Không
trung thực trong điều 4 Hiến pháp
Phạm Đình Trọng
2013-09-01
2013-09-01
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang.
AFP
Lời thưa,
Khi bắt đầu viết, bài
này có tựa Đảng Cộng Sản Việt Nam Với Lợi Ích Dân Tộc Việt Nam. Mới gõ phím
được hơn trang, người viết được đọc bài Uẩn Khúc Trong Điều 4 Hiến Pháp, thấy
giáo sư Hoàng Xuân Phú đã soi rọi rất tinh tế, chính xác xảo thuật ngôn từ mà
những người soạn thảo HP (Hiến pháp) đã sử dụng giúp ĐCSVN (đảng Cộng sản Việt
Nam) không bị ràng buộc vào bất kì điều nào của HP để ĐCSVN điềm nhiên đứng
ngoài và đứng trên HP.
Bài viết của tôi, tập
trung chỉ ra điều 4 HP ghi: ĐCSVN . . . đại biểu trung thành lợi
ích của cả dân tộc Việt Nam là hoàn toàn không đúng sự thật. Trong lịch sử hoạt
động, ĐCSVN luôn luôn thí bỏ lợi ích dân tộc thiết thực để theo đuổi lợi ích
giai cấp hư vô của đảng.
Bài viết của giáo sư
Hoàng Xuân Phú chỉ ra sự khuất tất trong xảo thuật ngôn từ của điều 4 và trong
toàn HP. Bài viết của tôi chỉ ra sự thiếu trung thực của điều 4 HP. Hai bài là
hai vế đối về sự bất minh của điều 4 HP. Vì thế tôi thấy cần thay đổi tựa bài
để là một vế song hành về ý tứ với bài của giáo sư Hoàng Xuân Phú.
Điều 4 Dự thảo Hiến
pháp 2013 viết: Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Viết gọn lại là: Đảng
Cộng sản Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội.
Một đảng chính trị của
chính trường Việt Nam mà coi thường và khinh bỉ Nhân Dân Việt Nam đến mức
nghiễm nhiên giành quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, không cần có lá phiếu của
người Dân, không cần biết người Dân Việt Nam có chấp thuận sự lãnh đạo đó hay
không, không đếm xỉa đến quyền lợi hiển nhiên, sơ đẳng, bình thường và thiết
thực của người Dân là quyền Công Dân, quyền bầu cử chọn ra người lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đối xử với Dân kẻ cả, quyền uy và tệ bạc như vậy mà lại bảo
rằng đảng Cộng sản Việt Nam trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam thì đúng là viết lấy được, nói lấy
được, một lối nói, một cách làm của quyền uy độc tài, quen thói áp đặt!
Thực tế đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã nhiều lần chứng minh rằng đảng không những
không vì lợi ích dân tộc Việt Nam mà đảng còn hi sinh lợi ích dân tộc Việt Nam
cho lợi ích của đảng, cho những mục tiêu viển vông, siêu thực của đảng, cho
cuộc cách mạng vô sản thế giới hão huyền, chỉ đẩy Dân vào chiến tranh hận thù,
chỉ lấy Dân làm vật thí nghiệm, vật hi sinh cho chủ nghĩa xã hội hư vô!
1. Đưa dân tộc Việt
nam vào con đường máu lửa. Dân tộc Việt Nam đã phải trả giá máu quá đắt cho sự
lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam
Khi đất nước Việt Nam
bị thực dân Pháp xâm lược là khi thế giới đã bước vào thời công nghiệp hóa.
Những nước đi đầu trong công nghiệp hóa trở nên giàu mạnh, văn minh liền mang
sức mạnh công nghiệp đi xâm lược các nước còn đang tăm tối trong nền sản xuất
nông nghiệp cổ lỗ. Công nghiệp hóa là thời của toàn cầu. Mọi vấn đề của thế
giới, của con người, từ cuộc sống của mỗi con người đến số phận các dân tộc đều
mang tính toàn cầu. Các sĩ phu Việt Nam yêu nước chỉ quanh quẩn trong nước, sử
dụng lực lượng tại chỗ, lòng yêu nước chỉ được trang bị bằng gậy gộc, giáo mác
đứng lên khởi nghĩa chống Pháp đều đơn độc, lẻ loi và cuộc khởi nghĩa nhanh
chóng bị dìm trong máu. Những người Việt Nam yêu nước từ thế hệ Phan Châu
Trinh, Phan Bội Châu đều đã biết hướng ra thế giới tìm kiếm, học hỏi thế giới,
nắm bắt xu thế thời đại, khai thác sức mạnh thời đại vào sự nghiệp cứu nước.
Đi ra thế giới tìm con
đường giải phóng dân tộc Việt Nam, với trái tim yêu nước nồng nàn và tầm nhìn
thấu đáo, sâu xa, Phan Châu Trinh thấy trước hết phải “khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh”: Thức tỉnh ý thức tự lập, tự cường, chấn hưng đất nước. Lập
phường hội phát triển công thương, phát huy nghề tinh. Tiếp nhận công nghệ mới,
bước theo các nước công nghiệp, công nghiệp hóa, tư bản hóa xã hội Việt Nam.
Dân giàu nước mới mạnh, số đông người Dân giàu có về đời sống văn hóa và đời
sống kinh tế, từ đó mới có ý thức về quyền con người, quyền tự quyết của các
dân tộc, có tư thế bình đẳng và có lực lượng cần thiết đấu tranh chính trị và
chỉ đấu tranh chính trị giành độc lập dân tộc.
Con đường Phan Châu
Trinh đã chọn cho dân tộc Việt Nam cũng là con đường Mahatma Gandhi đã chọn cho
dân tộc Ấn Độ và Ấn Độ đã giành được độc lập dân tộc không phải trải qua cuộc
chiến tranh đẫm máu với đế quốc Anh. Phan Châu Trinh mất sớm, con đường cứu
nước đúng đắn Phan Châu Trinh vừa khởi xướng, đành bỏ dở! Sự nghiệp giải phóng
dân tộc Việt Nam thôi đành phó thác cho những người Cộng sản. Và dân tộc Việt
Nam phải trải qua con đường đấu tranh bạo lực dằng dặc máu lửa và chứa chất hận
thù đến tận hôm nay vẫn chưa thôi bạo lực, chưa trút bỏ hận thù!
Chỉ biết còn đảng còn
mình...
Đi ra thế giới, những người
Việt Nam yêu nước lớp kế cận Phan Châu Trinh nhưng không có được tầm văn hóa
cao và sự chín chắn chính trị của Phan Châu Trinh nên họ đã vội vồ vập vơ lấy
học thuyết hận thù giai cấp, đấu tranh giai cấp đẫm máu của chủ nghĩa Cộng sản
và coi đó là phương tiện tốt nhất cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt
Nam
Đi ra thế giới, những
người Việt Nam yêu nước lớp kế cận Phan Châu Trinh nhưng không có được tầm văn
hóa cao và sự chín chắn chính trị của Phan Châu Trinh nên họ đã vội vồ vập vơ
lấy học thuyết hận thù giai cấp, đấu tranh giai cấp đẫm máu của chủ nghĩa Cộng
sản và coi đó là phương tiện tốt nhất cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
Việt Nam. Đọc luận cương của V. Lê nin về cách mạng bạo lực và hận thù của vô
sản thế giới, Hồ Chí Minh, người Cộng sản Việt Nam đầu tiên, sung sướng đến ứa
nước mắt reo lên: Đây rồi! Đây chính là cái mà chúng ta cần!
Từ đây, dân tộc Việt
Nam chỉ có thể tồn tại bằng yêu thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” bị cuốn
vào thời bạo lực và hận thù giai cấp, “lá rách” đấu tố, thù hận “lá lành”, loại
bỏ “lá lành”, dân tộc bị chia rẽ sâu sắc, bị suy yếu rệu rã và bị lệ thuộc chặt
chẽ vào nước lớn cùng ý thức hệ!
Phan Châu Trinh làm
cách mạng giải phóng dân tộc bằng những cải cách nâng tầm đất nước, nâng tầm
dân tộc, đưa đất nước đi vào con đường công nghiệp hóa làm cho Dân giầu nước mạnh
và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc phải dựa vào những người Dân giàu có trí
tuệ, giàu có của cải đó. Nhưng cách mạng vô sản thì ngược lại. Coi làm giàu là
bóc lột, là bất công xã hội, đứng về phía những người nghèo khổ bị bóc lột,
cách mạng vô sản đưa giai cấp công nông, giai cấp nghèo khổ, không có của cải,
không có tri thức, chỉ có xiềng xích và hai bàn tay trắng lên lãnh đạo cách
mạng, coi người giàu tri thức và giàu của cải đều là kẻ thù của cách mạng, là
đối tượng cần chuyên chính, loại bỏ! Đó là một thảm họa lớn kéo dài mà những
người Cộng sản Việt Nam đã mang lại cho dân tộc Việt Nam và biến động bi thảm
tháng chín năm 1930, những người Cộng sản phát động Dân nghèo Nghệ Tĩnh nổi dậy
chém giết trí, phú, địa, hào, “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rễ” là
một cảnh báo nghiêm khắc.
Sau gần một thế kỉ bị
thực dân Pháp đô hộ, gần một thế kỉ nước mất, thân nô lệ, những tâm hồn Việt
Nam chân chính đang khao khát cháy bỏng giải phóng dân tộc. Những người Cộng
sản Việt Nam giương ngọn cờ giải phóng dân tộc, đã khai thác, tập hợp được sức
mạnh dân tộc Việt Nam làm nên chiến thắng trong cuộc kháng chiến đánh đuổi
những đội quân xâm lược hùng mạnh của thời đại.
Chiến thắng những đội
quân xâm lược giành độc lập là chiến thắng của văn hóa và truyền thống Việt
Nam, chiến thắng của khí phách, trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, hoàn toàn không
phải là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, của lí tưởng Cộng sản, không phải
là chiến thắng của học thuyết hận thù, đấu tranh giai cấp.
Giương ngọn cờ giải
phóng dân tộc, những người Cộng sản Việt Nam đã thu hút được một số quan lại,
trí thức, tư sản, chủ đất . . . , những người thuộc giai cấp tư sản
với lòng yêu nước hồn nhiên đã tập hợp trong đội ngũ những người kháng chiến
giành độc lập. Nhưng lí tưởng Cộng sản, học thuyết đấu tranh bạo lực, hận thù
giai cấp đã đẩy số đông người Việt Nam yêu nước tỉnh táo, sáng suốt, không chấp
nhận chủ nghĩa Cộng sản sang phía kẻ thù không đội trời chung. Ngay cả với
những trí thức, tư sản, những trí tuệ và tài năng ở tầng lớp trên đi với những
người Cộng sản, có đóng góp to lớn trong cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc
cũng bị những người Cộng sản ngộ độc học thuyết đấu tranh giai cấp, đố kị,
khinh rẻ, bạc đãi, đày ải điêu đứng. Những thân phận ngậm ngùi, ê chề, đau khổ
như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, . . . vì sự đố kị, bạc đãi,
đày ải đó không phải là cá biệt. Chủ nghĩa Cộng sản với học thuyết bạo lực, hận
thù, đấu tranh giai cấp đã gây quá nhiều đau khổ cho nhiều thế hệ, cho hàng
triệu người Việt Nam yêu nước thương nòi, gây chia rẽ, li tán sâu sắc cả dân
tộc Việt Nam.
Cộng sản đấu tố...con
đấu tố cha, vợ đấu tố chồng
Chiến thắng bằng bạo
lực và hận thù của những người Cộng sản đã buộc dân tộc Việt Nam phải trả bằng
giá máu và giá đạo lí quá đắt:
Giá phải trả bằng máu
của cả chục triệu người, gần một phần ba dân số Việt Nam phơi thây ngoài mặt
trận, chết gục trong đấu tố, chết thảm trên pháp trường, chết mòn trong tù
ngục, chết mất xác trong thủ tiêu âm thầm! Xã nào, huyện nào tỉnh nào cũng có
những nghĩa trang liệt sĩ mênh mông, trắng xóa những nấm mồ người chết trẻ,
tuổi mười tám, đôi mươi. Rồi còn những người chết trong thù hận không nấm mồ,
không dấu tích cũng nhiều không kém, tính không xuể!
Hãy đến nghĩa trang
liệt sĩ một xã như xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, hãy đến nghĩa
trang liệt sĩ Đường 9, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn để thấy bằng hình ảnh,
bằng chứng cứ món nợ máu đảng Cộng sản Việt Nam đã vay của dân tộc Việt Nam lớn
như thế nào, để thấy giá máu dân tộc Việt Nam đã phải trả lớn như thế nào khi
đi trên con đường đấu tranh giành độc lập bằng bạo lực do những người Cộng sản
lãnh đạo! Càng đau xót hơn khi người Dân phải trả giá máu đắt như vậy nhưng đất
nước vẫn chưa có nền độc lập thật sự, đất đai biển trời không còn được nguyên
vẹn và người Dân vẫn chưa thật sự có tự do, chưa được thực sự làm Người, vẫn
mang ách nô lệ của một Nhà nước độc tài đảng trị!
Chiến thắng những đội
quân xâm lược giành độc lập là chiến thắng của văn hóa và truyền thống Việt
Nam, chiến thắng của khí phách, trí tuệ và tâm hồn Việt Nam, hoàn toàn không
phải là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, của lí tưởng Cộng sản
Giá của cuộc nội chiến
tương tàn chia rẽ sâu sắc một dân tộc vốn chỉ có thể tồn tại bằng đoàn kết dân
tộc, bằng yêu thương đùm bọc, lá lành đùm lá rách! Giá của đất nước gấm vóc bị
30 năm chiến tranh hiện đại, chiến tranh điện tử, chiến tranh siêu âm, chiến
tranh bấm nút, chiến tranh hủy diệt tàn phá!
Giá của văn hóa dân
tộc và đạo lí Việt Nam bị hủy hoại, bị vất bỏ! Một dân tộc tồn tại bằng yêu
thương trở thành dân tộc ứng xử với nhau bằng bạo lực và hận thù! Nhà nước tùy
tiện sử dụng bạo lực với người Dân đã trở thành tấm gương cho xã hội để xã hội
Việt Nam trở thành xã hội bạo lực, bất an, man rợ. Nhà nước cướp đất của Dân
bằng bạo lực cưỡng chế. Nhà nước trả lời những chính kiến khác biệt của người
Dân bằng bạo lực công an, tòa án, nhà tù. Bỏ tù người Dân có chính kiến khác
biệt bằng những tội danh hình sự áp đặt, giả tạo. Công an ngang nhiên đánh Dân,
bắn Dân trên đường phố. Công an ngang nhiên chà đạp lên pháp luật, tùy tiện bắt
bớ Dân. Công an đánh chết Dân trong nhà tạm giam, trong trụ sở công an diễn ra hàng
ngày ở khắp nơi trên cả nước. Nhà nước Cộng sản dùng bạo lực gây hận thù rộng
khắp đất nước và gieo rắc hận thù sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam.
Tất cả sử sách của
đảng Cộng sản Việt Nam, của Nhà nước Cộng sản Việt Nam đều thú nhận rằng cuộc
cách mạng tháng tám năm 1945 là cuộc cướp chính quyền của những người Cộng sản.
Cướp là bất chính, là bạo lực. Một Nhà nước ra đời trong bạo lực, tồn tại bằng
bạo lực không thể là Nhà nước lương thiện, tử tế! Nhà nước không lương thiện,
tử tế tất yếu tạo ra xã hội không lương thiện, tử tế. Xã hội Việt Nam hôm nay
là xã hội như vậy, xã hội lừa đảo, bạo lực và hận thù! Bạo lực và hận thù biến
con người thành con thú! Bạo lực và hận thù man rợ như xã hội thời hồng hoang
chưa có luật pháp!
Ông Hồ Chí Minh năm 1945
(files photos)
2. Vì lợi ích giai cấp
hư vô từ bỏ lợi ích dân tộc thiết thực. Đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến
tương tàn
Năm 1954, phần lớn lực
lượng của đội quân xâm lược Pháp ở Đông Dương đã bị tiêu diệt ở Điện Biên Phủ.
Cả hệ thống phòng thủ của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ đã bị vô hiệu, bị nhấn chìm
trong biển lửa chiến tranh du kích. Binh đoàn chủ lực mạnh của Pháp ở miền
Trung bị đánh tan tác ở đèo An Khê. Cả hệ thống đồn bốt của Pháp ở miền Đông và
miền Tây Nam Bộ đã tự tan rã từng mảng lớn. Hai phần ba lãnh thổ Việt Nam đã
được giải phóng khỏi đội quân xâm lược Pháp. Quân xâm lược chỉ còn giữ được những
thành phố, thị xã ở đồng bằng nhưng phần lớn người Dân trong những thành phố,
thị xã đó cũng là những người Việt Nam yêu nước, chống Pháp. Trong khi đội quân
xâm lược Pháp lực đã kiệt, thế đã tàn thì lực lượng kháng chiến giành độc lập
đã lớn mạnh, đang bừng bừng xốc tới, chỉ dấn thêm một bước là cả nước sạch bóng
giặc ngoại xâm.
Nhưng những người Cộng
sản đặt giá trị giai cấp lên trên giá trị dân tộc thì giải phóng dân tộc không
phải là mục đích duy nhất và cao nhất của họ. Với ý thức hệ giai cấp, những
người Cộng sản Việt Nam coi giải phóng dân tộc không phải là mục đích mà chỉ là
phương tiện để họ làm cách mạng vô sản thế giới, coi cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc Việt Nam chỉ là một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản thế giới, coi đất
nước, dân tộc chỉ là “tiểu cục” trong cái “đại cục” cách mạng vô sản thế giới.
Giá của văn hóa dân
tộc và đạo lí Việt Nam bị hủy hoại, bị vất bỏ! Một dân tộc tồn tại bằng yêu
thương trở thành dân tộc ứng xử với nhau bằng bạo lực và hận thù! Nhà nước tùy
tiện sử dụng bạo lực với người Dân đã trở thành tấm gương cho xã hội để xã hội
Việt Nam trở thành xã hội bạo lực, bất an, man rợ
Ngạo ngược và hợm hĩnh
đưa lá cờ búa liềm của chỉ một giai cấp, giai cấp công nông bần cùng, lá cờ vay
mượn từ xứ người và chung chạ với xứ người lên ngang với lá cờ Tổ quốc Việt
Nam, những người Cộng sản Việt Nam thẳng thừng tuyên bố rằng với họ, Tổ quốc
Việt Nam không phải là trên hết! Vì lá cờ vay mượn và chung chạ đó, những người
Cộng sản đã chuyển hướng cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành cuộc chiến
tranh ý thức hệ giai cấp. Cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đang
băng băng đi đến thắng lợi hoàn toàn bị buộc phải dừng lại để làm nhiệm vụ giai
cấp. Đặt trên đôi vai dân tộc Việt Nam nghèo khổ, gày guộc cuộc chiến tranh ý
thức hệ khốc liệt của cách mạng vô sản thế giới, những người Cộng sản lạnh lùng
chia đôi đất nước Việt Nam yêu thương thành hai trận địa, hai tiền đồn chĩa
súng vào nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam yêu nước thương nòi thành hai đội quân
xung kích của hai phe ý thức hệ quyết liệt lăn xả vào nhau chém giết, tiêu diệt
nhau, đẩy dân tộc Việt Nam vào cuộc nội chiến Bắc – Nam đẫm máu suốt hai mươi
năm trời!
Trong khi những người
Cộng sản Việt Nam nông cạn và không đủ tầm văn hóa để ý thức về giá trị dân tộc
nên đã vì lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ của giai cấp vô sản thế giới mà
từ bỏ lợi ích dân tộc để làm tên lính xung kích của cuộc cách mạng vô sản thế
giới, thì những người Cộng sản đàn anh Tàu Cộng lại núp dưới lá cờ búa liềm vay
mượn và chung chạ đó để vụ lợi, để mưu lợi ích cho Tàu Cộng. Họ mượn máu của
dân tộc Việt Nam làm vốn liếng chính trị cho Tàu Cộng, để Nhà nước công nông
Tàu Cộng từ bóng tối nội chiến, nghèo đói, lạc hậu bước ra ánh sáng thế giới.
Ép Việt Nam chấp nhận tham gia hội nghị Geneve năm 1954 chấm dứt cuộc chiến
tranh Đông Dương để Tàu Cộng có cơ hội lần đầu tiên được bước lên vũ đài chính
trị thế giới, giành được vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thế giới.
Lấy máu của dân tộc Việt Nam mặc cả với tư bản thế giới kiếm chác lợi ích cho
Tàu Cộng, những người Cộng sản Tàu còn lấy đấu tranh giai cấp để chia rẽ dân
tộc Việt Nam, đánh tan rã khối đoàn kết dân tộc, lấy chiến tranh ý thức hệ
khoét vết thương nhức nhối trong lòng dân tộc Việt Nam, làm suy yếu dân tộc
Việt Nam, buộc Việt Nam mãi mãi phụ thuộc vào Tàu Cộng, mãi mãi là chư hầu của
Tàu Cộng để Tàu Cộng thực hiện giấc mộng thôn tính, bành trướng mà tổ tiên họ
ôm ấp từ ngàn đời vẫn chưa thực hiện được.
Nông cạn, không xứng
tầm lịch sử, không mang hồn dân tộc, không đau đáu với lợi ích dân tộc, những
người Cộng sản Việt Nam đã không thấy được mưu đồ Đại Hán Tàu Cộng, răm rắp
chấp nhận sự áp đặt của Tàu Cộng, cúi đầu kí hiệp định Geneve năm 1954 chấp
nhận ngừng cuộc chiến giải phóng hoàn toàn đất nước, chấp nhận chia đôi đất
nước Việt Nam yêu thương, chia đôi dân tộc Việt Nam ruột thịt thành hai nửa đối
kháng một mất một còn với nhau!
Bà bán hàng rong trên
đường phố Saigonnhững năm gần đây. AFP
Ngăn chặn cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn, chia cắt
đất nước, chia cắt dân tộc Việt Nam thành hai nửa thù địch nhau, Hiệp định
Geneve năm 1954 là thất bại ê chề, đau đớn mà những người Cộng sản Việt Nam đã
mang lại cho dân tộc Việt Nam. Từ đây dân tộc Việt Nam có lịch sử hào hùng bốn
ngàn năm kiêu hãnh là dân tộc độc lập tự chủ trở thành dân tộc tội nghiệp bị
cột chặt vào cuộc chiến tranh ý thức hệ vô nghĩa của thế giới Cộng sản, phải đổ
máu cho cuộc chiến tranh ý thức hệ vay mượn của cách mạng vô sản thế giới. Từ
đây, độc lập dân tộc đã thực sự bị mất!
Ngày 20 tháng bảy năm
1954 ở Geneve, Thụy Sĩ, những người Cộng sản Việt Nam kí kết Hiệp đinh đình
chiến, chia cắt đất nước thì ngay hôm sau, ngày 21 tháng bảy, ở những vùng đất
Việt Nam ngoài vòng kiểm soát của những người Cộng sản, người dân đồng loạt
treo cờ rủ để tang cho nền độc lập dân tộc bị giết chết, để tang đất nước chia
cắt thành hai quốc gia đối kháng, để tang dân tộc Việt Nam bị chia cắt thành
hai thế lực thù địch nhau, để tang cho nhiều gia đình bị chia đôi thành hai
trận tuyến bắn giết nhau, để tang cuộc nội chiến không tránh khỏi, để tang cho
những thế hệ tuổi trẻ Việt Nam bị thiêu hủy trong ngọn lửa chiến tranh, để tang
sớm cho hàng triệu người Việt thiệt mạng trong cuộc nội chiến ý thức hệ vô
nghĩa đó!
Đưa giá trị giai cấp
hư vô lên trên giá trị dân tộc thiết thực, những người Cộng sản Việt Nam đã đưa
dân tộc Việt Nam đi từ cuộc chiến tranh khốc liệt này đến cuộc chiến tranh khốc
liệt khác. Cuộc nội chiến Bắc – Nam 20 năm. Cuộc chiến tranh Campuchia hơn 10
năm. Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 10 năm. Đi từ cuộc đấu tố thanh trừng
tàn bạo này đến cuộc đấu tố thanh trừng tàn bạo khác. Những cuộc đấu tố thanh
trừng trong cải cách ruộng đất, trong cải tạo tư sản, trong vụ Nhân văn Giai
phẩm, trong vụ xét lại chống đảng đã bắn giết, đày ải, loại bỏ hàng triệu người
Việt Nam tinh hoa, ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam, những người đã làm nên niềm
tự hào Việt Nam thời xã hội Việt Nam giã từ nền sản xuất nông nghiệp cơ bắp tăm
tối đi tới xã hội công nghiệp ánh sáng cùng loài người văn minh.
Trong khi những người
Cộng sản Việt Nam nông cạn và không đủ tầm văn hóa để ý thức về giá trị dân tộc
nên đã vì lá cờ búa liềm vay mượn và chung chạ của giai cấp vô sản thế giới mà
từ bỏ lợi ích dân tộc để làm tên lính xung kích của cuộc cách mạng vô sản thế
giới
Những người Việt Nam
yêu nước thương nòi, những người Việt Nam chân chính hôm nay nói tiếng nói của
lịch sử, của đạo lí, của văn hóa Việt Nam đòi vất bỏ gông cùm chủ nghĩa Mác Lê
nin sai lầm tội lỗi, vất bỏ gông cùm ý thức hệ giai cấp phản dân tộc để thoát
khỏi thân phận nô lệ Bắc thuộc đều bị Nhà nước Cộng sản coi là thế lực thù
địch, bị bộ máy chuyên chính của Nhà nước Cộng sản giám sát, theo dõi như những
người tù ngay tại nhà mình. Nhiều người Việt Nam chân chính bất hạnh hơn, người
trước người sau đang lần lượt vào những nhà tù khắc nghiệt, những địa ngục trần
gian được Nhà nước Cộng sản xây dựng, mở rộng trên khắp đất nước Việt Nam. Dùng
ngục tù phân loại người Dân. Những người Dân khảng khái, trung thực đều bị tống
vào ngục tù để xã hội Việt Nam chỉ còn bầy cừu cam chịu dưới sự chăn dắt của
bạo lực Cộng sản, để dân tộc Việt Nam chỉ còn là sắc tộc Việt thiểu số của Đại
Hán, chỉ còn là những thân phận nô lệ của Nhà nước độc tài đảng trị.
3. Kiên trì chủ nghĩa
Mác Lê Nin, kiên trì đấu tranh hận thù giai cấp, dù đất nước thống nhất đã bao
lâu thì dân tộc Việt Nam vẫn mãi li tán
Khi những người Cộng
sản đàn anh Tàu Cộng, Nga Cộng ép những người Cộng sản Việt Nam phải kí hiệp
định Geneve chia đôi đất nước Việt Nam là họ đã chọn dải đất Việt Nam làm bãi
chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ và chọn dân tộc Việt Nam làm vật hi
sinh trong cuộc chiến tranh đó để đất nước họ yên ổn xây dựng, phát triển.
Chính chủ nghĩa Mác Lê
nin đã tạo ra không gian lịch sử, yếu tố xã hội và phát động cuộc chiến tranh ý
thức hệ đẫm máu và vô nghĩa. Xã hội tư bản đưa giới chủ, đưa những người giàu có
của cải, giầu có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Với xã hội tư bản, Cái
Tôi của người Dân được nhìn nhận, cá nhân được khẳng định, quyền con người được
luật pháp bảo đảm. Mỗi người tồn tại trong cuộc đời là một cá nhân, phải đến xã
hội tư bản công nghiệp mới có được điều bình thường mà vĩ đại đó. Từ bầy đàn đi
đến cá nhân, đó là một bước tiến vĩ đại của tiến trình lịch sử loài người. Cá
nhân được giải phóng, những con người khổng lồ xuất hiện đưa xã hội loài người
thực sự bước vào thời ánh sáng văn minh và phát triển huy hoàng.
Xã hội Cộng sản đưa
giai cấp công nông, những người lao động làm thuê, lao động cơ bắp, không có
của cải, không có trí tuệ lên làm chủ Nhà nước và xã hội. Trong xã hội Cộng sản
chỉ những người nắm quyền lực trong đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng sản mới có
Cái Tôi, mới có cá nhân, còn người dân chỉ là đám đông, là bầy đàn, không có cá
nhân. Đó là xã hội mông muội, tối tăm, là một bước thụt lùi thảm hại của lịch
sử, một nỗi đau nhân loại.
Chủ nghĩa Mác Lê nin
giao nhiệm vụ lịch sử cho giai cấp công nhân, những người lao động cơ bắp làm
thuê không của cải, không tri thức phải quyết đào mồ chôn những ông chủ tư bản
giầu có của cải và trí tuệ. Chủ nghĩa Mác Lê nin giao nhiệm vụ lịch sử cho chế
độ Cộng sản kéo lùi lịch sử phát triển loài người về thời tối tăm phải quyết
tiêu diệt chế dộ Tư bản đã đưa xã hội loài người tới ánh sáng văn minh. Nhiệm
vụ lịch sử đó của những người Cộng sản, của giai cấp vô sản thế giới đã tạo ra
chiến tranh ý thức hệ, đẩy nhân dân vào những cuộc đấu tố, thanh trừng, thảm
sát, đẩy loài người vào những cuộc chiến tranh liên miên. Vì thế, về thực chất
cuộc chiến tranh ý thức hệ là cuộc chiến tranh bóng tối mông muội quyết tiêu
diệt ánh sáng văn minh và ánh sáng văn minh quyết đẩy lùi bóng tối mông muội!
Vì là cuộc chiến tranh
ý thức hệ nên nước Mĩ hùng mạnh của thế giới tư bản phải tham chiến trong cuộc
chiến tranh Việt Nam để ngăn chặn bóng tối Cộng sản lan ra thế giới. Có sức
mạnh kinh tế và quân sự không nước nào sánh được nhưng nước Mĩ vẫn phải chuốc
lấy thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam vì chiến thắng của cuộc chiến
tranh nào xét cho cùng cũng là chiến thắng của văn hóa, của đạo lí. Những người
Cộng sản Việt Nam đã giấu kín cuộc chiến tranh ý thức hệ dưới danh nghĩa cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Người Dân Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh ý
thức hệ là những nạn nhân, những vật hi sinh nhưng với tư thế những anh hùng xả
thân chống Mĩ cứu nước và chiến thắng đã thuộc về những người anh hùng đó. Đó
là chiến thắng của văn hóa, của lẽ sống Việt Nam. Đó là chiến thắng của những
người mẹ lần lượt tiễn đến đứa con cuối cùng ra trận và những đứa con ấy đã lần
lượt bỏ mình trên những ngả đường chiến trận để làm nên chiến thắng dâng lên
người mẹ nghèo khổ mà giầu lòng yêu nước thương nòi, dâng lên Mẹ Tổ quốc Việt
Nam.
Không vì lợi ích dân
tộc, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trói mình trong ý thức hệ giai cấp, làm cho
Việt Nam không thể hòa nhập với thế giới, đánh mất tình yêu của thế giới, đánh
mất nguồn lực lớn lao của thế giới dành cho Việt Nam
Sau chiến thắng đó,
sau ngày 30 tháng tư năm 1975, cuộc chiến tranh Nam – Bắc núi xương, sông máu
chấm dứt, một thời cơ phát triển, chấn hưng đất nước vô cùng thuận lợi đã mở
ra. Chưa bao giờ Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển thuận lợi như lúc đó.
Nhưng với tầm văn hóa thấp kém, không vượt được lên trên các chủ nghĩa, làm chủ
các chủ nghĩa nên chỉ giáo điều, dập khuôn, làm nô lệ của chủ nghĩa Mác Lê nin
lầm lạc, phản dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam không vì lợi ích
dân tộc, vẫn nhìn thế giới và nhìn dân tộc mình bằng con mắt hận thù giai cấp,
vẫn mê muội lấy đấu tranh giai cấp ứng xử với thế giới và lấy đấu tranh giai
cấp chống phá, nô dịch chính dân tộc mình, tù đày chính Nhân Dân mình, những
người lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ thời cơ lịch sử để Việt Nam bước
lên đường phát triển, hòa nhập cùng loài người văn minh.
Không vì lợi ích dân
tộc, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trói mình trong ý thức hệ giai cấp, làm cho
Việt Nam không thể hòa nhập với thế giới, đánh mất tình yêu của thế giới, đánh
mất nguồn lực lớn lao của thế giới dành cho Việt Nam
Dân tộc Việt Nam bé
nhỏ, nghèo khổ phải chịu những đau thương mất mát quá lớn để chiến thắng một
lực lượng quân sự hùng mạnh nhất thế giới. Cả thế giới ngả mũ kính chào Việt
Nam, vui mừng mở vòng tay đón Việt Nam hòa nhập với cuộc sống thanh bình của
thế giới. Cả thế giới động lòng trắc ẩn trước hi sinh mất mát đau thương của
Việt Nam, muốn bù đắp, chia sẻ với Việt Nam, muốn giúp Việt Nam xây dựng lại
đất nước. Cả nước Mĩ thua trận cũng muốn làm lành với Việt Nam bằng việc chủ
động đề nghị bình thường hóa quan hệ hai nước để nước Mĩ có trách nhiệm với
Việt Nam sau chiến tranh.
Nếu đảng Cộng sản Việt
Nam thực sự là đại biểu trung thành lợi ích của cả dân tộc Việt Nam như họ vẫn
xưng xưng tự nhận, thực sự vì lợi ích dân tộc thì họ phải ý thức được trách
nhiệm về nỗi đau mất mát quá lớn mà dân tộc Việt Nam phải nhận khi là công cụ,
là vật hi sinh của cuộc chiến tranh ý thức hệ. Nhận trách nhiệm để thấy việc
phải làm là nhanh chóng thoát ra khỏi thân phận công cụ của ý thức hệ, trở về
với dân tộc, vì lợi ích dân tộc mà bình thường hóa quan hệ với Mĩ, mở ra thời
kì mới hòa nhập với thế giới, đón nhận thành tựu khoa học kĩ thuật của thế giới
và quan trọng nhất là khoa học kĩ thuật hiện đại và nguồn vốn đầu tư lớn từ
nước Mĩ để xây dựng cuộc sống mới cho Nhân Dân.
Không bận tâm đến lợi
ích dân tộc, vẫn trói mình trong chủ nghĩa Mác Lê nin chỉ biết có giai cấp, lạc
lõng trong tình cảm vay mượn hận thù giai cấp, đánh tráo chiến thắng bằng giá
máu quá đắt của dân tộc Việt Nam là chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê nin, lại
sẵn thói kiêu ngạo Cộng sản, những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam vênh váo
đưa ra cớ đòi Mĩ bồi thường chiến tranh để từ chối bình thường hóa quan hệ với
nước Mĩ thua trận. Cùng với những sai lầm tệ hại khác, vênh váo không bình
thường hóa quan hệ với Mĩ dẫn đến cuộc cấm vận của Mĩ kéo dài suốt hai mươi
năm. Lệnh cấm vận của Mĩ đã dựng bức tường sừng sững ngăn cách Việt Nam với thế
giới, chặn đứng dòng vốn đầu tư, dòng khoa học kĩ thuật, công nghệ hiện đại của
thế giới chảy vào Việt Nam làm cho đất nước Việt Nam chìm sâu trong nghèo đói,
khủng hoảng, kinh tế kiệt quệ, người Dân khổ cực, thiếu thốn đủ bề.
Vài tỉ tiền Mĩ bồi
thường chiến tranh ném vào cái túi thủng của Nhà nước tham nhũng nào có thấm
tháp gì so với hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ đô la mà các nước phát triển đầu tư
vào nền kinh tế Việt Nam khi bình thường hóa quan hệ với Mĩ.
Không vì lợi ích dân
tộc, vẫn lấy đấu tranh giai cấp chống phá dân tộc, đánh mất cả nội lực to lớn,
đánh mất cả sức sống mạnh mẽ và sức sáng tạo vô tận của dân tộc Việt Nam
Năm 1954, những người
Cộng sản nhẫn tâm chia đôi đất nước Việt Nam đã tạo ra hai dòng chảy Nam – Bắc
ngược chiều nhau. Dòng chảy nhỏ bé, ngắn ngủi của gần hai trăm ngàn cán bộ, bộ
đội miền Nam tập kết ra Bắc và dòng chảy ồ ạt, mạnh mẽ, kéo dài của hai triệu
người Dân miền Bắc di cư vào Nam.
Năm 1975 kết thúc cuộc
chiến tranh Nam Bắc, lại có hai dòng chảy Nam Bắc ngược chiều nhau. Một dòng
chảy của những người thân trong những gia đình bị trận tuyến ý thức hệ chia cắt
hai mươi năm tìm về với nhau. Nhưng chỉ có người từ miền Bắc ào ào đổ vào miền
Nam. Người thắng cuộc hồ hởi tìm đến người mặc cảm thua cuộc. Dòng chảy Bắc -
Nam. Đó là dòng chảy tự nhiên. Nhưng còn có dòng chảy do những người say máu
đấu tranh giai cấp tạo ra, những người chỉ biết có giai cấp, không biết đến dân
tộc, những người cuồng tín, nô lệ của học thuyết đấu tranh giai cấp, dùng bạo
lực giai cấp vô sản quyết tiêu diệt dân tộc Việt Nam đến cùng. Dòng chảy của
hàng trăm ngàn người đã tham gia bộ máy quân sự và bộ máy Nhà nước của chính
quyền Sài Gòn thua cuộc bị dẫn giải ra miền Bắc tống vào các nhà tù được mang
tên là các trại cải tạo. Dòng chảy Nam – Bắc.
Không biết nhận ra
đường về với dân tộc, những người lãnh đạo Cộng sản vẫn lấy giai cấp vay mượn
đánh phá dân tộc ruột thịt của mình. Bài bản đấu tranh giai cấp đã làm kiệt quệ
miền Bắc là cải tạo tư sản lại được áp dụng ở miền Nam làm kiệt quệ cả miền
Nam. Tư sản dân tộc miền Nam đông đảo và giàu có đã tạo ra cả một nền công
nghiệp hiện đại và thương nghiệp phát triển hòa nhập với thị trường thế giới.
Tước đoạt quyền làm chủ của những người biết làm chủ. Giao cơ sở sản xuất kinh
doanh của họ cho những người không biết sản xuất kinh doanh, không có mối quan
hệ giao thương với thế giới đã phá hủy cả một nền công thương nghiệp dân tộc
phát triển, cắt đứt mối quan hệ giao thương với thị trường thế giới. Việt Nam
tự cô lập trong nghèo đói.
Bài bản đấu tranh giai
cấp là duy trì và khoét sâu mãi trận tuyến giai cấp, trận tuyến địch – ta trong
lòng dân tộc Việt Nam. Đưa súng đạn, thuốc nổ và những tay súng AK vào miền Nam
thổi bùng lên ngọn lửa chiến tranh người Việt giết người Việt. Chiến tranh kết
thúc, những họng súng AK lại gom hàng trăm ngàn người trong bộ máy Nhà nước và
bộ máy quân sự miền Nam vào những nhà tù rải rác ở vùng rừng núi khắc nghiệt
miền Bắc. Những người làm nên bộ máy Nhà nước và bộ máy quân sự miền Nam là lực
lượng tinh hoa, ưu tú nhất của xã hội miền Nam và cũng là nguồn lực con người
lớn lao và quí giá của dân tộc Việt Nam. Tù đày họ không những hủy bỏ một nguồn
lực lao động cao cấp mà còn tiếp tục nuôi dưỡng hận thù trong lòng dân tộc, li
tán dân tộc.
Những đòn đấu tranh
giai cấp khốc liệt đó liên tiếp đánh những đòn chí tử vào dân tộc Việt Nam.
Đánh vào nội lực, đánh vào lực lượng sản xuất tạo ra của cải xã hội làm cho đất
nước đã nghèo càng nghèo thêm. Đánh vào lòng tin làm cho người dân thấy bế tắc,
không còn lòng tin vào ngày mai. Đánh vào tình cảm dân tộc, đánh vào lòng yêu nước
làm cho người dân dù nặng lòng với nước cũng không tìm thấy chỗ đứng trên đất
nước thân yêu phải bỏ nước ra đi tạo ra dòng người đổ ra biển vượt biên kéo dài
trong nhiều năm, ồ ạt vào những năm từ 1975 đến 1990 và rải rác đến tận hôm
nay.
Dòng thác người trên
biển đi tìm cái sống trong cái chết đã tạo ra hình ảnh một Việt Nam đau thương,
tủi nhục trước con mắt thế giới và thế giới đã phải tạo ra một từ mới Boat
People - Thuyền Người để gọi những người Việt Nam khốn khổ này. Chạy trốn đòn
đấu tranh giai cấp tàn độc của những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam, hơn ba
triệu người Việt Nam tìm đến vòng tay nhân hậu cưu mang của các dân tộc trên
thế giới, khoét sâu sự li tán trong lòng dân tộc Việt Nam đến nay vẫn chưa thể
hàn gắn. Nửa triệu người vùi xác dưới biển trong cuộc chạy trốn những người
lãnh đạo Cộng sản lấy giai cấp tiêu diệt dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam không
thể trốn trách trách nhiệm về cái chết mất xác của nửa triệu người Việt Nam
này.
Lấy giai cấp thống trị
dân tộc. Lấy đấu tranh giai cấp đánh tan tác, li tán dân tộc. Mang gia sản
thiêng liêng vô giá của dân tộc ra đánh đổi lấy liên minh giai cấp, liên minh ý
thức hệ như chia đôi đất nước, chia dân tộc Việt Nam ra làm hai nửa đối kháng
chém giết nhau. Vạch trận tuyến chiến tranh ý thức hệ trong lòng dân tộc Việt
Nam. Đưa nhân dân Việt Nam ra làm vật hi sinh trong cuộc chiến tranh đó. Cắt
đất đai thiêng liêng của tổ tiên cho Tàu Cộng để duy trì liên minh ý thức hệ
với Tàu Cộng, để duy trì sự thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam .
. . Còn vô vàn dẫn chứng không thể kể xiết về lịch sử tồn tại của đảng
Cộng sản Việt Nam là lịch sử thí bỏ lợi ích to lớn của dân tộc Việt Nam vì lợi
ích nhỏ bé của đảng. Những dẫn chứng này, lịch sử sẽ không bỏ sót và lịch sử sẽ
phán xét công bằng, sòng phẳng.
Không thể nhắm mắt
trước lịch sử và không thể lừa dối nhân dân khi cố tình ghi trong điều 4 Hiến
Pháp rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đại biểu trung thành lợi ích cả dân tộc Việt
Nam!
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment