Thursday, June 14, 2012

Ai làm chủ được Cam-Ranh, người ấy sẽ làm chủ được Biển Đông"

"Ai làm chủ được Cam-Ranh,
người ấy sẽ làm chủ được Biển Đông"

 

 

Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, vịnh Cam Ranh luôn giữ vai trò là một quân cảng quan trọng bậc nhất. Hội tụ đầy đủ những ưu thế mang tầm chiến lược về địa lý, hàng hải cũng như vị thế lịch sử quan trọng, Cam Ranh ngày nay luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt không chỉ của giới quân sự mà còn của cả các nhà đầu tư quốc tế.

 

Vịnh Cam Ranh nằm trên tọa độ 11 độ kinh Đông, 12,10 độ vĩ Bắc, thuộc tỉnh Khánh Hòa, có vị trí địa - chính trị chiến lược quan trọng trên các tuyến hàng hải quốc tế Singapore, Hồng Công, Thượng Hải, Yokohama. Được hình thành từ hai nhánh núi bao bọc, vịnh Cam Ranh có chiều rộng trung bình 8-10km, chiều dài ăn sâu vào đất liền từ 12-13km, độ sâu từ 18-32m, có diện tích hơn 60 km2 và cách đường hàng hải quốc tế khoảng 1 giờ tàu biển.

 

Điều kiện thủy văn, địa chất rất thuận lợi, thủy triều trong vịnh khá đều đặn, tương đối đúng giờ. Đáy vịnh bằng phẳng, chủ yếu là cát pha bùn khá chắc. Ngoài cửa vịnh có các đảo và cù lao chắn gió nên vịnh lặng sóng, thuận tiện cho tàu neo đậu, tàu có trọng tải 100.000 tấn ra vào dễ dàng.

Nhiều nhà chiến lược phương Tây đã đánh giá Cam Ranh là một "pháo đài tự nhiên lý tưởng", "một đồn phòng vệ của Thái Bình Dương". Cửa vào cảng vịnh Cam Ranh hẹp bé, khó tiến công, dễ phòng thủ địa thế hiểm yếu, khống chế được toàn khu vực biển Đông và là khu phòng thủ trọng yếu chiến lược trấn giữ giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Tạp chí Hải quân Mỹ "Proceedings" số tháng 10/1991 có viết: "Đối với hải quân Mỹ, Nga hay Trung Cộng, ai làm chủ được Cam Ranh, sẽ làm chủ được "trò chơi mèo vờn chuột" ở vùng biển Đông Nam Á và biển Đông".

 

Từ xa xưa, các nhà quân sự đã nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của vịnh Cam Ranh. Tại đây hội tụ đầy đủ các yếu tố thuận lợi để xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự lớn trong khu vực.
Trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật năm 1905, sau khi hạm đội Viễn Đông bị Nhật Bản đánh tan, các tàu của hạm đội Bantích của Nga hoàng Nicolas đệ II do Đô đốc Zinovy Rozhestvensky chỉ huy vượt qua hành trình trên 16.628 hải lý đến Viễn Đông đã ghé vào vịnh Cam Ranh ngày 12-4-1905 để sửa chữa, tiếp nhiên liệu, lương thực, nước ngọt và than suốt một tháng trước khi tham gia trận đánh tại eo biển Tsushima nằm giữa Triều Tiên và Nhật Bản.

 

Sau chiến tranh Nga - Nhật, lo sợ trước âm mưu tranh giành thuộc địa của Nhật Bản ở Viễn Đông và Thái Bình Dương, năm 1911, Chính phủ Pháp đã cử Đại úy hải quân Fillommeus chỉ huy xây dựng một quân cảng ở Cam Ranh. Vào giữa năm 1939, Pháp xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ hải quân lớn trong kế hoạch "Phòng thủ chung" ở Đông Dương và xây dựng nhiều công trình quân sự khác trên bán đảo Cam Ranh hòng đối phó với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng ngày 15/9/1940, Nhật gửi tối hậu thư đòi kiểm soát các căn cứ hải quân, trong đó có cảng và vịnh Cam Ranh. Năm 1942, Nhật chiếm cảng Cam Ranh, đồng thời xây dựng thêm sân bay làm bàn đạp chính để đánh chiếm Malaysia và các thuộc địa của Anh, Mỹ ở Thái Bình Dương.

Tượng đài Cam Ranh.
Trong chiến tranh Việt Nam, Cam Ranh là một trong những căn cứ quân sự quan trọng nhất của quân đội Mỹ và Chính quyền VNCH. Năm 1965, Mỹ quyết định xây dựng Cam Ranh thành căn cứ quân sự liên hợp hải-lục-không quân và khu hậu cần lớn nhất Đông Nam Á để làm căn cứ tiếp liệu, khí tài quân sự và binh sĩ cho chiến tranh Việt Nam, đồng thời khống chế hành lang phía tây Thái Bình Dương. Tại đây, Mỹ đã xây dựng căn cứ không quân gồm 1 sân bay có 2 đường băng với chiều dài hơn 3.000m (10.000 feet) dùng cho các loại máy bay hiện đại kể cả B-52, 1 sân bay dùng cho trực thăng và hệ thống đường sá với tổng chiều dài 260km...

 

Tháng 3/1967, chính quyền VNCH đã ký hiệp định vùng bán đảo và vịnh Cam Ranh cho Mỹ trong 99 năm, bao gồm một vùng rộng lớn với diện tích 260km2 và Mỹ đã biến Cam Ranh thành căn cứ hải quân lớn nhất Đông Nam Á. Vịnh Cam Ranh trở thành trung tâm chỉ huy cho các hoạt động tuần tra trên không của Hải quân Mỹ để giám sát chiến dịch "Market Time", nhằm ngăn chặn Quân VC . Căn cứ Cam Ranh trở thành địa điểm chính sửa chữa tàu chiến và cung cấp đạn dược, hậu cần cho hải quân, bao gồm cả cho tàu khu trục và tàu đổ bộ của Hạm đội 7, Mỹ.

Năm 1968, quân số của quân đội Mỹ và các lực lượng đồng minh ở Cam Ranh lên tới 30.000 quân (20.000 quân Mỹ và 10.000 quân của các nước đồng minh . Ở khu vực này còn xây dựng hệ thống kho tàng hậu cần hoàn chỉnh, hệ thống ra đa, trận địa pháo và hệ thống  phòng không. Đặc biệt tại đây, quân đội Mỹ lần đầu tiên sử dụng cá heo được huấn luyện để bảo vệ cảng Cam Ranh.

Cam Ranh thời bình - Căn cứ địa bảo vệ và dựng xây đất nước
Để khẳng định lại quan điểm  của Việt Nam, ngày 30/10/2010, tại cuộc họp báo kết thúc Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17 và các hội nghị cấp cao liên quan,  Nguyễn Tấn Dũng đã thông báo, Việt Nam đã quyết định sẽ tự mình xây dựng cảng Cam Ranh bằng nguồn lực của chính mình. Cảng này sẽ trở thành một Trung tâm cảng dịch vụ tổng hợp, bảo đảm phục vụ Lực lượng Hải quân Việt Nam" và "Việt Nam sẵn sàng cung cấp dịch vụ cho tàu hải quân của tất cả các quốc gia, kể cả tàu ngầm, khi họ yêu cầu. Việt Nam sẽ cung cấp các dịch vụ như nhiều các quốc gia khác đã làm và theo cơ chế thị trường.


Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Việt Nam và châu Á tại Học viện Quốc phòng Australia đã đánh giá cao quyết định của Việt Nam khi cho rằng, hiện nay nhiều nước quan tâm đến địa điểm và quyền tiếp cận hơn là thiết lập căn cứ. Việc mở cửa vịnh Cam Ranh cho lực lượng Hải quân ngoại quốc là một ngón đòn ''bậc thầy'' trong chính sách đối ngoại "đa phương" của Việt Nam.


Khi Trung tâm Cảng dịch vụ hậu cần kỹ thuật đi vào hoạt động, các tàu ngoại quốc sẽ được bảo đảm các dịch vụ như tiếp nhiên liệu và các nhu yếu phẩm khác, bảo dưỡng, sửa chữa, thủy thủ đoàn nghỉ ngơi. Nguồn tài chính từ các dịch vụ này sẽ giúp chúng ta bù lại những chi phí cho các hoạt động cả dân sự và quân sự. Đồng thời một mặt là cơ hội để cho VN  nghiên cứu, học hỏi và tiếp cận những kỷ nghệ đóng tàu hiện đại của thế giới, mặt khác VN bớt lãng phí về năng lực. Chúng ta có quyền hy vọng Cam Ranh có thể trở thành một trong những cảng dịch vụ tốt nhất trong khu vực trong những năm tới

 

Nhiều nước chú ý đến cảng Cam Ranh. Đó thường là những quốc gia đều có lợi ích thiết thân trong việc duy trì quyền tự do thông thương ở Biển Đông. Sự hiện diện của tàu quốc tế tại Cam Ranh nâng cao vị thế của Việt Nam.

 

Vốn là một căn cứ quân sự, được đánh giá là một trong những cảng tự nhiên tốt nhất khu vực châu Á, Cam Ranh chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược của Việt Nam chống lại những hành động ngày càng quyết đoán của Trung Cộng trong cuộc tranh chấp về chủ quyền tại Biển Đông, một trong những huyết mạch lưu thông hải hàng trên thế giới.

 

Sau khi hải quân Nga rút khỏi cảng Cam Ranh vào năm 2002, chính quyền CS Việt Nam đã tuyên bố xây dựng khu vực này thành một cảng thương mại, không để cho hải quân nước khác thuê. Thế nhưng, tình hình đã thay đổi.

 

Vào lúc Trung Cộng phát triển bộ máy quân sự trong đó có lực lượng hải quân, đe dọa các nước nhỏ có tranh chấp chủ quyền, gây hấn với các tàu khảo sát của Mỹ trong khu vực, vào cuối năm ngoái, thủ tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn Dũng, đã nói đến khả năng cho tảu bè ngoại quốc vào cảng Cam Ranh để tiếp liệu hoặc sửa chữa.

 

Theo giới quan sát, mặc dù Việt Nam có quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Cộng và giới lãnh đạo hai nước luôn nhắc đến tình hữu nghị láng giềng, thế nhưng, mối bang giao song phương đang chịu nhiều sức ép do cách hành xử ngày càng hung hăng của Bắc Kinh.

 

Trung Cộng đã xây dựng một căn cứ hải quân ở đảo Hải Nam, phía bắc vùng biển có tranh chấp chủ quyền, nhằm nâng cao khả năng can thiệp của hải quân và thực thi chính sách ngoại giao cưỡng chế tại Biển Đông. Các sự kiện gần đây liên quan đến việc tàu hải giám và ngư chính Trung Cộng cắt cáp thăm dò dầu khí của tàu Việt Nam ngay tại nơi mà Việt Nam coi là vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của mình, cho thấy quyết tâm chính trị của Bắc Kinh thực hiện các yêu sách về chủ quyền ở Biển Đông.

 

Một trong những phương cách đối phó của Việt Nam là tìm cách quốc tế hóa hồ sơ tranh chấp chủ quyền, kêu gọi các nước Đông Nam Á có liên quan như Mã Lai Phi Luật Tân , Brunei cùng phối hợp đàm phán, và hoan nghênh Hoa Kỳ giúp làm dịu căng thẳng ở Biển Đông.

Vì  vậy, việc mở của cảng Cam Ranh đón tiếp tàu bè ngoại quốc nằm trong chiến lược của Việt Nam.

 

Theo giới chuyên gia về an ninh, việc thay đổi mục đích sử dụng cảng Cam Ranh sẽ tạo ra một nguồn thu nhập quan trọng cho Việt Nam. Thế nhưng, lý do chính là để đối phó với sự thống trị của hải quân Trung Cộng tại Biển Đông, một vùng biển được đánh giá là có nhiều trữ lượng về dầu khí, nguồn hải sản dồi dào và có nhiều tuyến giao thông hàng hải quốc tế quan trọng.

 

Theo thời báo Financial Times, thì hải quân của rất nhiều nước đều quan tâm đến cảng Cam Ranh. Ngoài Hoa Kỳ và Nga, còn có Ấn Độ, Nam Hàn , Úc… Đó là những quốc gia đều có lợi ích thiết yếu trong việc duy trì quyền tự do thông thương ở Biển Đông.

 

Mặt khác, sự hiện diện của tầu bè các nước tại Cam Ranh nâng cao vị thế của Việt Nam. Giống như trường hợp của Singapore khi mở cửa cảng Changi đón tiếp hải quân Hoa Kỳ, Nhật Bản, Thái Lan và các nước khác. Điều này rõ ràng giúp cho Singapore cảm thấy yên tâm hơn về an ninh, đồng thời tạo thêm một nguồn thu nhập cho Singapore, khoảng 30 triệu đô la mỗi năm, qua việc cung ứng dịch vụ cho tàu bè thế giới.

Cảng Cam Ranh nằm kẹp giữa dãy núi phía tây Việt Nam và Biển Đông, gần thành phố Nha Trang, ở phía nam. Đây là một trong những cảng nước sâu tự nhiên tốt nhất khu vực châu Á.

Trong thế kỷ 19, chính quyền thực dân Pháp đã xây dựng căn cứ đóng tàu thủy hiện đại đầu tiên ở Cam Ranh. Sau đó, cảng được mở rộng thêm 20 hải lý theo hướng Bắc – Nam và 10 hải lý chiều rộng.

 

Người Pháp sau đó đã biến nơi đây thành cảng quân sự. Năm 1940, quân đội Nhật Hoàng xâm chiếm Đông Dương và sử dụng cảng Cam Ranh làm nơi xuất phát của hải quân Nhật Bản.

Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ phát triển mạnh cảng quân sự Cam Ranh. Năm 1965, chính quyền Việt Nam Cộng hòa giao cho Hoa Kỳ quản lý cảng này. Đến năm 1972, Mỹ trả lại cho Việt Nam Cộng hòa trong khuôn khổ kế hoạch Việt nam hóa chiến tranh của tổng thống Richard Nixon.

 

Sau năm 1975, hải quân Liên Xô, đồng minh chiến lược của Cộng sản Việt Nam đã sử dụng quân cảng Cam Ranh. Năm 1979, Việt Nam cho hải quân Liên Xô thuê trong vòng 25 năm. Sau khi Liên Xô sụp đổ, hải quân Liên bang Nga đã rút khỏi Cam Ranh trước thời hạn, năm 2002.

Cho đến nay, chỉ có một số tàu bè nhỏ của Việt Nam neo tại cảng Cam Ranh.

Cuối năm 2010,  Nguyễn Tấn Dũng mới nói đến việc mở cửa và phát triển cảng Cam Ranh để đón tiếp tàu bè nước ngoài.

(Nguồn : Financial Times)

PDF

In

E-mail

 

Một nước Việt Nam độc lập chỉ cần trang bị một quân cảng tổng hợp Hải-Lục-Không Quân tại đây là có thể bảo vệ Biển Đông và Hoàng Sa Trường Sa.


Chỉ cần thêm một căn cứ không quân và hỏa tiển trên cao nguyên ở cao độ 1500m (Dalat...) là VIETNAM có thể khống chế toàn bộ Biển Đông.

 

 



 



 

Vịnh Cam Ranh - Khánh Hòa

 

 

1. Đặc điểm và vị trí địa lý của quân cảng Cam Ranh

Vịnh Cam Ranh thuộc thị xã Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa. Theo nhiều nhà địa lý quốc tế, có 3 cảng biển tự nhiên tốt nhất thế giới San Francisco của Mỹ, Rio de Janéro của Brazil và Cam Ranh của Việt Nam. Vịnh Cam Ranh với vẻ đẹp nguyên sơ, đặc biệt duyên hải miền Trung, có diện tích gần 60km2Chỗ hẹp nhất khoảng 10km, rộng nhất 20km, độ sâu trung bình từ 18 - 20m. Vịnh gần như khép kín bởi bán đảo Cam Ranh từ phía bắc chạy phủ kín cả phía đông, phía tây. Phía nam vịnh là đất liền, chỉ mở ra một cửa lớn - được ví như một cánh tay ôm lấy vịnh, tạo thành một vành đai nên mặt nước. có khả năng đón nhận nhiều hạm đội một lúc, nhiều tàu chiến, tàu ngầm và các tàu có trọng tải trên 100.000 tấn có thể ra vào dễ dàng bất cứ lúc nào trong năm.


 

 

Về địa chất hải dương, đáy vịnh gần như bằng phẳng, cấu tạo bởi loại cát pha bùn khá chắc, thuận tiện cho việc thả neo. Vịnh Cam Ranh được bán đảo che chắn nên khá kín gió, là nơi trú bão tốt cho tàu thuyền. Phía ngoài vịnh có một số đảo và cù lao án ngữ, trong đó có điểm cao thuận tiện cho việc xây dựng hệ thống hải đăng và ra-đa hàng hải. Năm 1905, nhiều khu trục hạm của Nga đã vào Vịnh Cam Ranh để tránh bão.

Du thuyền trên vịnh như "đi trên thảm" bởi không có sóng lớn... Quanh năm nắng ấm chan hòa, bầu trời trong xanh. Ngoài ra, đây là một Quân cảng tốt nhất cho các tàu chiến, máy bay chiến đấu, tàu ngầm và nhiều phương tiện tác chiến khác cùng hoạt động, do Vịnh có ưu điểm là chỉ cách đường hàng hải quốc tế 1 giờ tàu biển (cảng Hải Phòng cách 18 giờ). Thủy triều trong vịnh khá đều đặn, hằng ngày hai con nước lên xuống tương đối đúng giờ.

Vịnh Cam Ranh có thể hoàn toàn kiểm soát hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, vì vậy, chúng ta cũng có thể tin tưởng,về khả năm dành lại Hoàng Sa Trường Sa bằng quân sự là hoàn toàn có cơ sở. Thực tế, nhờ có quân cảng Cam Ranh mà nước ta vẫn kiểm soát đáng kể một vùng biển Đông rộng lớn.

“...Cam Ranh mở rộng ra cả vùng biển Đông. Nó cách Hong Kong 690 dặm, Manila 690 dặm,Singapore 698 dặm... Cam Ranh là pháo đài tự nhiên lý tưởng, còn đô đốc Courbet thì nói, đó là một đồn phòng vệ của Thái Bình Dương... Tất cả tàu nước ngoài cỡ lớn đi Trung Hoa, Nhật Bản hoặc từ đó quay trở về có thể dừng lại ở Đông Dương, vì phải đi qua trước vịnh Cam Ranh để nhìn rõ ngọn hải đăng ở mũi Padaran.... "

 

 

(Trích bài viết của nhà báo Robert Réallon, đăng trên báo Le Petit Parisien, và được trích đăng lại trên L’Ami du Peuple Indochinois số 16 -1-1934)

Không chỉ có ưu điểm về Hải Quân, mà Cam Ranh còn ưu thế về không quân và lục quân phia Tây Nam là tuyên phòng thủ Tây nguyên, phia nam là cửa ngõ Sài Gòn với sân bay Tân Sân Nhất, các lực lượng không quân và thiết giáp tạo cho Cam Ranh thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Có lúc, sân bay Cam Ranh có phi cơ hạ cánh và cất cánh cao nhất thế giới.

Chứa được cùng một lúc nhiều máy bay chiến đấu máy bay vận tải, tàu chiến, tàu ngầm, các phương tiện chiến tranh khác, và đặc biệt có thể chứa hàng chục ngàn thủy quân lục chiến. Nếu kinh tế Việt Nam phát triển, VN có thể xây dựng Cam Ranh thành một quân cảng quân sự bậc nhất trong hành lang tây Thái Bình Dương. Mà thực tế, ngày nay, quân cảng Cam Ranh đã góp phần quan trọng đối với an ninh của Việt Nam, duy trì hòa bình ổn định các nước trong khu vực và thế giới.

Trường Sa tạm thời vẫn an toàn, bởi VN vẫn duy trì cảng quân sự ở đây. Trung cộng thừa hiểu khả năng phòng thủ của Việt Nam như thế nào: VN vẫn kiểm soát được biển Đông, nếu Quân cảng Cam Ranh vẫn được duy trì và tăng cường sức mạnh.

2. Lịch sử vùng Vịnh

Trong Cuộc chiến tranh Nga - Nhật dành kiểm soát Mãn Châu và Triều Tiên, Nga Sa Hoàng đã tung hạm đội Baltique vào cuộc, do Bắc Băng Dương đóng băng, hạm đội phải đi vòng qua Ấn độ Dương. Rời biển Nga ngày 16-10-1904; ngày 8-4-1905, nó ở ngoài khơi Singapore; ngày 12-4, hạm đội đến vịnh Cam Ranh và đậu lại gần một tháng để chờ tiếp viện; ngày 8-5, tàu tiếp viện đến: một tàu bọc thép cũ, tàu Nicolar 1, một tuần dương hạm cũ và ba tàu tuần duyên, hơn bảy tàu tiếp viện.
Từ lúc này, Rojestvenski chỉ huy 45 chiến hạm với nhiều tàu tiếp viện, và ông có thể phái một phần đi Thượng Hải. Như vậy, từ năm 1905, Quân Cảng Cam Ranh đã có thể tiếp nhận được một hạm đội mạnh nhất thế giới rồi.

Trước thế kỷ 20, Cam Ranh còn là một vùng đất rất ít người ở. Năm 1939, toàn quyền Đông Dương Pháp ban hành nghị định thành lập địa lý hành chính Ba Ngòi. Năm 1965, thị xã Cam Ranh được thành lập do cắt một phần đất của quận Cam Lâm. Đến năm 1970, thị xã Cam Ranh tiếp tục được củng cố với hai quận Bắc và Nam .
Năm 1935 và 1954, Nhật Bản và Pháp cũng đã từng đóng quân ở Cam Ranh.

- Từ năm 1965 - 1972, Mỹ đóng quân ở đây và Mỹ đã chi hơn 300 triệu USD để mở rộng cảng, xây dựng Cam Ranh thành căn cứ quân sự tổng hợp và căn cứ tiếp liệu cho lực lượng hải-lục-không quân và hỏa tiễn của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Cam Ranh có những kho lớn chứa máy bay, có sân bay có thể dành cho máy bay quân sự cỡ lớn như B-52 hạ cánh. Trên thế giới, hầu như không có căn cứ quân sự nào lớn và có tính năng tổng hợp lớn như Cam Ranh.


 


 

 - Sau năm 1975, Cam Ranh được tổ chức lại là đơn vị hành chính cấp thị trấn và huyện cho đến năm 2000. Thị xã Cam Ranh được tái lập năm 2000, thị trấn Ba Ngòi có diện tích tự nhiên 690km2, dân số khoảng 209.000 người, thu nhập đầu người/năm 2002 là 3.263.200 đồng. Hiện có 27 phường, xã với 5 hồ, công trình thủy lợi cung cấp nước ngọt tiêu dùng và tưới tiêu.

- Năm 1978, Liên Xô thuê lại căn cứ Cam Ranh với thời hạn kết thúc năm 2004, nhưng đã rút sớm hai năm.

- Từ đó đến nay, cả Mỹ và Trung cộng đều nhòm ngó đến Quân cảng Cam Ranh, và Mỹ đã ngỏ ý muốn thuê lại cảng này. Đến nay, Quân cảng Cam Ranh vẫn hoàn toàn năm trong sự kiểm soát của VN. Cảng Cam Ranh mãi mãi vẫn là bến bờ nối liền giữa Hoàng Sa - Trường Sa với Việt nam.

 

Tóm lại , Quân-Cảng CAM-RANH là một phương-tiện vô-cùng qúy-giá mà "Minh-Đế" đã dành cho Con-Rồng-Cháu-Tiên để chống lại lũ Tàu-Chệt bẩn-thỉu gian-ác !

 

" Toàn dân nghe chăng ?

   Sơn-hà nguy-biến

   Hận-thù đằng đằng

   Tiên-Rồng tâu lên cùng Minh-Đế ..."

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

🔥Lisa Pham Khai Dân Trí Ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link