ĐẶC
LỢI – TỘI ĐỒ
Công an đàn áp Giáo xứ Mỹ Yên 04-09-2013
Phạm Chí Dũng, theo BVN
Ở Việt Nam, EVN là một trong những dẫn chứng
sống động và dối trá nhất về việc người ta đã mượn dĩ vãng kinh tế chỉ huy để
trục lợi như thế nào. Trong điều kiện nền chính trị độc đảng, thủ đoạn lợi dụng
càng trở nên có ý nghĩa hơn. Độc quyền và đặc lợi cũng vì thế đồng nghĩa với
tội đồ, đối với nền kinh tế và đời sống dân sinh.
Bù lỗ vào dân!
Tháng 10/2013. Tròn hai năm từ thời điểm nhiều
khuất tất của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) lần đầu tiên được lôi ra ánh
sáng. Một lần nữa, báo chí trong nước phải dùng đến từ “phẫn nộ” đối với điều
bị xem là tội ác của một tập đoàn luôn được chở che bởi cơ chế đặc quyền đặc lợi.
Hai năm trước, vào lúc nền kinh tế Việt Nam
dợm chân vào suy thoái, sự đổ bể của hai thị trường chứng khoán và bất động sản
đã kéo theo một phát minh không tiền khoáng hậu kể từ thời mở cửa: những doanh
nghiệp nhà nước đặc trưng bởi chủ thuyết “giá chỉ có tăng chứ không giảm” như
EVN và Petrolimex (Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam) đã tạo thành cặp song sinh có
chung hậu môn. Hàng loạt chiến dịch đầu tư trái ngành của các tập đoàn này vào
chứng khoán, bất động sản và bảo hiểm rốt cuộc đã tích đọng gánh nợ đến trên
40.000 tỷ đồng.
Trong suốt hai năm qua, toàn bộ số nợ nần đó
đã được EVN và Petrolimex tuồn qua tuyến đại tràng để đổ lên đầu người dân đóng
thuế.
Nhưng cũng trong suốt hai năm qua, bất chấp
những đợt tăng giá điện vô tội vạ của EVN, đã không có bất cứ cuộc kiểm tra nào
được làm tới nơi tới chốn. Tất cả những dấu hiệu khuất lấp về tài chính và số
lương “nghèo khổ” ít nhất vài chục triệu đồng theo đầu người ở tập đoàn này mà
dư luận bức xúc từ năm 2011, đã hầu như không được cơ quan chủ quản của EVN là Bộ
Công thương đón nhận. Không những thế, những lãnh đạo cao nhất của Bộ Công
thương như ông Vũ Huy Hoàng vẫn không ngơi nghỉ một chiến dịch khác: PR cho
“cậu ấm hư hỏng” của mình.
Đó là một dạng PR không mới, nhưng lại chỉ
được dư luận người dân Việt đặt tên chính thức từ năm 2012: PR chính sách. Chủ
thể của hoạt động này chính là cái tên “nhóm thân hữu” – một chủ đề mà chưa một
ủy viên Bộ Chính trị nào dám mổ xẻ trước bàn dân thiên hạ.
Nhóm thân hữu, về bản chất, lại có mối quan hệ
ruột rà và móc xích giữa các chính khách ở các cấp khác nhau, từ dưới lên và từ
trên xuống. Trong từng trải của người dân Hà Nội, thực tế sinh tồn của các
doanh nghiệp lệ thuộc vào chính sách từ nhiều năm qua đã chứng tỏ một nguyên
tắc bất thành văn là chỉ có chính sách mới tạo ra được lợi nhuận, để đến lượt
mình, lợi nhuận phải quay lại “nuôi” chính sách.
Không quá khó hiểu là những động thái PR chính
sách đã xuất hiện không ít lần, kể cả ở cấp Chính phủ. Cũng không ít lần, cứ
sau cuộc họp thường kỳ hàng tháng của Chính phủ, phát ngôn viên của cơ quan này
là Bộ trưởng Vũ Đức Đam – người đang được hứa hẹn sẽ “nâng lên một tầm cao mới”
– lại đăng đàn với những lời lẽ lấp lửng về lộ trình tăng giá của EVN và
Petrolimex.
Nhưng không giống với sự mơ hồ vô cùng tận của
cụm từ “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, kết quả của sự lấp
lửng từ các nhóm lợi ích thời nay thường dẫn đến thái độ tăng giá “quyết liệt”
– từ ngữ mà giới lãnh đạo chính phủ hay dùng – ngay sau đó.
Như một quy luật, giá điện và giá xăng dầu tìm
mọi cách tăng vào thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội. Còn trong thời gian phiên
họp Quốc hội, những nhà làm giá lập tức áp dụng chính sách giảm giá, nhưng chỉ
là giảm cho có, để thường sau khi Quốc hội “thành công tốt đẹp”, giá lại ào ào
tăng lên.
“Giết sống” dân chúng
Giá xăng dầu và điện lực tăng tất yếu dẫn đến
lạm phát. Trong thực tế, chỉ số tiêu dùng CPI bị tác động không nhỏ và lập tức
kích hoạt hàng loạt đợt tăng giá của hàng tiêu dùng, thực phẩm, giá vận tải
hành khách và hàng hóa, giá nhà trọ…, làm khốn khó hơn cho đời sống dân nghèo
vốn đã quá khó khăn.
Đời sống dân sinh ấy lại liên đới quá đỗi hữu
cơ với một phần lớn lực lượng vũ trang và công chức viên chức nhà nước. Một
viên thiếu tá an ninh than thở “Không thể tích lũy được chỉ với chục triệu bạc
lương, vì điện và xăng ngốn hết cả rồi”.
Thế nhưng đối mặt với tất cả những trớ trêu và
nghịch lý tận cùng ấy, lãnh đạo Bộ Công Thương vẫn im lặng, trong khi vài ba
viên chức cấp vụ của bộ này vẫn cố gắng “an dân” bằng thuyết minh việc tăng giá
xăng dầu và điện không ảnh hưởng nhiều đến CPI.
Phụ họa cho điều được coi là “ảnh hưởng không
nhiều” trên, các nhà làm thống kê Việt Nam luôn đưa ra những con số không cần
nguồn gốc. Chỉ có điều cho đến nay, rất nhiều người dân và cả giới chuyên gia
nhà nước đã không còn tin vào các con số thống kê nữa. Một trong những scandal
lớn nhất vừa xảy ra là giới chuyên gia phản biện đã thẳng thừng vạch ra hiện
tượng “GDP có chân”, châm biếm về tình trạng báo cáo theo chủ nghĩa thành tích
của các địa phương, và ngay cả con số GDP mà lãnh đạo chính phủ nêu ra cũng khó
có thể mang trên mình tính thực chất.
Nhưng hoàn toàn ngược lại, lợi nhuận mới là
thực chất nhất trong tất cả những vụ áp phe đình đám. Một cuộc thanh tra của
Thanh tra chính phủ mới đây đã phát hiện trong bảng giá thành của mình, EVN đã
hạch toán cả các công trình xây bể bơi, sân tennis và biệt thự vào giá bán
điện. Giá bán điện lại được phổ cập cho mặt bằng dân trí thấp kém trong dân
chúng. Và thêm một lần nữa, người ta có được bằng chứng về cái được coi là
“trận đánh đẹp” của EVN: cuộc chiến bù lỗ vào dân.
Sau khi tăng giá liên tục trong hai năm qua,
nợ ngân hàng của EVN đã được rút bớt. Nhưng chỉ là bớt một ít. Với hơn 30.000
tỷ đồng thất bát từ đầu tư trái ngành, EVN luôn phải đối mặt với tương lai phá
sản nếu không thanh toán được cho các chủ nợ.
Trong khi đó, một con số lần đầu tiên được
công bố là EVN chính là doanh nghiệp vay nợ ngân hàng lớn nhất Việt Nam, với
hơn 118.000 tỷ đồng. Đây là mức dư nợ lớn nhất mà hệ thống ngân hàng dành cho
một tập đoàn nhà nước.
Với nợ nần khổng lồ và số lỗ do đầu tư trái
ngành, người ta ước tính EVN phải tăng giá điện liên tục đến năm 2017-2018 thì
mới may ra “hòa vốn”.
Thế nhưng cái điểm hòa vốn đầy tính nhân quả
ấy lại có thể khiến những người dân nghèo nhất phải quyên sinh. Bởi theo nguyên
lý từ thời tư bản dã man, nếu doanh nghiệp độc quyền hòa vốn, nhân dân phải
chịu lỗ; còn khi doanh nghiệp độc quyền có được lợi nhuận, nhân dân chắc chắn
phải mất đi phần lớn thu nhập của mình.
Không chỉ mất tài sản, người dân còn phải trả
giá bằng cả sinh mạng bởi lối hành xử vô lương tâm của những quan chức độc
quyền nhà nước. Vụ xả lũ không thông báo trước ở Đắc Lắc vào tháng 9/2013 chính
là một cách “giết sống” 12 cư dân nghèo nàn nơi rốn lũ, với trách nhiệm không
chỉ thuộc về doanh nghiệp thủy điện và chính quyền Đắc Lắc, mà còn liên đới đến
những lãnh đạo của EVN.
Tuy nhiên sau vụ “giết sống” trên, những phóng
viên báo chí quốc doanh đành ôm hận vì bị giới tuyên giáo “chặn họng”. Cũng
không có bất kỳ một quan chức vô trách nhiệm nào phải đối mặt với vành móng
ngựa.
Tán tận lương tâm chắc chắn là từ ngữ hiển thị
đầy đủ nhất tâm địa của các doanh nghiệp độc quyền trong những năm suy thoái
kinh tế qua. Kinh tế càng xuống dốc, đời sống người dân càng túng quẫn, chủ
nghĩa thực dụng và lợi nhuận càng lên ngôi, thái độ sống chết mặc bay càng đội
mồ sống dậy.
Truy cứu độc quyền!
Sự tán tận lương tâm của quan chức và hậu quả
của nó không thể không liên quan đến trách nhiệm của giới lãnh đạo chính phủ,
những người đã im lặng hoặc “bật đèn xanh” cho EVN và Petrolimex gây nên các
chiến dịch tăng giá vào thời gian giữa hai kỳ quốc hội.
Không chỉ bị lên án bởi dư luận trong nước,
khối u độc quyền doanh nghiệp quốc doanh ở Việt Nam còn bị nhiều chính phủ xã
hội dân sự trên thế giới và các tổ chức quốc tế chỉ trích kịch liệt, bởi hiện
trạng bệnh hoạn đó đi ngược lại với những cam kết về “hoàn thiện nền kinh tế
thị trường” mà chính phủ Việt Nam đã hùng dũng cam kết trước cộng đồng quốc tế.
Hiện trạng bệnh hoạn trên lại liên quan mật
thiết đến chuyến đi lặng lẽ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến New York vào cuối
tháng 9/2013. Trong cuộc gặp gỡ đó, ông Dũng đã đề xuất một sự “linh hoạt” mà
Mỹ và các nước trong Hiệp định đối tác kinh tế xuyên thái Bình Dương (TPP)
“nên” dành cho Việt Nam – như một đặc cách.
Chỉ có điều, làm thế nào để xứng đáng nhận ân
huệ ấy thì phía Việt Nam lại không nêu được một dẫn chứng cụ thể nào. Trong khi
đó, từ bỏ độc quyền là một trong những điều kiện then chốt để Việt Nam có thể
ngẩng mặt ngồi vào bàn đàm phán TPP.
Ít nhất, đã không có một cam kết cụ thể nào
của Việt Nam được phát ra về kế hoạch xóa bỏ thế độc quyền và cải cách doanh
nghiệp nhà nước. Tất cả những gì được hứa hẹn chỉ là “chúng tôi sẽ tiến hành
cải cách”. Song thời gian để cải cách là bao lâu lại tùy thuộc vào lòng hảo tâm
của các nhóm lợi ích đang lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam, và còn lệ thuộc vào
cả lòng thành chính trị của các chính khách của đất nước này.
Nguyên tắc thương mại đa phương quốc tế rất rõ
ràng: chừng nào chưa xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp, Việt Nam chưa thể đủ tư
cách tham dự vào bàn tiệc mà phương Tây đã bày sẵn. Không những thế, hệ quả đó
còn làm ảnh hưởng không nhỏ đến vị thế chính trị của giới chính khách lãnh đạo
trước người dân trong nước và trong mối cộng hưởng với các phản ứng của quốc
tế.
Phản ứng của người dân, như báo chí trong nước
đã phải dùng đến từ “phẫn nộ”, sẽ không thể kéo dài tâm thế chịu đựng mãi. Nếu
ở những quốc gia như Bungaria, toàn bộ chính phủ đã phải từ chức vào đầu năm
2013 sau cú tăng giá điện của hai tập đoàn điện lực tư nhân mà đã khiến cho
hàng chục ngàn người dân Sophia đổ ra đường biểu tình, xã hội Việt Nam cũng có
thể là một hình ảnh tương tự trong không quá lâu nữa.
Sau hai năm kể từ lúc các chiến dịch “thủ ác”
được kích phát dồn dập và bất chấp oán thán dân tình, kẻ tội đồ EVN đã có đủ
thời gian chứng tỏ nó có năng lực gây ra tội ác ghê gớm đến thế nào.
Bất kể động cơ nào, dù thuộc về tranh đấu nội
bộ hay làm dịu tình cảm phẫn uất của dân chúng…, ban lãnh đạo EVN và cơ quan
chủ quản của tập đoàn này là lãnh đạo Bộ Công Thương cũng rất xứng đáng bị Quốc
hội, Thanh tra chính phủ và Bộ Công an tạm đặt ra “ngoài vòng pháp luật” về thế
độc quyền, đồng thời không thể bỏ qua trách nhiệm pháp lý về ít nhất 17 hành vi
có dấu hiệu sai phạm.
P.C.D.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment