TÍCH CỰC KÝ TÊN:
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ CÓ TỰ DO DÂN CHỦ
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ NHÂN QUYỀN ĐƯỢC TÔN TRỌNG
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ KHÔNG BỊ CƯỠNG CHIẾM NHÀ ĐẤT
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ CÔNG NHÂN CÓ NGHIỆP ĐOÀN ĐỘC LẬP
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ DO DÂN & CHO DÂN
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ CHÍNH DÂN DIỆT THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ CÓ TƯ HỮU & TỰ DO KINH DOANH
BỎ ĐIỀU 4 ĐỂ CÓ CÔNG LÝ & HÒA BÌNH
==========================================================
CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP BẤT BẠO ĐỘNG
CẦN QUẦN CHÚNG SẴN SÀNG BẠO ĐỘNG
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 07.03.2013
CẬP NHẬT 12.03.2013:
NHÓM KHỞI XƯỚNG BỞI 72 NHÀ TRÍ THỨC
Tính cho đến ngày 07.03.2013, đã có 7927 người ký tên. Xin quý vị
tiếp tục ký tên gửi về Địa chỉ Điện thư sau đây:
NHÓM “LỜI TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO“
Nhóm mới đưng lên kêu gọi trong tuần vừa qua và tính cho đến ngày 07.03.2013 đã có 853 người ký tên. Xin quý vị tiếp tục ký tên gửi về Địa chỉ Điện thư sau đây:
NHÓM ỦNG HỘ LÁ THƯ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VN
Tính từ ngày 03.03 đến 12.03.2013 đã có 9238 người ký tên qua Web của
VietCatholic. Xin quý vị tiếp tục ký tên bằng Click vào hàng chữ dưới đây để ký
trực tiếp:
Cuộc đấu tranh trong Cơ chế CSVN ngày nay là phải đối chọi
với thứ ĐỘC TÀI cố thủ giữ lấy của cải đã ăn cướp được một cách bất chính. Độc
tài thời Lénine/Staline còn có lý tưởng vì họ muốn áp đặt lên dân một Ý thức hệt
với ngưỡng vọng một “Thiên đàng trần thế “. Nhưng khi chính đoàn ngũ đảng
viên của họ nhận biết “Thiên đàng trần thế“ chỉ là ảo tưởng, thì đoàn ngũ cán bộ
này sẵng sàng đi với dân để chấm dứt độc tài nhà nước. Khi Liên-xô và Đông Au sụp
đổ rồi, Trung quốc và Việt Nam vẫn cố thủ giữ lấy Cơ chế Cộng sản. Những nước này
giữ thứ ĐỘC TÀI không phải vì lý tưởng nữa, mà là thứ ĐỘC TÀI ham quyền cố vị
cho đảng mà thôi, bất chấp dân đói khổ. Dân đói khổ quá buộc hai đảng CSTQ và
CSVN phải mở cửa với Tây phương để kiếm cơm. Khi Tây phương đổ vốn vào, thì ĐỘC
TÀI dùng quyền chặn họng dân để vơ vét của chung thành của riêng bằng THAM
NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Khi đảng viên CS từ trên xuống dưới đã ăn cướp được ngập
họng rồi, thì ĐỘC TÀI trở thành một thứ dùng quyền để giữ của cải ăn cướp được
cho riêng mỗi người.
Chúng tôi đã ví CSVN ngày nay giống như đàn chó mỗi con
đang ngậm được cục xương. Con chó ngậm cục xương tìm chỗ riêng mà trốn để gậm.
Con chó gậm xương vừa mang thái độ sợ sệt vì lo xương đang ngậm bị cướp lại, vừa
dễ trở thành điên rồ cắn càng, thậm chí cắn cả mẹ của nó.
ĐỘC TÀI csvn ngày nay là thứ độc tài vừa sợ Dân vì của cải
riêng có được là bất chính, vừa hung hổ với Dân vì sợ Dân lấy lại của cải đang
dấu cất.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP lúc này là phải đối chọi với thứ
ĐỘC TÀI bảo vệ tài sản đã cướp dựt được một cách bất chính, nghĩa là không phải
là thứ độc tài cho ý thức hệ như thời Lénine/Staline, không phải là thứ độc tài
cố thủ giữ lấy quyền hành cho đảng như sau khi Liên –xô, Đông Au vừa sụp đổ,
cũng không phải là thứ độc tài hù doạ, lừa bịp dân để vơ vét tài sản riêng bằng
THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ.
Hiện nay chúng ta phải đấu tranh với ĐỘC TÀI của những
con chó đang ngậm cục xương, cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP nếu chỉ bằng kiến nghị giấy
tờ với những lý luận, thì CSVN dễ bỏ những kiến nghị ấy vào sọt rác.
Đã từ ngày 14.02.2013, nhận
thấy tình hình sẽ đi đến bùng nổ một cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP, chúng tôi đã chọn
Chủ để: PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH ĐÒI MỘT HIẾN PHÁP MỚI. Chúng tôi đã viết
trong Bài Mở Đầu như sau:
“Có người cho rằng việc Ký
Tên như cuộc “Cách Mạng nhung“ của giới Trí thức mà CSVN sẽ bỏ sọt rác, nghĩa
là không mang đến hiệu lực nào. Trước sức mạnh võ lực đàn áp của Công an CSVN,
những cuộc đấu tranh bằng bất bạo động, bằng văn bản, tự nó không mang lại hiệu
lực tác động lên ĐỘC TÀI CSVN ở giai đoạn chỉ bảo vệ miếng ăn mà họ đang ngậm
trong mồm. Cái hiệu lực của bất bạo động hay văn bản lý luận không nằm ở
những Lý lẽ đúng hay sai, mà nằm ở cái SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ THỂ đứng hậu thuẫn
cho bất bạo động hay những Văn bản Lý lẽ đưa ra.
Thực vậy, Chính quyền Anh
quốc không trao trả Độc Lập cho Dân An Độ nếu không có SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG
KHẢ THỂ hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh bất bạo động của Thánh GANDHI. Hiệu quả của
cuộc đấu tranh bất bạo động của Thánh GANDHI đến từ việc cả khối người Ấn Độ sẵn
sàng BẠO ĐỘNG.”
Trong Bài tiếp theo ngày
21.02.2013, dưới đầu đề QUẦN CHÚNG HÓA NHỮNG ĐÒI HỎI VỀ HIẾN PHÁP, chúng tôi
kêu gọi việc đấu tranh phải lan mạnh tới quần chúng để lấy SỨC MẠNH BẠO ĐỘNG KHẢ
THỂ, nghĩa là một sức mạnh của quần chúng sẵn sàng BẠO ĐỘNG tự vệ khi những con
chó điên CSVN đang ngậm cục xương dùng bạo lực cắn càn hay bỏ những đòi hỏi
chính đáng của cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP bất bạo động bằng Lý luận vào sọt rác.
Việc Ký tên cho Phong trào
Đấu tranh đang tiến hành rộng rãi, mỗi Chữ Ký là một đóng góp cho SỨC MẠNH BẠO
ĐỘNG KHẢ THỂ làm tăng thêm hiệu lực thành công của cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP. Hiện
nay có ba Nhóm kêu gọi quần chúng Ký Tên:
1) NHÓM KHỞI XƯỚNG
BỞI 72 NHÀ TRÍ THỨC
Nhóm này khởi xướng bởi 72
nhà Trí thức Quốc nội. Nhóm kêu gọi Ký Tên qua Web Beauxite Việt Nam. Xin quý vị
ký tên gửi về Địa chỉ Điện thư sau đây:
2) NHÓM “LỜI
TUYÊN BỐ CÔNG DÂN TỰ DO“
Nhóm này khởi xướng bởi những
Nhà Báo nhân việc Nhà Báo trẻ NGUYỄN ĐẮC KIÊN thẳng thắn phê bình Nguyễn Phú Trọng.
Nhóm kêu gọi Ký tên qua Web Dân Làm Báo. Xin quý vị ký tên gửi về Địa chỉ Điện
thư sau đây:
3) NHÓM ỦNG HỘ
LÁ THƯ CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Lá Thư của Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam vừa được công bố ngày 01.03.2013, thì ngày 03.03.2013, các Giám
mục VN ở Hải ngoại và các Cơ quan Truyền Thông Công Giáo Hải ngoại kêu gọi Ký
Tên ủng hộ. Xin quý vị ký tên bằng Click
vào hàng chữ dưới đây để ký trực tiếp:
Những Chữ ký này đóng góp
xây dựng một LỰC LƯỢNG QUẦN CHÚNG CỤ THỂ mà CSVN phải nể sợ SỨC MẠNH của Lực Lượng.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 07.03.2013
Chủ đề:
PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH ĐÒI MỘT HIẾN PHÁP MỚI
Bài 04:
ĐIỀU 4:
NGHỊCH LÝ NGUYÊN TẮC
& LOẠN QUYỀN THỰC TẾ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.02.13
Đọc kỹ
LÁ THƯ góp ý của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam về Hiến Pháp, chúng tôi thấy nổi bật
lên những điểm sau đây: (i) nghịch lý nguyên tắc; (ii) lọan quyền
thực tế; (iii) thủ phạm của nghịch lý nguyên tắc và loạn
quyền thực tế chính là Điều 4 Hiến Pháp.
Nhập đề cho LÁ THƯ, Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam đã nói rất rõ về lý do để viết đưa ý kiến về sửa đổi Hiến Pháp:
1) Chính Nhà nước CHXHCN đã
muốn lấy ý kiến của nhân dân. Hội Đồng Giám Mục khen ngợi và tán thành nhã ý
này của Nhà nước vì Nhà nước CHXHCN đã hiểu rất đúng rằng “Hiến Pháp của
một quốc gia trước hết và trên hết phải là của chính người dân “.
2) Vì thấy đồng một nhận thức
như vậy, nên Hội Đồng Giám Mục VN, ở tư cách là công dân của một nước, ý thức
trách nhiệm phải đóng góp xây dựng cho Hiến Pháp được hiểu là “của chính người
dân “. Những ý kiến đóng góp xây dựng Hiến Pháp được gửi đến Uûy Ban Dự thảo sửa
đổi Hiến Pháp, chứ không phải gửi lên Nhà nước hay đảng CSVN đang cầm quyền.
Hội Đồng Giám Mục VN viết LÁ THƯ cũng không phải là ở quan điểm đấu tranh cho
Tôn Giáo.
I. Quyền con người
Hội Đồng Giám Mục VN cũng nhìn nhận rằng “Bản
Dự thảo đã dành cả chương II (điều 15-52) để nói về quyền con người. Quyền con
người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người
(10.12.1948), và Việt Nam cũng đã ký kết. Bản Dự thảo đã liệt kê khá đầy đủ những
quyền căn bản của con người.“
Nhưng đó
chỉ là những liệt kê trên văn bản theo nguyên tắc. Những điều mà Hội Đồng
Giám Mục muốn phân tích để từ đó góp ý kiến là trên thực tế những điều
liệt kê ấy có được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật hay
không?
Theo nguyên tắc, quyền bính
Chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp lý và
môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người. Nhưng trên thực tế, những quyền
của con người chỉ được ban phát cách tùy tiện do quyền bính Chính trị. Lý do
chính yếu của việc những quyền con người liệt kê trên văn bản không được hiểu
đúng, không được tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật trong thực tế là Hiến
Pháp ngay từ đầu (Điều 4) đã dành quyền Chính trị cho độc đảng với độc
tôn một Chủ nghĩa riêng của đảng này: “lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng” (Điều 4)
Thực vậy:
=> Quyền tự do ngôn luận (điều
26), quyền sáng tạo văn học, nghệ thuật (điều 43), quyền tự do tín nguỡng, tôn
giáo (điều 25) không thể được thực hiện hay chỉ được tùy tiện ban phát khi mà
Điều 4 độc tôn Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vốn từ bản chất là
vô thần.
=> Thực tế từ bao chục năm trường,
sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy sáng tạo của
người dân Việt Nam. Đây là một trong những lý do lớn, dẫn đến tình trạng trì trệ
và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo dục, khoa học và công nghệ, văn
hóa và nghệ thuật.
Điều 4
trong cùng một văn bản Hiến Pháp tự nó, theo nguyên tắc, là trái nghịch với những
Điều khoản về những quyền của con người được liệt kê ra trong cùng văn bản; và
trên thực tế là cho đảng độc quyền Chính trị tùy hứng ban phát cho dân mà thôi.
Chính vì
nhận định những nghịch lý trên nguyên tắc và những lạm quyền đối với những quyền
căn bản của con người, nhất là những quyền chỉ được nhắc ra mà không khai triển
cụ thể trên thực tế, mà Hội Đồng Giám Mục VN đề nghị:
l. Hiến pháp cần xác định
rõ: mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền. Quyền con người là
những quyền gắn liền với phẩm giá làm người, và vì thế, là những quyền phổ
quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng.
2 . Lấy truyền thống văn hóa dân tộc
làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam.
3 . Nêu rõ nội dung quyền được sống (đối
chiếu với điều 21 Dự thảo): mọi người đều có quyền sống. Không ai được phép tước
đoạt sự sống của người khác, từ khi thành thai đến khi chết. Nhà nước có nhiệm
vụ bảo vệ sự sống con người. Mọi người đều có quyền bảo vệ sự sống của mình, miễn
là không làm tổn hại đến sự sống của người khác.
4 . Nêu rõ quyền tự do ngôn luận (đối
chiếu điều 26 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày
quan điểm và niềm tin của mình.
5 . Nêu rõ quyền tự do tôn giáo
(đối chiếu điều 25 Dự thảo): mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Quyền này bao hàm việc tự do theo hay không theo một tôn giáo nào, tự do thực
hành các nghi lễ tôn giáo, cá nhân hoặc tập thể. Không tôn giáo nào hoặc chủ
thuyết nào được coi là bó buộc đối với người dân Việt Nam. Nhà nước không tuyên
truyền tiêu cực về tôn giáo, không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo như:
đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, chia tách sát nhập... Các tổ chức tôn giáo
có quyền tự do hoạt động xã hội cộng đồng như giáo dục, y tế...
II. Quyền làm chủ của nhân dân
Nhà nước CHXHCN tuyên bố rằng quyền lực tối
cao là từ người dân. Hội Đồng Giám Mục VN cũng nhận định quyền làm chủ của nhân
dân như sau đây. Theo nguyên tắc, chủ thể của quyền
bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước. Nhân
dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết
mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc
không thuộc đảng phái nào. Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp quyền “của dân, do
dân và vì dân” (Lời nói đầu). Vì thế việc tự do ứng cử của mỗi công dân là đòi
hỏi tất yếu trong một xã hội dân chủ, văn minh và lành mạnh. Đồng thời việc bỏ
phiếu công khai, khách quan và công bằng, là đòi hỏi cần thiết để người dân có
được những đại diện mà họ tín nhiệm. Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực
của những đại diện họ đã bầu, và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện
đó. Tuy nhiên trong thực tế từ bao chục năm trường, Điều 4 Hiến
Pháp khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo quyền bính Chính trị dành cho đảng
CSVN, nghĩa là chính Điều 4 phủ nhận chủ thể quyền bính phải là từ dân.
Chính vì để có sự thuần nhất nhận định về chủ
quyền của người dân trong Hiến Pháp cả về nguyên tắc và thực tế mà Hội Đồng
Giám Mục VN đề nghị những điểm sau đây:
l . Hiến pháp cần phải làm nổi bật
quyền làm chủ của nhân dân, không chỉ bằng một mệnh đề lý thuyết nhưng cần được
thể hiện trong những điều khoản cụ thể của Hiến pháp, và có thể thi hành trong
thực tế. Bản Dự thảo khẳng định: “Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức” (Ðiều 2). Nhưng trong thực tế, công nhân, nông dân và trí thức là
những thành phần chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Thực tế đó cho thấy
khẳng định về quyền làm chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết.
2. Để tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định cách tiên thiên sự
lãnh đạo của bất kỳ đảng phải chính trị nào (X. điều 4), vì chủ thể của quyền
bính chính trị là chính nhân dân, và nhân dân trao quyền bính đó cho những người
họ tín nhiệm qua việc bầu chọn. Những cá nhân được bầu phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân về việc họ làm, chứ không thể là một tập thể mơ hồ rồi cuối cùng
không ai chịu trách nhiệm cả.
3. Hiến pháp hiện hành chỉ công
nhận quyền sử dụng đất chứ không công nhận quyền sở hữu đất của công dân. Ðiều
này đã gây ra nhiều lạm dụng và bất công nghiêm trọng. Vì thế, Hiến pháp mới cần
công nhận quyền sở hữu đất đai của công dân và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại
đa số các quốc gia trên thế giới.
4. Hiến pháp phải tôn trọng quyền
tham gia hệ thống công quyền ở mọi cấp, của mọi công dân, không phân biệt thành
phần xã hội, sắc tộc, tôn giáo...
III. Thi hành quyền bính chính trị
Theo nguyên tắc, quyền bính
chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Để những quyền bính này được thi hành cách đúng đắn
và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mổi bên và vì công ích của toàn
xã hội. Trong thực tế của Việt Nam nhiều năm qua, đã không có được
sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây ra nhiều bất
công, suy thoái về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, đạo đức. Cuối cùng, người dân
nghèo phải gánh chịu mọi hậu quả và Việt Nam, cho đến nay vẫn bị xem là một nước
kém phát triển.
Nguyên nhân sâu xa là không có sự phân biệt
giữa đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền. Điều này thể hiện ngay trong nội
dung của Hiến pháp 1992, và Dự thảo vẫn tiếp tục đường lối như thế.
Một đàng, điều 74 khẳng định Quốc hội là “cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất”; đàng khác, Điều 4 lại khẳng định
đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Vậy, ai lãnh
đạo ai? Phải chăng Quốc hội chỉ là công cụ của đảng cầm quyền? Nếu như thế, việc
người dân đi bầu các đại biểu Quốc hội có ý nghĩa gì? Một sự chọn lựa thật sự tự
do hay chỉ là thứ dân chủ hình thức?
Bản Dự thảo cũng dành nhiều chương dài để nói
về Quốc Hội (điều 74-90), về Chủ tịch nước (điều 91-98), về Chính phủ và Thủ tướng
(điều 99-106). Không có chương nào và điều nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền.
Đang khi đó, thực tế là Tổng bí thư nắm quyền hành cao nhất vì cũng theo Dự thảo,
đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4)! Như thế phải
chăng đảng ở trên luật pháp và ngoài luật pháp, chứ không lệ thuộc luật pháp? Nếu
đảng cầm quyền đã lãnh đạo cả Nhà nước và xã hội, thì còn cần gì Quốc hội, cần
gì đến Tòa án!
Những phân tích trên cho thấy sự mâu thuẫn và
tính bất hợp lý ngay trong nội dung Hiến pháp. Sự bất hợp lý này dẫn đến tình
trạng bất hợp lý trong thực tế cuộc sống, là nguồn gốc của những bất công, dẫn
đến bất ổn xã hội, kìm hãm sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.
Chính vì
tính cách loạn quyền hành do Điều 4 sinh ra như trên đã trình bầy mà Hội Đồng
Giám Mục VN đề nghị:
l . Phải vượt qua sự bất hợp lý
từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phải chính
trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất”, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải
là công cụ của một đảng cầm quyền nào.
2 . Xác định tính độc lập của các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp; cung cấp nền tảng pháp lý cho việc thi hành những
quyền này cách độc lập và hiệu quả.
3. Luật hóa sự kiểm soát của
nhân dân đối với việc thi hành pháp luật bằng những quy định cụ thể.
Kết luận
Đọc kỹ
những phân tích của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong những phần trên đây, chúng
tôi thấy rằng thủ phạm gây nghịch lý nguyên tắc chính trong
nội tại Hiến Pháp và tạo lọan quyền thực tế đối với người dân
chính là Điều 4 của Hiến Pháp. Những đề nghị của Hội Đồng Giám Mục VN, dù
không minh nhiên nhắc đến thủ phạm ấy, nhưng đều quy tụ vào một điểm là phải loại
Điều 4 hiện hành ra khỏi Hiến Pháp.
Nếu đảng
CSVN cố tình để Điều 4 trong Hiến Pháp thì đó là chỉ vì cố thủ dành lấy quyền
hành độc đoán Chính trị trên Dân tộc mà thôi.
Như
trong phần mở đầu LÁ THƯ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đứng về phía trách nhiệm
người dân mà góp ý. Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP bất bạo động ngày nay đang mạnh dạn
nổi dậy tại Quốc nội là việc đối chọi quy tụ vào Điều 4 của Hiến Pháp giữa
Dân và đảng CSVN:
1) Một mặt, Dân chúng muốn
xóa bỏ Điều 4 khỏi Hiến Pháp như loại trừ thủ phạm gây nghịch lý nguyên tắc trong văn bản
Hiến Pháp và tránh đi cái nguồn gốc gây lọan quyền thực tế, lộng hành
quyền bính trong thực tế đối với dân.
2) Một mặt, đảng CSVN cố thủ
giữ Điều 4 trong Hiến Pháp bất chấp những nghịch lý nguyên tắc do Điều 4
này cho thấy tỏ tường, đồng thời đảng cần Điều 4 để dễ lọan quyền thực tế, lộng hành
quyền lực mà hà hiếp, bóc lột Dân.
Nếu xét
về quyền lợi Dân tộc và Đất nước, thì Dân đứng về phía bảo vệ chính đáng, còn đảng
CSVN đứng về phía tàn phá bất nhân !
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 06.03.13
Bài 03:
CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP
NHẤT THIẾT ĐÒI BỎ ĐIỀU 4
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 05.03.13
Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Sinh Hùng phải lo sợ
và phát biểu ra những điều bất nhất và vô lý trước cao trào CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP
đang nổi dậy mạnh mẽ tại Quốc nội vì những lý do sau đây:
1) Một mặt,
Chính CSVN kêu gọi “Dân góp ý sửa đổi
Hiến Pháp“, nghĩa là CSVN đã cho phép và cổ võ cho cuộc CÁCH MẠNG HIẾN
PHÁP đang bùng lên hiện nay. Trọng và Hùng thấy mình “há miệng mắc quai“ nên đã
phải nói sảng nói khùng mà một số nhà báo chịu không được đã lên tiếng phản
bác. Nhà báo trẻ Nguyễn Đắc Kiên, phóng viên “Gia đình và Xã hội”, đã mạnh mẽ
chống lại những lời tuyên bố của Nguyễn Phú Trọng khiến nhà báo này bị sa thải.
Nhà báo Võ Văn Tạo cũng đã có bài viết tựa đề “Giữ Điều 4 mới chính là
suy thoái đạo đức, thưa ông Tổng bí thư!”. Trong bài này, ông Võ Văn Tạo
viết :”Muốn duy trì điều 4 trong Hiến pháp, ông Trọng muốn giữ độc quyền
đảng trị, thực chất chỉ cốt duy trì quyền uy chính trị và đặc quyền đặc lợi vật
chất cho những đảng viên có chức quyền biến chất.”
2) Mặt khác,
CSVN không ngờ rằng, vì lời kêu gọi mỵ dân “Dân
góp ý sửa đổi Hiến Pháp“, mà cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đã nhanh chóng NỔI
DẬY từ Bắc chí Nam. Số người ký tên vào Phong trào CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP cho đến
ngày hôm nay 05.03.2013 đã lên tới 6611 mà người mang số 6611 là Hồ Hồng Sơn, một
công nhân tại Sài Gòn. Trong danh sách, những thành phần ký tên gồm những người
đã là cựu Bộ trưởng, những đảng viên CSVN, những Trí thức, Thanh niên, Sinh
viên. Lực lượng có sức mạnh cụ thể, sẵn sàng hành động dù với BẠO ĐỘNG, đó là
giới nội trợ, nông dân và công nhân. Điều mà CSVN còn ngại sợ hơn nữa là cuộc
CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP còn có sự tham dự dứt khoát của Khối Công Giáo Việt Nam với
những Vị Giám mục đã ký tên như: Giám mục NGÔ QUANG KIỆT, cự Tổng Giám Mục Hà Nội,
Giám mục NGUYỄN CHÍ LINH, Giáo phân Thanh Hóa và là Phó Chủ Tịch Hội Đồng Giám
Mục VN, Giám mục NGUYỄN THÁI HỢP, Giáo phận Vinh và là Chủ tịch Uûy Ban Công Lý
& Hòa Bình. Trong danh sách, người ta còn thấy ký tên nhiều Linh mục và các
Nữ tu. Nguyễn Phú Trọng và Nguyễn Sinh Hùng chắc chắn phải hoảng sợ vì Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam đã chính thức và dứt khoát tham dự cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP
này. Đàng sau Hội Đồng Giám Mục Việt Nam là Khối Công Giáo toàn quốc gồm các
Giám mục, Linh mục, Nam Nữ Tu sĩ và Giáo dân trong đó hơn 1 triệu Giáo dân Miền
Bắc và 500’000 Giáo dân Vinh đã từng đấu tranh gần đây trong sự đàn áp dã man của
Công An. Những Giáo dân này sẽ không còn sợ hãi nữa trong cuộc CÁCH MẠNG HIẾN
PHÁP này mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã chính thức và dứt khoát nhập cuộc. Đã
13 năm nay, chúng tôi theo rõi thái độ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dưới sự
cai trị hà khắc của CSVN. Chúng tôi đã có lần công kích thái độ “trùm chăn“ của
Hội Đồng Giám Mục VN, nhưng lần này, chúng tôi ngạc nhiên và hết lòng ca ngợi
việc nhập cuộc cứng rắn và dứt khoát của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho cuộc
CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP để cứu nước.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP đòi hỏi chính yếu và
nhất thiết phải bỏ ĐIỀU 4 khỏi Hiến Pháp. Điều 4 mà CSVN muốn
cố thủ giữ lại, khẳng định: “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng“
Cho dù Hiến Pháp 2013 được vẽ vời với những mỹ
từ về NHÂN QUYỀN, về TỰ DO tư duy, lòng tin và ngôn luận, về tổ chức CÔNG QUYỀN,
về QUỐC HỘI, về QUÂN ĐỘI, về KINH TẾ với Tư hữu, về ĐỘC LẬP tam quyền Lập Pháp,
Hành Pháp và Tư Pháp… cho đẹp Văn Bản Hiến Pháp như thế nào đi chăng nữa, mà nếu
ĐIỀU 4 được giữ lại thì tất cả những vẽ vời vừa nói ra đây trong Văn Bản sẽ phải
chịu quy chế “XIN-CHO” mà quyền lực tối thượng của đảng CSVN độc đoán muốn CHO
thì cho, muốn KHÔNG CHO thì không cho. Đó là Điều khoản cho phép đảng CSVN trở
thành “Hoàng Đế” sinh sát Dân, những quyền cá nhân của Dân và những Tổ chức xã
hội mà Dân cần có để điều hợp cuộc sống chung. Điều 4 cho đảng CSVN một thứ
siêu quyền lực đứng trên mọi thứ quyền khác của Dân và của Xã hội Việt Nam.
Cuộc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP này bản chất là BÁT
BẠO ĐỘNG. Việc CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP nhất thiết đòi hỏi phải bỏ ĐIỀU 4 là hoàn
toàn hữu lý. Nếu đảng CSVN cố thủ giữ lại ĐIỀU 4, đó là sự điên rồ mà Khối Dân
nổi lên làm CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP không thể nào nhượng bộ được. Lý do không thể
nhượng bộ là Dân Tộc Việt Nam không thể tiếp tục sống trong tình trạng nô lệ dưới
quyền tối thượng “Hoàng đế đảng CSVN“.
Nếu CSVN dùng bạo lực Công an để khoá miệng
Dân, áp đặt ĐIỀU 4, thì Khối CÁCH MẠNG HIẾN PHÁP cũng có sức mạnh quần chúng sẵn
sàng hành động dù với BẠO ĐỘNG để tự vệ và tiếp tục đòi bỏ ĐIỀU 4 vì đây là việc
giải thoát chính mình ra khỏi tình trạng nô lệ dước ách độc tài của đảng CSVN.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 05.03.13
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment