Quy
luật của thịnh vượng và khủng hoảng
Vũ Hoàng & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2013-10-23
2013-10-23
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý
kiến của Bạn
- Email
Kỳ họp Quốc hội hôm 20/05/2013 tại Hà Nội.
AFP
Khi Quốc hội Việt Nam bắt đầu một kỳ họp được coi là quan trọng về
cải tổ chính sách thì đảng Cộng sản Trung Quốc chuẩn bị một kỳ họp còn chiến
lược hơn về cải cách. Đặt trong bối cảnh chung của những nan đề khó giải, đâu
là cái hướng cải cách của hai nền kinh tế này? Diễn đàn Kinh tế nêu câu hỏi với
chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa.
Thẩm quyền vẫn thuộc về
đảng
Vũ Hoàng:
Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông trong cả một tháng sắp tới kể từ Thứ Hai,
Quốc hội khóa 13 của Việt Nam có kỳ họp thứ sáu để thảo luận và quyết định về
nhiều bước cải tổ chính sách trong bối cảnh kinh tế gặp tốc độ tăng trưởng thấp
nhất kể từ 13 năm nay. Cùng lúc đó, theo dõi tình hình Trung Quốc từ lâu, ông
cũng biết lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Hoa đang chuẩn bị một kỳ họp chiến lược
của Ban chấp hành Trung ương vào tháng tới. Vì vậy, chương trình chuyên đề của
chúng ta sẽ tìm hiểu về việc họp hành và cải cách của hai nền kinh tế này. Xin
ông trình bày cho thính giả của chúng ta nắm rõ bối cảnh.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Về nghị trình thì quả là lần này Quốc hội Việt Nam có một kỳ họp
đầy trọng lượng so với những kỳ trước vì phải thông qua việc cải tổ bản Hiến
pháp hay Luật Đất đai, thảo luận về tái cơ cấu kinh tế, hay về những chỉ tiêu
trong năm, v.v... Tuy nhiên, dù không nói về khả năng tổ chức để các đại biểu
có thể nắm vững hồ sơ và nêu ra những vấn đề thật và đáng quan ngại, thì cơ chế
Quốc hội này vẫn không có thẩm quyền đưa ra những thay đổi cần thiết cho nền
kinh tế và cả tương lai đất nước. Thẩm quyền ấy vẫn thuộc về đảng Cộng sản Việt
Nam.
Cơ chế Quốc hội này vẫn không có thẩm quyền đưa ra những thay đổi
cần thiết cho nền kinh tế và cả tương lai đất nước. Thẩm quyền ấy vẫn thuộc về
đảng Cộng sản Việt Nam.
-Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
-Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Trong ý đó thì lãnh đạo đảng nên chú ý đến kỳ họp Tháng 11 của
đảng Cộng sản Trung Hoa. Lý do là Ban chấp hành Trung ương khóa 13 của đảng Cộng
sản Trung Quốc sẽ có Hội nghị kỳ ba để đưa ra những thay đổi cũng quan trọng
như Hội nghị kỳ ba khóa 13 vào cuối năm 1978 khi Đặng Tiểu Bình quyết định
chuyển hướng qua khẩu hiệu "cải cách và khai phóng". Việc cải cách đó
mở ra 30 năm tăng trưởng kể từ 1979 và cũng phần nào là mẫu mực mà lãnh đạo
Việt Nam đã tiếp thu sau khi đổi mới thật từ năm 1991. Bây giờ, mẫu mực Trung
Quốc đã thành lỗi thời khiến lãnh đạo tại Bắc Kinh muốn đổi thì Hà Nội cần tìm
hiểu để kịp thời cải sửa ngay từ căn bản.
Vũ Hoàng: Có
phải ông đánh giá Hội nghị kỳ ba tới đây của đảng Cộng sản Trung Quốc là một
bước ngoặt mà đảng Cộng sản Việt Nam nên chú ý?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi cho là Hà Nội nên chú ý và sớm chuyển hướng, vì việc ấy tương
đối còn dễ hơn những gì mà lãnh đạo Bắc Kinh phải giải quyết. Muốn như vậy,
mình ta nên mở rộng tầm nhìn về những quy luật có thể đem lại thịnh vượng thì
sẽ hiểu ra vì sao mà Trung Quốc phải đổi để thoát cơn khủng hoảng. Nói cách
khác, nếu nhìn thấy vết xe đổ của xứ láng giềng này thì ta có thể tránh được
tai họa cho quốc gia và dân tộc.
Vũ Hoàng:
Như vậy, chúng ta sẽ tìm hiểu về yêu cầu chuyển hướng của Trung Quốc trong
khuôn khổ của những quy luật có thể đem lại sự thịnh vượng cho quốc gia. Xin
ông bắt đầu.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin được tóm lược như thế này.
Sau 30 năm áp dụng chiến lược ráo riết đầu tư để đạt mức tăng
trưởng cao bằng mọi giá, lãnh đạo Trung Quốc đã thấy cái giá phải trả là quá nặng
nên muốn cải cách. Nhưng giữa lúc đó thì vụ Tổng suy trầm toàn cầu bùng nổ vào
năm 2008 nên họ vẫn cứ nhấn tới theo hướng cũ và gặp nhiều khó khăn hơn. Sau
Đại hội 18 vào năm ngoái, thế hệ lãnh đạo mới đã rà soát tình hình và cố chuyển
hướng trong những điều kiện còn nan giải và bất ổn hơn. Hội nghị kỳ ba vào
tháng tới sẽ cân nhắc về chuyện này. Đó là về bối cảnh chính trị của họ.
Về thực chất kinh tế, chiến lược của Trung Quốc là vắt sức dân qua
chính sách đè nén, thậm chí bóc lột tài chính, để huy động tiết kiệm của dân
chúng đưa vào đầu tư sản xuất. Bóc lột tài chính vì trả lãi suất và tỷ giá
ngoại hối thấp, lương ít và còn hạn chế quyền sinh sống và cư trú của người dân
qua chính sách hộ khẩu để thu vét phương tiện quá rẻ cho sản xuất. Vì sự lệch
lạc về phí tổn, nôm na là giá cả ở đầu vào thấp, sản phẩm dư thừa ở đầu ra được
ào ạt xuất khẩu với giá bèo làm thế giới khâm phục, nhưng lại tích lũy nhiều
thất quân bình nguy hiểm.
Thứ nhất là phương tiện quá rẻ trưng thu của người dân đã đánh sụt
mức tiêu thụ của thị trường nội địa. Thứ hai là chúng lại trút vào khu vực kinh
tế nhà nước kém hiệu năng nên chỉ làm giàu cho thiểu số có chức có quyền và gây
bất công xã hội. Thứ ba là tình trạng kém hiệu năng đã gây lãng phí, dẫn đến
nạn đi vay quá sức, sản xuất thừa và bong bóng đầu cơ. Lồng trong ngần ấy nhược
điểm là các vấn đề xã hội mà trung ương không kiểm soát nổi, như nạn ô nhiễm
môi sinh và tình trạng đô thị hóa và công nghiệp hóa trong hỗn loạn. Bây giờ
thì đà tăng trưởng ấy đã sụt.
Kết cuộc thì dù tự xưng là "xã hội chủ nghĩa", chiến
lược của Trung Quốc vẫn tập trung tiền tài và quyền lực cho một thiểu số nên đi
ngược quy luật của sự thịnh vượng.
Phát triển đồng tiến
Vũ Hoàng:
Ông vừa tóm lược một số vấn đề mà chính Việt Nam cũng đang gặp và muốn cải
sửa, như khu vực kinh tế nhà nước kém hiệu năng, gánh nợ xấu của ngân hàng,
tình trạng bất công xã hội và ô nhiễm môi trường sinh sống trong đà tăng trưởng
đang giảm sút. Nhưng khi ông nói đến "quy luật của sự thịnh vượng"
thì đấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tất cả các nước đi sau, có nền kinh tế gọi là "đang phát
triển" - như Trung Quốc, Việt Nam hay cả trăm xứ khác - đều có thể học từ
các nước công nghiệp hóa những kiến năng về công nghệ hay tổ chức sản xuất để
thoát khỏi tình trạng nghèo đói. Trong hạ bán thế kỷ 20, các nước này đều đã
trước sau nâng cao mức sống của người dân so với quá khứ phải nói là chậm tiến
và nghèo khổ. Nhưng dù có lợi thế đi sau nên học được nhiều điều gần như miễn
phí từ các nước đi trước, không phải xứ nào cũng trở thành quốc gia thịnh
vượng, cụ thể là có lợi tức bình quân một đầu người ở khoảng ba vạn Mỹ kim một
năm. Có lẽ thế giới chỉ có ba trường hợp thành công là Đài Loan, Nam Hàn và xứ
Chile tại Mỹ châu La tinh.
Vũ Hoàng:
Thưa ông vì sao như vậy?
Cụ thể là trong đà tăng trưởng kinh tế, mọi thành phần đều góp sức
và hưởng lợi tức một cách đồng đều. Nhờ vậy mà mọi người đều gắng sức nên kinh
tế và xã hội mới phát triển một cách bền vững.
-Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
-Ô. Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Lý do không phải là địa dư hay nguồn tài nguyên dồi dào dưới lòng
đất, vì thật ra ba nước kể trên đều có bất lợi và không giàu tài nguyên mà chỉ
trong mấy chục năm đã lọt vào hạng giàu có. Lý do là họ biết áp dụng quy luật
của thịnh vượng mà tôi xin gọi là "phát triển đồng tiến". Cụ thể là
trong đà tăng trưởng kinh tế, mọi thành phần đều góp sức và hưởng lợi tức một
cách đồng đều. Nhờ vậy mà mọi người đều gắng sức nên kinh tế và xã hội mới phát
triển một cách bền vững.
Vũ Hoàng: Ông
vừa trình bày một khái niệm hay phạm trù mà nhiều thính giả của chúng ta có thể
thấy là trừu tượng vì vậy xin ông giải thích thêm cho rõ ràng.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta để ý thấy là Đài Loan, Nam Hàn và Chile đã từng có chế
độ độc tài của phe thủ cựu cánh hữu. Họ không nêu ra khẩu hiệu lý tưởng gọi là
xã hội chủ nghĩa của cánh tả, nhưng đã tự ý cải cách về chính trị để áp dụng
một chế độ dân chủ. Việc cải tổ đó khiến cho thiểu số ở trên không còn khả năng
trưng thu hay đè nén hay bóc lột đa số ở dưới.
Chẳng những vậy, chế độ chính trị của họ còn xây dựng các định chế
cần thiết cho phát triển, như quyền tự do kinh tế, quyền sở hữu của tư nhân,
như hệ thống luật lệ minh bạch với quyền tư pháp độc lập, hay quyền đàn hặc phê
bình lãnh đạo. Nôm na là tư nhân có quyền mà nhà nước phải tôn trọng và phải
bảo vệ vì tay chân nhà nước chỉ là công cụ nhất thời của người dân.
Đa số quốc gia kia lại chẳng được như vậy vì thiểu số ở trên áp
dụng chiến lược trưng thu và cưỡng bách nên sau giai đoạn cất cánh tăng trưởng
có vẻ ngoạn mục là họ đụng trần và không nâng được lợi tức người dân quá mức
trung bình. Họ rơi vào tình trạng gọi là "cái bẫy của lợi tức trung
bình" mà không thoát ra được. Trung Quốc đang lọt vào cái bẫy đó, Việt Nam
cũng vậy.
Trong một thế giới toàn cầu hóa với thông tin mở rộng, khi lãnh
đạo lại đưa người dân vào bẫy vì "chiến lược trưng thu" thay vì
"chiến lược đồng tiến" thì khủng hoảng rất dễ xảy ra như chúng ta đã
thấy tại nhiều quốc gia.
Vũ Hoàng:
Sau khi đặt vấn đề như vậy rồi thì ông liên hệ thế nào đến những yêu cầu cải
cách mà lãnh đạo của Trung Quốc và Việt Nam
đang muốn tiến hành?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin nêu ra những ví dụ cụ thể đang làm giới lãnh đạo hai xứ
này đau đầu và muốn sửa từ lâu nhưng cứ dậm chân tại chỗ.
Thứ nhất, vì sao khu vực kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo?
Đấy là hệ quả của chiến lược trưng thu vì vơ vét tài nguyên quốc dân dồn cho
tập đoàn kinh tế nhà nước, thậm chí cho các chính quyền địa phương như tại
Trung Quốc. Tài nguyên đó là tiết kiệm, tín dụng và đất đai. Chiến lược ấy bất
công và bất ổn vì làm giàu cho thiểu số và gây thất quân bình vĩ mô.
Thứ hai, vì sao các dự án đầu tư và tín dụng của khu vực công lại
gây bội chi ngân sách và chất lên một núi nợ xấu sẽ đổ lên đầu cả nước? Vì chiến
lược trưng thu đã ép sức tiết kiệm của dân và tạo ra nguồn tiền quá rẻ cho các
tập đoàn nhà nước và tay chân tự tiện sử dụng vì lợi ích riêng. Cũng do chiến
lược này ta mới thấy các tập đoàn kinh tế nhà nước đi vay bừa phứa mà khỏi cần
nghĩ đến cách trả nợ.
Thứ ba, vì sao một tài nguyên chung của cả nước là đất đai lại do
một thiểu số quyết định đằng sau khẩu hiệu hay điều luật là "do nhà nước thống
nhất quản lý"? Vì chiến lược trưng thu đã đoạt quyền tư hữu một phương
tiện sản xuất quan trọng là đất đai để tay chân của đảng và nhà nước có thể
lũng đoạn, hay thậm chí đánh bạc, trong các dự án kinh tế kém hiệu năng của họ.
Được thì họ lấy mà thua thì dân chịu.
Căn bản nhất vì cũng là lý do giải thích những bất công và phi lý
ấy là vai trò độc quyền của đảng và công cụ của đảng là nhà nước và tay chân
của đảng là các đại gia thân tộc. Họ trở thành thiểu số tư bản đỏ, nhân danh xã
hội chủ nghĩa mà xây dựng chế độ tư bản nhà nước trên đầu cả nước và cản trở
mọi nỗ lực cải cách. Khi kinh tế phát đạt thì họ đánh bạc làm giàu trên thị
trường cổ phiếu và địa ốc, khi kinh tế suy trầm thì họ tẩu tán tài sản và tư
doanh theo nhau phá sản.
Vũ Hoàng: Như
vậy thì ông cho rằng Việt Nam nên cải cách từ đâu?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ đến một quy luật chung là nhiều chế độ thành hình nhờ
khẩu hiệu đấu tranh cho công bằng xã hội mà sau đó lại tạo ra bất công và làm
kinh tế không phát triển được. Việt Nam cũng bị tệ nạn phổ biến này và còn gặp
một tai họa khác là chế độ đã xưng danh là đấu tranh cho độc lập với xương máu
của người dân mà đang mất độc lập với Trung Quốc.
Về chuyện trước mắt thì việc Quốc hội họp hành là "có còn hơn
không", nhưng vấn đề rốt ráo không nằm ở đó, như người ta có thể thấy
trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Vấn đề là hệ thống chính trị và vai trò của
đảng độc quyền.
Thật ra, bên cạnh một Trung Quốc đang xoay trở để chuyển hướng mà
vẫn cố bảo vệ chế độ toàn trị của đảng thì Việt Nam có cơ hội vượt thoát nếu
dám cải cách mạnh dạn hơn và sớm sủa hơn. Cải cách từ hệ thống chính trị ở trên
cho dân chủ hơn xuống chiến lược kinh tế ở dưới cho dân chúng được tự do hơn.
Việc cải cách đó mới thực sự dẫn tới phát triển và đưa Việt Nam ra khỏi vòng
ngoại thuộc.
Vũ Hoàng: Xin
cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.
Vụ
án Xét lại, phần 2: Chống Đảng hay chống Tướng
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2013-10-23
2013-10-23
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý
kiến của Bạn
- Email
Từ
trái sang: Thành viên của Bộ Chính trị Đảng Lao Động Việt Nam Lê Đức Thọ, phi
hành gia Boris Yegorov, phi hành gia Vladimir Komarov, Thủ tướng Việt Nam Phạm
Văn Đồng, và phi hành gia Konstantin Feokistov tại Nga ngày 01/1/1964
RIA Novosti photo
Trong thế giới Cộng sản những hình tượng như Lenin, Stalin, Mao
Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành, Fidel Castro…cùng nhiều lãnh tụ nữa được
các nhà nước cộng sản tô lên những màu sắc huyền thoại nhằm tạo cho dân chúng
niềm tin không có thật vào những thành quả mà những huyền thoại này sẽ dẫn dắt
dân tộc của họ tiến vào thế giới đại đồng, nơi không còn người nghèo và mọi bất
công sẽ biến mất.
Những hình tượng ấy đã bị Nikita Sergeyevich Khrushchyov, Bí thư
thứ nhất Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô đạp đổ vào năm 1956 qua
cụm từ “chống sùng bái cá nhân”. Cũng từ hành động có tính phản kháng cảnh tỉnh
này đã dấy lên một phong trào được gọi là chủ nghĩa xét lại trong thế giới cộng
sản. Tuy nhiên làn sóng xét lại này đã gây di hại không ít cho nhiều nước,
trong đó có Việt Nam qua vụ án xét lại chống đảng.
Kế
hoạch gài bẫy
Năm 1967 đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Lê Duẩn bắt đầu chiến dịch
thanh trừng lớn nhất trong lịch sử đảng của nước này. Từ Bộ Ngoại giao cho tới
Văn hóa, Quốc phòng hàng loạt cán bộ cao cấp bị bắt. Nguyên Ngoại trưởng Ung
Văn Khiêm của Ngoại giao, Thứ trưởng Lê Liêm của Bộ Văn hóa. Cùng với Thứ
trưởng Quốc phòng Nguyễn Văn Vịnh, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng Đại tá Lê Minh
Nghĩa, Cục trưởng Cục Tác chiến Đại tá Đỗ Đức Kiên, Cục trưởng Cục II Đại tá Lê
Trọng Nghĩa, Tổng Biên tập báo Quân đội Nhân dân Hoàng Thế Dũng, cùng với thiếu
tướng Đặng Kim Giang lúc ấy đã sang làm thứ trưởng Bộ Nông trường.
Theo lời nhà văn Vũ Thư Hiên kể lại thì chính tướng Giang là người
giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất tích cực trong chiến thắng Điện Biên Phủ, ông
nói:
Thiếu tướng Đặng Kim Giang lúc đó là thứ trưởng Bộ Nông trường. Tướng
Giang là người chủ chốt trong việc tổ chức hậu cần của mặt trận Điện Biên Phủ.
Lúc bấy giờ Tổng cục trưởng của Cục hậu cần là Trần Văn Ninh nhưng Phó Tổng cục
trưởng là Đặng Kim Giang, ông là người đứng ra tổ chức vận chuyển cho mặt trận
Điện Biên Phủ. Bây giờ chúng ta ai cũng biết căn bản của chiến thắng là do hậu
cần. Nếu tổ chức được hậu cần như thế thì mới tổ chức được trận đánh Điện Biên
Phủ.
Năm 1962 tôi sang Liên Xô học ở trường đảng cao cấp của TW ĐCS Liên Xô. Tại đó do sự bất đồng về đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì tôi cũng hay phát biểu phê phán này nọ nên bị lãnh đạo đảng truy bức.
- Ông Nguyễn Minh Cần
Nhà văn Vũ Thư Hiên cùng cha là ông Vũ Đình Huỳnh, nguyên bí thư
của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng là nạn nhân của vụ án này. Kể lại việc cha mình
hoạt động trước khi bị bắt vào ngày 18-10-1967, nhà văn Vũ Thư Hiên nói:
Ông cụ tôi lúc bấy giờ do việc khó chịu với chủ trương của đảng nên
từ chỗ làm bí thư cho ông Hồ Chí Minh ông cụ tôi thôi không làm nữa và ông
Nguyễn Lương Bằng mời ông cụ tôi về Ban Kiểm tra Trung ương Đảng. Trong lúc làm
cho Ban Kiểm tra Trung ương Đảng ông cụ tôi tìm ra các tội lỗi gì đó của một số
nhân vật cấp cao nên nói với ông Nguyễn Lương Bằng. Tôi được nghe câu chuyện
này do hai ông ngồi nói chuyện với nhau. Ông cụ tôi đưa ra ý kiến công khai là
anh đã cầm danh thiếp của Đảng, giữ cái sự trong sáng của đảng thì anh phải
làm. Thế nhưng ông Bằng vốn là người nhút nhát và núp sau ý thức tổ chức giống
như những người nhút nhát khác vào lúc ấy cho nên không dám đưa ra. Ông cụ tôi
bảo nếu chúng ta làm cái việc kiểm tra mà không làm xong thì tôi về hưu.
Những
người cộng sản lưu vong
Tổng thư ký ĐCS Việt Nam Lê Duẩn tại Đại hội lần 16 của Đảng Cộng
sản Liên Xô tổ chức tại điện Kremlin hôm 23/2/1981. AFP photo
Phó bí thư thành ủy Hà Nội Trần Minh Việt, cùng với Phó chủ nhiệm
Ủy ban Khoa học nhà nước Bùi Công Trừng cùng nằm trong danh sách thanh trừng
này. Ông Nguyễn Minh Cần, lúc ấy đang học trường Đảng tại Liên Xô, cái nôi của
Chủ nghĩa Xét lại đã quyết định ở lại cùng với hơn 40 người khác:
Năm 1962 tôi là Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội và là Phó chủ tịch
Ủy ban hành chính Hà nội, chủ nhiệm báo Thủ đô Hà nội. Năm 1962 tôi sang Liên
Xô học ở trường đảng cao cấp của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Tại đó do sự
bất đồng về đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì tôi cũng hay phát
biểu phê phán này nọ nên bị lãnh đạo đảng truy bức. Đến tháng 6 năm 1964 thì
tôi thoát ly khỏi đảng cộng sản và xin cư trú chính trị ở Liên Xô.
Ông Nguyễn Minh Cần cho biết những người cùng ở lại như ông trong
ấy có những cán bộ cao cấp trong quân đội:
Có đại tá Lê Minh Quân trước đây tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ,
thời kỳ đó anh ta ở sư đoàn 308. Đại tá Lê Minh Quân sau này là phó chính ủy
rồi lên chính ủy của quân khu 3 tức là quân khu ở Bắc bộ. Và một người nữa là
anh thượng tá Văn Doãn, là tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân tức là một trong
những tờ báo chủ chốt của miền Bắc Việt Nam hồi bấy giờ.
Tôi về nhà thì nghe nói là anh ấy bị bắt rồi. Tôi chỉ biết thế thôi còn quá trình anh ấy bị bắt thì tôi cũng không ngờ là đảng bắt vì tôi vẫn tin tưởng chỉ là phát biểu quan điểm thôi chứ có gì đâu mà bắt?
- Bà Lê Hồng Ngọc
Đại tá Bùi Tín lúc ấy còn làm việc cho báo Quân đội Nhân dân nhớ
lại:
Tôi còn nhớ năm 56-57, tôi ở báo Quân đội Nhân dân, thỉnh thoảng lại
thấy có ô tô đến và triệu tập rồi bắt đi. Đến tận năm 60-62 vẫn còn bắt bớ. Sau
này như ông Hoàng Thế Dũng (Tổng biên tập) cho đến ông Văn Doãn (biên tập) của
báo Quân đội cũng bị triệu tập lên,cũng bị bắt giữ. Ông Hoàng Minh Chính cũng
bị bắt giữ. Bắt giữ này đều là do ban bảo vệ đảng và ban bảo vệ của quân đội.
Trong quân đội có Cục bảo vệ chính trị thì chính Cục này đã triệu tập. Triệu
tập rồi đem đi mất để mà lấy khẩu cung.
Dĩ nhiên người nổi tiếng nhất trong vụ án xét lại chống đảng là
ông Hoàng Minh Chính là điểm nhắm trước tiên. Ngày 27-7-1967, Hoàng Minh Chính
bị bắt. Bà Lê Hồng Ngọc, vợ ông kể lại:
Hồi đó tôi đang đi công tác ở tận Hưng Yên. Tôi về nhà thì nghe
nói là anh ấy bị bắt rồi. Tôi chỉ biết thế thôi còn quá trình anh ấy bị bắt thì
tôi cũng không ngờ là đảng bắt vì tôi vẫn tin tưởng chỉ là phát biểu quan điểm
thôi chứ có gì đâu mà bắt? Trước đó tôi vẫn còn gặp ông Lê Đức Thọ mà. Đôi lần
tôi cũng có nói với ông Thọ là những chuyện đó anh phải chia công tác cho anh
Chính đi chứ để anh Chính như thế mãi là không được đâu. Ông Thọ còn hứa với
tôi là "Được, tôi sẽ nghiên cứu. Cô cứ yên tâm đi”. Nói như thế hôm trước
hôm sau bắt luôn.
Khủng bố trắng
Không khí chính trị Hà nội lúc ấy không khác gì lò thuốc súng,
công an chìm trên mọi ngả đường và trong quân đội an ninh hoạt động cũng không
khác mấy. Người ta tự dò xét xem có phải ai đó dính líu tới vụ án xét lại chống
đảng hay không và liệu rồi đây có một vụ đảo chánh nào sẽ diễn ra ngay trong
lòng thủ đô Hà Nội?
Không có một cuộc đảo chánh hay phản cách mạng nào nổ ra vì sự
thật sau nhiều năm chứng minh rằng không ai trong những người bị bắt có âm mưu
thay đổi thể chế chính trị mà chính họ là một thành viên trong đó. Những người
bị bắt, bị kết tội theo sự tưởng tượng của Lê Đức Thọ là theo chủ nghĩa xét lại
để chống đảng.
Theo nhà báo Huy Đức trong tác phẩm Bên thắng cuộc ghi lại thì ông
Nguyễn Kiến Giang, giám đốc nhà xuất bản Sự Thật, bị bắt giam sáu năm và quản
chế ba năm cho biết cho đến tận bây giờ ông cũng không biết là mình có tội gì.
Ông than thở rằng người ta bảo ông phản động, tay sai nước ngoài nhưng trên
thực tế ông bị giam ở xà lim mấy năm, thêm mấy năm quản chế, khoảng gần mười
năm, cho đến khi trở về Hà nội với tư cách là một người công dân, ông cũng
không biết là mình có tội gì!
Những người bị bắt hoàn toàn không chống đảng, họ chỉ chống lại ý tưởng
chủ chiến của Mao Trạch Đông mà nhóm thân Tàu đang hết lòng cổ vũ. Những người
bị kết án, bị bắt nằm trong kế hoạch của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí
Thanh và kế hoạch này đã mở đầu cho một cuộc chiến khác khiến 3 triệu người
Việt Nam đã bỏ mình trong hai chục năm chiến tranh đẫm máu cho tới năm 1975 mới
chấm dứt.
Quý vị vừa theo dõi phần thứ hai của Vụ án xét lại chống đảng, mới
quý vị theo dõi tiếp phần ba có tựa “Đừng kêu oan cho người khác”sẽ phát vào
chương trình kế tiếp.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment