KẺ
XẤU ĐÃ THẮNG TRONG CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
Tác giả: Uwe Siemon-Netto
Người dịch: Trần Văn
Minh
01-12-2013
Một phụ nữ Việt đang than khóc bên cạnh xác
chồng, được tìm thấy trong số 47 người khác tại một ngôi mộ tập thể gần Huế. Ảnh
Corbis
Vào lúc cao điểm của
chiến tranh Việt Nam, Ralph White đã tìm cách gia nhập Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
nhưng bị từ chối vì mắt bị chấn thương khi chơi tennis trước đó. Tuy nhiên, khi
cuộc chiến đầy biến động gần tới hồi kết thúc hồi tháng 4 năm 1975, ông White
khi ấy 27 tuổi, đang ở Sài Gòn, đã làm đúng với phương châm người lính thủy
quân lục chiến “luôn luôn trung thành” – chỉ với phương cách dân sự.
Bằng cách khuyến dụ,
thuyết phục và khéo léo qua mặt các thủ tục hành chánh, White đã tìm được một
phương cách tuyệt vời để cứu thoát 112 nhân viên Việt Nam của Ngân hàng Chase
National Bank và những người gia đình của họ: ông chỉ đơn giản nhận bảo trợ tất
cả những người đó, trước sự chứng kiến của các thẩm phán Mỹ đang làm nhiệm vụ khẩn
cấp tại sân bay Tân Sơn Nhất ở Sài Gòn. Trong khi đối mặt với thất bại sắp xảy
ra của đồng minh Hoa Kỳ là người Việt ở miền Nam, người công dân Mỹ này đã đạt
được một chiến thắng tuy nhỏ bé nhưng thật nổi bật.
Bốn ngày sau đó, vào
ngày 30 tháng 4, xe tăng T-54 của Liên Xô đã hoàn tất cuộc chinh phục của cộng
sản đối với miền Nam Việt Nam bằng cách cán qua cổng rào của dinh tổng thống ở
Sài Gòn. Ở bên trong, Tổng thống miền Nam, Việt Nam là ông Dương Văn Minh (Big
Minh) đề nghị chuyển giao quyền hành. Đại tá Bắc Việt Bùi Tín trả lời: “Không có
chuyện chuyển giao quyền lực… Ông không thể chuyển giao cái mà ông không có”.
Đối với tôi, một người
Đức, những lời này nghe có vẻ giống các điều khoản của Đồng Minh áp đặt lên đất
nước chúng tôi năm 1945, khi tôi còn là một đứa trẻ: đầu hàng vô điều kiện. Sự
trớ trêu là trong khi vào cuối Đệ Nhị Thế chiến, một chính phủ rõ ràng là độc
ác đã bị buộc phải đầu hàng theo cách này, điều trái ngược lại xảy ra 30 năm sau
ở Sài Gòn: một chế độ độc tài toàn trị với các đặc điểm vô nhân đạo đến tận
cùng uy hiếp một đối thủ nhân đạo hơn nhiều – mặc dù có những khuyết điểm – vào
tình thế đầu hàng vô điều kiện, và được thế giới hoan hô.
Sau thời gian tường
thuật về Việt Nam cho một nhà xuất bản lớn nhất của Tây Đức trong khoảng thời
gian 5 năm, tôi kết luận rằng: kẻ xấu đã thắng. Không có lý do gì để vui mừng.
Tuy nhiên, khi Tổng thống Gerald Ford tuyên bố tại Đại học Tulane ở New Orleans
rằng chiến tranh Việt Nam “đã chấm dứt, ít nhất là đối với Hoa Kỳ”, một tuần trước
khi miền Nam, Việt Nam cuối cùng đã bị tiêu diệt, ông đã nhận được sự hoan hô
nồng nhiệt.
Đáng lẽ ra các phản ứng
này nên được kềm lại trước số phận tăm tối của số lượng lớn những người Việt bị
chuyển giao. Đối với họ, hành trình tử nạn thực sự chỉ mới bắt đầu với chiến
thắng của cộng sản. Khoảng từ 200.000 tới 400.000 người đã bị chết chìm trong
khi chạy trốn khỏi đất nước của họ trên những chiếc thuyền đánh cá và thuyền
chắp vá tạm bợ, theo Cao ủy LHQ về người tị nạn. Khoảng 65.000 người đã bị hành
quyết. Một triệu người bị đẩy vào các trại tập trung, ở đó, 165.000 người bị
tra tấn hay bị bỏ đói đến chết. Trong số những người bị giết gồm có 30.000
người trong danh sách tình báo viên của CIA bị sót lại tại tòa đại sứ, theo
tường trình của National Review.
Tính theo tỷ lệ, Ralph
White thành công vượt trội so với chính phủ Hoa Kỳ: anh đã đem được tất cả
người của mình ra, như đã dự tính khi anh tình nguyện chuyển từ Bangkok đến Sài
Gòn để làm quyền tổng giám đốc cho chi nhánh Chase ở Việt Nam hai tuần trước
khi Sài Gòn thất thủ. Trong báo cáo với cấp trên của mình tại Chase sau này,
ông viết rằng “việc duy trì mối liên lạc giữa ngân hàng Mỹ và tòa đại sứ để bảo
đảm sự phối hợp chặt chẽ trong kế hoạch di tản” là “mục đích duy nhất” cho sứ
mạng của anh.
“Đọc lại báo cáo của
mình làm cho tôi khá tự hào về người đàn ông 27 tuổi này,” Ông White, người bây
giờ là một nhà văn ở Litchfield, Connecticut cho biết.
Gần bốn thập niên sau sự
sụp đổ của miền Nam Việt Nam, tôi gặp một câu chuyện cảm động về một công dân
Mỹ dũng cảm và trung thành với những giá trị của mình như bất cứ người lính
nghiêm chỉnh nào. Patricia Palermo là một cô gái tiếp viên hàng không tóc vàng của
hãng máy bay Pan Am từ Nebraska, tình nguyện làm tiếp viên trưởng cho các
chuyến bay liên tục từ Guam đến Sài Gòn, đưa “những chàng trai trẻ má hồng và
tinh thần phấn khởi” ra mặt trận, như cô nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn gần
đây. “Khi tôi thấy họ một lần nữa 12 tháng sau đó, họ trông giống như những
người đàn ông 50 tuổi. Nhiều người bị thương và tàn phế, một số bị đánh thuốc
mê. Họ không được phép lên máy bay cho đến khi sau những ‘người trở về’ khác đã
được xếp vào khoang hàng hóa – những người nằm trong quan tài kẽm”.
Palermo hiện đang sống ở
New York, cho biết trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại rằng bà bị tác động
tình cảm dữ dội về các chuyến bay này đến nỗi bà đã loại ra khỏi tâm trí của
mình cho đến năm 1980, khi bà xem trên truyền hình về tường thuật trực tiếp
cuộc diễu hành đầu tiên vinh danh các cựu chiến binh Việt Nam. “Tôi lập tức lao
ra khỏi nhà và cùng tham gia”, bà nhớ lại.
Phần đáng ghi nhớ nhất
trong sự nghiệp hàng không của mình trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến,
khi Pan Am đem ít nhất 2.000 trẻ sơ sinh, hầu hết là người Mỹ gốc Á đang chờ
được nhận làm con nuôi ở Hoa Kỳ, ra khỏi Sài Gòn. “Chúng tôi không được phép
rời khỏi máy bay vì hỏa lực địch, nhưng chúng tôi có thể thấy một số bà mẹ
tuyệt vọng ném con em của họ qua hàng rào tại Tân Sơn Nhất để được phi hành
đoàn chúng tôi đưa đến nơi an toàn. Tôi nhớ một ai đó đưa cho tôi hai em bé giấu
trong một cái giỏ. Một lần tôi đếm được hơn 400 trẻ sơ sinh trên chiếc máy bay
Boeing 747 của chúng tôi. Trẻ sơ sinh ở khắp mọi nơi, ngay cả trong các ngăn để
hành lý phía trên chỗ ngồi, và chúng nó rất yên lặng, luôn luôn yên lặng…. “
Tôi đã chứng kiến sự sụp
đổ của Sài Gòn trên truyền hình trong căn chung cư của tôi ở Paris với nỗi đau
buồn và tức giận vô cùng. Tôi ngạc nhiên trước việc thi hành hoàn hảo Chiến
dịch Gió lốc, đã di tản 1.373 người Mỹ cuối cùng, cộng với 5.595 người Việt Nam
và người các nước khác, chủ yếu bằng máy bay trực thăng từ một bãi đáp trên nóc
nhà của văn phòng tùy viên quân sự ở Tòa Đại sứ Mỹ ngày 29 và 30 tháng 4. Tôi
đã ở đó bảy năm trước trong dịp Tết Mậu Thân và theo dõi từ bên kia đường cuộc
tấn công bị đánh bại của cộng sản vào Tòa Đại sứ. Bây giờ họ sắp sửa chiến
thắng; vì thế tôi đau buồn.
Tuy nhiên, cơn giận của
tôi chủ yếu hướng về các sinh viên và trí thức, những người cổ vũ chiến thắng
của cộng sản là một hành động giải phóng. Họ hành xử như thế ở khắp mọi nơi:
bên kia sông Seine ở Bờ trái; ở đất nước của tôi, Tây Đức; và ở Hoa Kỳ. Chứng
kiến một biển cờ Việt Cộng màu xanh đỏ trên TV làm cho tôi cảm thấy muốn mửa, bởi
vì đối với tôi, những màu sắc này tiêu biểu cho các vụ thảm sát tàn khốc mà tôi
đã chứng kiến ở Việt Nam.
Chẳng hạn như, một đêm ở
Tây Nguyên, tôi đã tình cờ gặp những xác chết bị chặt chân tay của một ông xã
trưởng, vợ ông và 12 đứa con của họ, tất cả đã bị các tay sai cộng sản tra tấn.
Theo như những người dân làng nói với tôi, gia đình đó đã bị giết chết bởi vì
ông xã trưởng vẫn trung thành với chính quyền Sài Gòn. Đó là vào năm 1965. Trong
năm 1967 là năm bầu cử, Việt Cộng đã thi hành ít nhất 100.000 hành vi khủng bố
như thế chống lại dân thường để ngăn cản họ không đi bỏ phiếu.
Khi xướng ngôn viên Pháp
thông báo sự kết thúc của miền Nam Việt Nam, tự nhiên tôi với lấy một cuốn sách
nằm trên bàn cạnh giường ngủ của tôi ở khách sạn Continental Palace ở Sài Gòn
và tôi mang theo tới Paris: “Hai nước Việt Nam”. Tôi đã từng gặp tác giả cuốn
sách, nhà khoa học chính trị Pháp Bernard B. Fall, nhiều lần ở Sài Gòn và Washington
trước khi ông bị giết bởi một quả mìn Việt Cộng. Đối với tôi, ông là một trong
những chuyên gia sắc bén nhất về Đông Dương. Một đoạn trong cuốn sách của ông
đã ám ảnh tôi từ đó đến giờ. Fall trích lời một chiến lược gia chủ yếu của Bắc
Việt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã qua đời ngày 4 tháng 10 [năm 2013] ở tuổi
102, nói với các chính ủy của một trong những sư đoàn của ông: “Kẻ thù (có
nghĩa là phương Tây) … không có… các phương tiện tâm lý và chính trị để chống
lại một cuộc chiến tranh kéo dài”.
Giáp chưa bao giờ nghi
ngờ khả năng quân sự của Mỹ, nhưng tin rằng ông đã tìm thấy gót chân Asin của
hệ thống dân chủ, như Fall giải thích: “Trong tất cả các khả năng, Giáp kết
luận, công luận trong các nền dân chủ sẽ đòi hỏi chấm dứt sự ‘đổ máu vô ích’,
hay cơ quan lập pháp của họ sẽ yêu cầu được biết trong bao lâu nữa họ sẽ phải bỏ
phiếu gia tăng không ngừng tín dụng khi không có một chiến thắng rõ ràng trước
mặt.
Đây là những điều luôn luôn bắt ép các nhà lãnh đạo quân sự của các quân
đội dân chủ phải hứa hẹn một kết thúc nhanh chóng cho cuộc chiến – để ‘đưa các
chàng trai về nhà vào dịp Giáng sinh’ – hoặc buộc các chính trị gia dân chủ
phải đồng ý với hầu hết các loại thỏa hiệp nhục nhã, thay vì chấp nhận ý tưởng
về chiến dịch chống du kích bán thường trực”.
Phải chăng sự thể thảm
khốc này nảy sinh từ thất bại của Washington trong việc đáp trả, như đã hứa,
“với lực lượng quân sự đáng kể” đối với bất kỳ vi phạm nào của Bắc Việt trong
việc thi hành Hiệp Định Paris 1973, tôi tự hỏi? Hiệp định đã cho phép Hà Nội
giữ lại 80.000 quân chính quy ở miền Nam, nhưng không có gì xảy ra khi con số
đó tăng lên đến 200.000.
Khi thảm kịch Việt Nam diễn ra quá tàn khốc, tôi cũng
tự hỏi làm thế nào chúng tôi trong giới truyền thông, bao gồm đại đa số trong
chúng tôi không đứng về phía Việt Cộng (một cách công khai hay âm thầm), đã
không làm cho độc giả của chúng tôi nhận ra những bằng chứng không thể chối cãi
nhất, rằng hầu hết người dân miền Nam không bao giờ ủng hộ cộng sản: từ đầu,
chúng tôi, các phóng viên, đã nhìn thấy họ chạy trốn Việt Cộng.
Họ chạy trốn không phải
vượt qua sông Bến Hải vào Bắc Việt, cũng không vào cái gọi là vùng giải phóng –
“giải phóng” bởi những người cộng sản. Cho đến cuối cùng, những người tị nạn đổ
xô về phần thu hẹp của đất nước dưới quyền kiểm soát của Sài Gòn; 2 triệu người
đổ vào thành phố Đà Nẵng. Những con đường về Sài Gòn đã quá đông đúc với những
gia đình chạy trốn đến nỗi làm chậm lại bước tiến quân của Bắc Việt, và khi mọi
chuyện lắng dịu, “thuyền nhân” không những ra đi từ phía Nam với số lượng khổng
lồ mà còn từ các cửa khẩu phía Bắc.
Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam có một
cuộc di cư hàng loạt khỏi đất nước như vậy – không phải trong những ngày dưới
quyền Trung Hoa, Pháp hay Mỹ. Và điều này được cho là giải phóng? Bằng cách nào
đó, lúc đó tôi nghi ngờ và bây giờ đã tin, lối lập luận đó là một trong những
thiệt hại của chiến tranh Việt Nam. Và cũng như sự trung thực trí thức.
Một hình ảnh lóe sáng
trên màn hình TV ở Paris đã ghi khắc trong tôi nhiều thập niên vì đã đâm sâu
vào suy tư của tôi. Hình ảnh cho thấy Phó Tổng thống Miền Nam Nguyễn Cao Kỳ
đang cầm lái chiếc trực thăng UH-1A (Huey) hạ cánh trên boong của hàng không
mẫu hạm USS Midway. Tôi đã được biết ông Kỳ khá rõ và thích ông.
Đúng thế, ông
là tướng lãnh hào nhoáng của Không lực Việt Nam, một con công như nhiều nhà quân
sự trong suốt lịch sử. Nhưng ông không phải là anh hề quanh co như thường được
mô tả.
Sáu năm trước, tháng 5
năm 1969, Kỳ và tôi đã đi du lịch với nhau từ Paris đến vào Sài Gòn, nơi tôi
làm phóng sự về các cuộc đàm phán hòa bình của Việt Nam và ông dẫn đầu đoàn đại
biểu Sài Gòn. Cuộc trò chuyện giữa chúng tôi lủng củng một cách bất thường, có
lẽ bởi vì cả hai chúng tôi biết rằng mọi chuyện đã không diễn ra tốt đẹp ở Paris
cho phía của ông; rõ ràng là một nhận thức sai lầm ở Hoa Kỳ và các nơi khác về
Tết Mậu Thân năm 1968 đã phá vỡ ý chí của Mỹ để mang cuộc xung đột này đến một
kết luận chiến thắng.
“Nhưng chúng tôi đã
thắng vào dịp Tết!” Kỳ nổi giận. “Tại sao người Mỹ nghĩ khác đi?”
Tôi trả lời: “Tôi biết,
thưa Thiếu tướng, tôi ở Huế trong thời gian ông giành chiến thắng. Nhưng công
chúng tại Hoa Kỳ và Âu châu đã nhận được thông tin khác nhau”.
Tại Huế, tôi đã đứng bên
mép một ngôi mộ tập thể, chứa thi thể của ít nhất 1.000 người đàn ông, phụ nữ
và trẻ em bị những người cộng sản tàn sát. Một nhóm truyền hình Mỹ lảng vảng
quanh hiện trường một cách vô định. “Tại sao bạn không quay phim cảnh này?”
Đồng nghiệp của tôi, Peter Braestrup, báo The Washington Post, hỏi họ. Người quay
phim của họ trả lời: “Chúng tôi đến đây không phải để tuyên truyền chống cộng
sản”.
Tôi đã nói với Kỳ điều
này, và ông ta đã không bình luận. Ông ta biết tôi biết rằng chiến thắng quân
sự của Mỹ và VNCH vào dịp Tết đã bị biến thành một thất bại chính trị khi
Walter Cronkite tuyên bố chiến tranh không thể thắng trên CBS trong một chuyến
thăm ngắn sau Tết. Điều này trái ngược hẳn với những gì nhiều người trong chúng
tôi, phóng viên chiến trường, đã chứng kiến và tường thuật từ Huế. “Nếu tôi mất
Cronkite, tôi mất Trung Mỹ”, Tổng thống Lyndon B. Johnson được cho là đã nói
như thế. Tôi chia sẻ cảm giác mất mát của Tổng thống và không bao giờ tha thứ
thần tượng Cronkite về hành động bất cẩn báo chí của ông.
Ông Kỳ nhìn chằm chằm
vào cánh cửa dẫn đến buồng lái của chiếc máy bay Air France.
“Tại sao ông cứ nhìn vào
đó?” Tôi hỏi ông.
“Tôi chỉ muốn trở lại
làm một phi công,” ông nói khẽ.
Cuộc chạy thoát của ông
đến Midway bằng chiếc Huey đánh dấu sự nghiệp bay của ông kết thúc.
Một vài năm trước đây,
tôi dạy một lớp báo chí cao cấp tại Đại học Concordia, Irvine, California.
Chúng tôi tập trung vào cộng đồng tị nạn người Việt lớn mạnh và thành công tại
Quận Cam. Sinh viên Kellie Kotraba, bây giờ là một nhà báo thành công ở
Missouri, đã xem qua nghiên cứu của một nhóm gồm tám nhà nghiên cứu nổi tiếng
dẫn đầu bởi bác sĩ tâm thần Richard F. Mollica của đại học Harvard, có tiêu đề “Sự
bất thường cơ cấu não bộ và di chứng sức khỏe tâm thần nơi những cựu tù nhân
chính trị miền Nam Việt Nam, những người đã sống sót sau chấn thương đầu và tra
tấn”.
Nghiên cứu, được Hiệp
hội Y khoa Mỹ công bố, cho thấy hàng ngàn tù nhân chính trị trước đây hiện đang
sống tại Hoa Kỳ vẫn phải chịu đựng nặng nề từ hậu quả của tra tấn gây ra cho họ
trong thời gian bị giam cầm nhiều thập niên trước đây. “Phải trên 100.000 người
như họ,” Mollica nói với Kotraba, người sau đó đã yêu cầu Tòa Đại sứ Việt Nam
tại Washington bình luận. Cô nhận được một lời từ chối qua điện thư từ tùy viên
báo chí của Tòa Đại sứ, Tùng Phạm, với lời lẽ: “Thông tin nói rằng các tù nhân
của trại cải tạo (sic) đã (sic) bị tra tấn là hoàn toàn không đúng sự thật”.
Chuyện này chẳng có gì
lạ. Đáng ngạc nhiên hơn là một thực tế rằng các nghiên cứu của Mollica ít được
chú ý trong giới truyền thông Mỹ khi nghiên cứu được công bố năm 2009, và khi
tôi cung cấp những câu chuyện hấp dẫn của Kotraba cho nhiều nhà xuất bản, các
biên tập viên của họ không mấy thích thú.
Tôi tự hỏi: tại sao các
biên tập viên Mỹ làm ngơ trước thông tin về sự khổ đau ở quy mô lớn như vậy
đang xảy ra, hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam? Có một sự tương đồng mạnh
mẽ giữa những gì đã xảy ra ở một số trong 300 ngục tù cộng sản ở Việt Nam với
các trại tập trung ở vùng chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Âu châu. Tôi vừa đọc
xong một bản dịch tiếng Pháp về trường hợp của Cha Andrew Nguyễn Hữu Lễ, một linh
mục Công giáo hiện đang sống ở New Zealand, về 13 năm của cha trong điều kiện
giam giữ của cộng sản, 2.020 ngày cha trải qua trong cùm sắt – gây ra những vết
thương mưng mủ với giòi bọ nảy nở.
Trong “Je dois vivre”
(“Tôi phải sống”), Lễ mô tả chi tiết khủng khiếp như thế nào về bạn tù Đặng Văn
Tiếp, một cựu đại úy quân đội VNCH và là thành viên của Quốc hội, đã bị giết
chết trong sự vui mừng của đám đông quan chức cộng sản và vợ con họ hò hét đầy
phấn khích. Ông bị bắt buộc phải uống một lượng lớn nước. Sau đó, tù nhân tay sai
Bùi Đình Thi, cai tù tàn bạo nhất trong trại tù Thanh Cẩm, nhảy lên bụng của
Tiệp cho đến khi nổ tung và ruột đổ ra ngoài. Tiệp chết.
Thi từng là một đại úy
trong quân đội VNCH. Kẻ bị giam cầm tại Thanh Cam gọi ông là “Kapo”, một thuật
ngữ được sử dụng cho những “kẻ được tin dùng” trong các trại tập trung của Đức
Quốc xã. Giống như một số cựu Kapo Đức Quốc xã, ông đã tới Hoa Kỳ. Ông đã bị
phát hiện tại Garden Grove, California, bị bắt giữ và bị trục xuất. Theo tin tức
sau cùng, ông sống ở quần đảo Marshall.
Trong cuốn sách của
mình, Lễ mô tả các nỗi ám ảnh thường xuyên của ông, trong đó gồm đau bụng dữ
dội.
Nỗi ám ảnh là một triệu chứng mà nhiều cựu chiến binh Mỹ biết quá rõ. Khi
tôi làm việc với vai trò tuyên úy tập sự trong số những người này tại các trung
tâm y tế Cựu Chiến binh ở St. Cloud, Minnesota, Tôi đã gặp một người làm bánh
từ St. Paul, ông có cơn ác mộng cứ tái diễn. Mỗi ngày, ông mơ màng về một sự
kiện gần Đà Nẵng. Ông đang ngồi ở ghế sau của một chiếc xe tải quân sự và thấy
một cậu bé kéo chốt một quả lựu đạn, sẵn sàng liệng vào xe tải, có lẽ sẽ giết
chết toàn bộ tiểu đội.
Người lính đã giết đứa
trẻ. Nhưng rồi, đêm đêm, ông nhìn thấy khuôn mặt méo mó của cậu bé đã chết.
“Đứa bé ấy khoảng 8 tuổi,” người cựu chiến binh nói, “bây giờ tôi có con sinh
đôi và trong giấc mơ của tôi, khuôn mặt của đứa trẻ khoác lên hình ảnh con
tôi”. Đây là một trong những câu chuyện buồn nhất tôi được nghe trong thời gian
tập sự của tôi, đó là một phần của giáo dục thần học mà tôi đã bắt đầu vào
khoảng giữa đời, có lẽ để trả lời cho những kinh nghiệm làm phóng viên ở Việt
Nam.
Nhưng có điều gì đó tồi
tệ hơn mà tôi tìm thấy trong số những cựu chiến binh Việt Nam: hầu hết mỗi
thành viên của ba nhóm chăm sóc mục vụ mà tôi hướng dẫn, cùng với một nhà tâm
lý học, đã bị xem là một kẻ sát hại trẻ em trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi
từ giã chiến tranh. Một người thậm chí còn được yêu cầu không trở lại nhà thờ cho
đến khi tóc của ông mọc trở lại, và xin xuất hiện trong bộ quần áo dân sự.
Hầu hết những người
trong nhóm của tôi tin vào Thiên Chúa, nhưng nghĩ rằng Chúa đã bỏ rơi họ ở Việt
Nam. Vì vậy, họ đã “quẳng Chúa đi”, theo kiểu họ gọi. Tôi đã viết một luận án
thần học cho các cựu chiến binh Việt Nam với tựa đề “Sự tha thứ của Chúa”, nhắc
nhở họ về cái nhìn sâu sắc của nhà thần học tử đạo người Đức Dietrich
Bonhoeffer.
Ông nói rằng loài người được kêu gọi để “chịu đau khổ với Chúa
trong một thế giới vô thần”, mà trong trường hợp của họ hàm ý Chúa đang đau khổ
với họ và luôn hiện diện với họ trong đau khổ – cả ở Việt Nam và sau khi họ trở
về. Vì vậy, Chúa không bỏ rơi họ nhưng là người cùng chịu đau khổ với họ. Nhiều
người trong số bệnh nhân tìm thấy ý nghĩ này hấp dẫn.
Cho đến hôm nay, tôi
nghe các cựu chiến binh Việt Nam hỏi: “Phải chăng sự hy sinh của chúng ta vô
ích?” Là một phóng viên chiến trường lớn tuổi, tôi không thể trả lời câu hỏi
này một cách sáng tỏ. Nhưng là một nhà thần học tôi có câu trả lời. Trong bài
tiểu luận nổi tiếng, “Ngay cả binh lính cũng có thể được giải thoát”, Martin Luther
so sánh công việc của binh sĩ với bác sĩ giải phẫu, có thể phải cắt bỏ chân tay
của bệnh nhân để cứu các phần còn lại của cơ thể. Thông thường bệnh nhân chết
trong vài ngày hoặc vài tháng sau khi phẫu thuật. Nhưng liệu điều này có nghĩa
là ca giải phẫu vô ích?
Là một phóng viên chiến
trường, tôi thấy đại đa số các binh sĩ Mỹ và Việt Nam tận tình với công việc
phục vụ người khác. Kẻ xấu đã thắng; điều này là sự thật. Là một nhà thần học,
tôi phải nói thêm: con người không phải là chủ thể của lịch sử, và lịch sử luôn
luôn rộng mở cho tương lai.
Có thể sẽ mất nhiều thập niên nữa cho đến khi chúng
ta nhìn thấy sự hy sinh của những người lính ở Việt Nam (thời xưa) đơm hoa kết
trái và chế độ cộng sản biến mất, như các chế độ độc tài khác đã từng biến mất
trong quá khứ. Có lẽ tới khi đó, thế giới sẽ khám phá ra rằng máu của người Mỹ
và các đồng minh đổ ra ở Việt Nam trở thành hạt giống của một chiến thắng đặc
biệt hơn chiến thắng mà họ đã bị từ chối ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Tác phẩm mới nhất của
Uwe Siemon-Netto là “Đức: Thâm tình của một phóng viên với thương binh Việt
Nam”.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment