế tiếp với
400 vụ vào năm 2006, 600 vụ vào năm 2007, và 762 lần vào năm 2008. Các vụ đình
công nhiều hơn và cường độ mạnh hơn do mức lạm pháp gia tăng. Chánh phủ Việt
Nam điều chỉnh lương tối thiểu hàng năm. Tuy nhiên mức lương tối thiểu tăng
không kịp mức lạm phát. Năm 2011 chứng kiến 978 vụ đình công. Đến năm 2013 chỉ
còn 400 vụ, phần lớn vì lương tăng và kinh tế trì trệ. Khu vực dệt may và đặc
biệt các công ty đầu tư ngoại quốc là những nơi trải qua nhiều vụ đình công hơn
những nơi khác.
Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam chưa hề khởi xướng, tổ
chức, hay yểm trợ một cuộc đình công nhân. Do đó, theo luật, tất cả những cuộc
đình công tại Việt Nam là bất hợp pháp. Và cũng theo luật, công nhân tham gia
những cuộc đình công bất hợp pháp phải bồi thường chủ nhân như trên đây đã nói.
Tuy nhiên cho tới nay, chính quyền Việt Nam chưa giám thi hành các luật này.
Một công nhân tại một xưởng máy trung bình phải làm 10 giờ
mỗi ngày và sáu ngày mỗi tuần. Tuy nhiên họ chỉ được trả khoảng 28 xu một giờ
hay 70 Mỹ kim mỗi tháng. Con số này tương tương với mức lương tối thiểu hiện
nay trong khoảng 1.65 triệu - 2.35 triệu đồng Việt Nam, tức là vào khoảng 4%
lương tối thiểu của Hoa Kỳ. Với thu nhập này công nhân gặp nhiều khó khăn để
nuôi dưỡng gia đình.
II. LAO ĐỘNG và HỢP TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
Lao động là một vấn đề gai góc trong các hiệp định thương
mại quốc tế, đặc biệt là đối với tổ chức Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương
(Trans-Pacific Partnership - TPP) giữa 12 nước trong đó có Việt Nam, đang được
thành lập. Lý do là lao động là một trong những yếu tố ấn định giá sản xuất, khả
năng tiếp thị, và việc làm.
Tiếng nói từ Hành Pháp và Lập Pháp Hoa Kỳ
Vào tháng 4 năm vừa qua, Đại Sứ Demetrios Marantis, Đại
diện Văn Phòng Thương Mại Hoa Kỳ, trực thuộc Phủ Tổng Thống Mỹ, đã đến Việt Nam
để thương thuyết về TPP, đặc biệt về vấn đề lao động. Ông đã nhấn mạnh với ông
Đặng Ngọc Tùng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam về tầm mức quan trọng
đối với Hoa Kỳ của những điều khoản lao động trong TPP, bao gồm năm tiêu chuẩn
cốt lõi của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế thuộc Liên Hiệp Quốc về quyền lao động.
(9)
Năm tiêu chuẩn lao động cốt lỗi được rút tỉa từ tám Công
Ước Lao Động Quốc Tế bao gồm:
- Quyền lập hội.
- Quyền thương lượng tập thể.
- Loại bỏ mọi hình thức cưỡng bách lao động.
- Loại bỏ lao động trẻ em.
- Loại bỏ kỳ thị việc làm và nghề nghiệp.
Việt Nam hiện nay chưa thỏa mãn được những tiêu chuẩn
trên. Ba tiêu chuẩn sau cùng có thể được cải thiện với thời gian. Nhưng đối với
tiêu chuẩn (1) và (2), Việt Nam gặp khó khăn vì CSVN muốn độc quyền cai trị đất
nước, không muốn có bất cứ một tổ chức nào đứng độc lập với họ. Tuy nhiên, nếu
làm như vậy, CSVN đặt quyền lợi của Đảng lên trên quyền lợi của đất nước.
Chính phủ Hoa Kỳ chịu rất nhiều áp lực của những nhà lập
pháp Hoa Kỳ. Quyền lao động là một phần của Quyền của con người nói chung.
Trong một chuyến đi Việt Nam vào cuối năm 2013, Ngoại Trưởng John Kerry tuyên bố
tại Hà Nội rằng “Việt Nam cần chứng tỏ tiếp tục tiến bộ về nhân quyền và tự do,
bao gồm tự do tôn giáo, tự do phát biểu và tự do hội họp.”
Ông Kerry nói tiếp “không có những cải tổ như vậy, Quốc Hội
Hoa Kỳ sẽ rất có thể chống lại giao ước với Việt Nam, bao gồm cả việc gia nhập
của Việt Nam vào chương trình Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương và việc thi hành hiệp
định năng lượng hạt nhân dân sự.” (10)
DB George Miller, một thành viên cao cấp của Ủy Ban Giáo
Dục và Nhân Lực (Committee on Education and the Workforce) của Hạ Viện Hoa Kỳ
đã gửi thư vào tháng 7, 2013 cho Đại Sứ Michael Froman, Văn Phòng Đại Diện
Thương Mại Hoa Kỳ, nhân dịp Chủ Tịch Nhà Nước Trương Tấn Sang viếng thăm Hoa Kỳ.
Trong lá thư này Ông Miller tố cáo rằng Việt Nam không tôn trọng quyền tự do lập
hội, quyền thương lượng tập thể, cưỡng bách lao động và sử dụng lao động trẻ
em. Ông cũng yêu cầu Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳước định xem Việt Nam
có thể thi hành bổn phận về lao động hay không nếu hiệp định TPP được ký kết. Nếu
quá khó khăn để định lượng một vấn đề còn đang trong vòng thương thuyết,Văn
Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ làm một cuộc khảo sát tương tự về việc Việt
Nam thi hành những luật lệ về lao động trong khuôn khổ Hiệp Định Thương Mại
Song phương Mỹ Việt ký ngày 10-5-2007. (11)
Tiếng nói từ những tổ chức lao động Hoa Kỳ
Hành pháp Hoa Kỳ còn chịu nhiều áp lực của các tổ chức
lao động Hoa Kỳ. Tổng Liên đoàn Lao Động Hoa Kỳ (American Federation of Labor
and Congress of Industrial Organizations viết tắt là AFL-CIO), một trong những
tổ chức lao động lớn nhất ở Hoa Kỳ, bao gồm 56 công đoàn với 12.5 triệu đoàn
viên, tố cáo rằng chương Lao Động của thỏa ước TPP đã không đề cập tới những
tiêu chuẩn lao động cốt lõi của Tổ Chức Lao Động Quốc Tế và cũng không hề nói
những điều lệ lao động có thể buộc thi hành được hay không. AFL-CIO tuyên bố tiếp
rằng AFL-CIO đã tranh đấu cam go để thiết lập được một chương mạnh mẽ về lao động
trong thỏa ước TPP hầu bảo đảm rằng công nhân của bất cứ một quốc gia nào trong
TPP, kể cả Việt Nam, có thể sử dụng những quyền căn bản như quyền lập hội và
quyền thương thuyết tập thể. (12)
Vào tháng 7 năm vừa qua, trước khi Chủ Tịch Nhà Nước Việt
Nam viếng thăm Hoa Kỳ, ÔngJames P. Hoffa, Tổng Chủ Tịch của International
Brotherhood of Teamsters, một tổ chức công đoàn tại Hoa Kỳ với 1.4 triệu đoàn
viên, nói rằng điều kiện làm việc đã tồi tệ và lạm dụng tại Việt Nam cần phải
được đề cập đến trước khi cộng đồng thế giới thưởng công cho Việt Nam.
Bản thông cáo báo chí của The International Brotherhood
of Teamsters phổ biến ngày 24-7-2013 nói rằng một liên minh những nhà hoạt động
lao động và nhân quyền đã kêu gọi ngưng mọi thương thuyết với Việt Nam về TPP
cho đến khi Việt Nam có thể chứng tỏ rằng quốc gia này thỏa mãn được những tiêu
chuẩn căn bản về lao động, môi trường, và nhân quyền. (13)
Communications Workers of America (CWA) tuyên bố rằng thu
nhận Việt Nam vào TPP là thưởng công cho một chế độ vi phạm nhân quyền và quyền
lao động một cách có hệ thống. CWA tố cáo rằng Việt Nam can dự vào việc buôn
lao động trẻ em, điều kiện làm việc không an toàn, trà đạp quyền lao động được
quốc tế công nhận, kỳ thị nữ công nhân mang thai, công nhân không được hưởng ít
nhất bốn ngày nghỉ trong tháng, phải làm nhiều giờ phụ trội mặc dù không muốn.
Như để thách thức Hoa Kỳ, khoảng 10 ngày trước khi Tổng Thống Obama tiếp Chủ Tịch
Nhà Nước Trương Tấn Sang tại Nhà Trắng vào ngày 15-7-2013, Việt Nam ban hành một
nghị định mới hạn chế tối đa việc sử dụng Internet và quy định hình phạt nặng nề
những ai trao đổi tin tức trên mạng. (14)
Ủy Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ Công Nhân Việt Nam (U.S. Committee
to Protect Vietnamese Workers - CPVW-USA) cũng đã đề nghị Chánh Phủ Hoa Kỳ
không chấp thuận cho Việt Nam hưởng quy chế Ưu Đãi Phổ Quát (Generalized System
of Preference - GSP) cho đến khi Việt Nam cho phép công nhân được tự do thành lập
nghiệp đoàn độc lập và được quyền thương lượng tập thể. (15) Mặc dù Việt Nam được
nhiều công ty lớn của Mỹ có vốn đầu tư ở Việt Nam ủng hộ bao gồm IBM, Ford,
etc. nhưng rõ ràng Việt Nam không thỏa mãn điều kiện lao động, do đó chánh phủ
Hoa Kỳ cho tới nay vẫn chưa chấp thuận cho Việt Nam hưởng quy chế này.
III. KẾT LUẬN
Với sự vắng mặt của Trung Quốc trong TPP, nếu trở thành một
hội viên của TPP, Việt Nam sẽ là một nguồn cung cấp lao động rẻ tiền nhất trong
12 nước. Giá lao động ở Trung Quốc đã thấp, nhưng lương lao động ở Việt Nam còn
thấp hơn, chỉ bằng khoảng 1/2 của Trung Quốc. Nếu vào được TPP, Việt Nam sẽ thu
hút được thêm nhiều vốn đầu tư ngoại quốc để phát triển. TPP sẽ vô cùng lợi ích
đối với Việt Nam. Với những cải tổ chính trị tương tự tiếp theo cải tổ về lao động
và nhân quyền, Việt Nam sẽ phát triển nhanh chóng trong mười năm tới và sẽ thu
ngắn khoảng cách thua kém những nước Á châu khác và tăng cường một cách đáng kể
khả năng bảo vệ lãnh thổ. Sức mạnh kinh tế mang lại sức mạnh về quân sự. Nhưng
nếu Việt Nam không thay đổi luật lao động cho phù hợp với luật lao động quốc tế
thì Việt Nam khó vào được TPP. Một cơ hội tốt đẹp lại sẽ bi bỏ lỡ. Việt Nam sẽ
tiếp tục thụt hậu. (16) Nếu trường hợp này xảy ra, thật là bất hạnh cho 90 dân
Việt Nam.
February 3, 2014
Nguyễn Quốc Khải <http://danlambaovn.blogspot.com/>
danlamb <http://danlambaovn.blogspot.com/>
ao
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment