Saturday, July 14, 2012

Phép lạ Việt Nam chấm dứt - Hết thời con hổ châu Á

 

http://nguoithathoc1959.multiply.com/journal/photos/hi-res/1M/1775

9huw3r.gif picture by <br />nagajolokia

Phép lạ Việt Nam chấm dứt - Hết thời con hổ châu Á

 

Geoffrey Cain | Foreign Policy | Trà Mi lược dịch


T.p. HỒ CHÍ MINH - Tại một thị trường đã từng một thời năng động nhất của châu Á, Nguyễn Văn Nguyễn chỉ thấy tương lai u ám. Từ năm 2008, kinh doanh của Nguyễn tại thủ đô kinh tế của miền Nam Việt Nam đã gánh chịu hai cơn biến động của lạm phát, lên đến đỉnh trong tháng 8 năm 2011 ở mức 23% - tỷ lệ lạm phát cao nhất của châu Á lúc đó. Bây giờ ông Nguyễn chỉ nhận được đơn đặt hàng cỡ nhỏ ở nước ngoài cho Bình Minh, hợp tác xã mây tre lá xuất khẩu mành trúc Bình Minh (Q.Phú Nhuận, TP.HCM) đã một thời phát triền mạnh, để phòng ngừa biến động giá cả. Ông cho biết khách hàng ở Úc, Châu Âu, và Hoa Kỳ đã giảm đơn đặt hàng của họ sau khi nhu cầu toàn cầu suy yếu. Chi phí sản xuất trên toàn ngành công nghiệp đã tăng khoảng 30% trong khi khách hàng chỉ sẵn sàng trả khoảng hơn 10%, ông Đặng Quốc Hùng, phó chủ tịch của Hiệp hội Thủ công Mỹ nghệ và Công nghiệp gỗ thành phố Hồ Chí Minh cho biết. Ông Nguyễn đang thuê ít công nhân hơn cho mùa hè nhiều việc và cắt giảm mức lương của họ xuống 120 USD một tháng, giảm từ 200 đô-la. “Chúng tôi chỉ có thể làm việc với một tốc độ chậm, và tinh hình hiện nay khó khăn,” ông Nguyễn than hồi cuối tháng Sáu.



Việt Nam, 2012
Nguồn: foreignpolicy.com/HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images



Đảng Cộng sản Việt Nam muốn giới đầu tư nhìn trường hợp của ông Nguyễn chỉ đơn giản là cái nấc cục địa phương của suy thoái kinh tế toàn cầu chứ không phải là suy yếu hệ thống. Trong hai mươi năm kể từ khi Đảng Cộng sản đổi mới kinh tế vào năm 1986, tăng trưởng đáng kể của GDP hàng năm trung bình là 7,1 phần trăm. Thật vậy, cách đây bốn năm, Việt Nam có vẻ như là câu chuyện thành công kế tiếp của châu Á. Trước khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong năm 2007, giới lãnh đạo Việt Nam cam kết sẽ làm tốt hơn, đẩy nhanh sự tái cơ cấu và tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước lãng phí của họ một cách rộng rãi, một quá trình mà họ mỹ miều gọi là “cổ phần hóa”. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán trong năm 2007 hàng nhập khẩu rẻ hơn là một kết quả của việc gia nhập WTO có thể kiềm chế được lạm phát, và các cải cách cơ cấu có thể lập một sân chơi công bằng giữa các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong chuyến viếng thăm của Hillary Clinton tại thủ đô Hà Nội hồi đầu tuần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã buộc phải vào lui về thế thủ, hứa hẹn điều kiện thuận lợi cho giới đầu tư nước ngoài khi ông cố gắng để giữ cho “phép lạ Việt Nam” sống.

Trong mười năm qua, giá lao động gia tăng ở Trung Quốc có nghĩa là ngày TQ là nhà máy của thế giới đã chấm dứt. Việt Nam ổn định, với lực lượng lao động giá rẻ, và cơ sở hạ tầng dùng được, có vẻ là một lựa chọn hợp lý để thay thế TQ. Đầu tư nước ngoài, trong suốt giữa những năm 2000, đổ vốn vào Việt Nam hơn gấp ba lần, lên đến 9,6 tỉ đô-la trong năm 2008 so với hai năm trước đó. Việt Nam là “con hổ châu Á đang thành hình,” Goldman Sachs nhận xét. “Giới đầu tư nước ngoài không quan tâm về mặt cai trị hoặc chính sách [của chính phủ Việt Nam]. Họ đổ tiền vào Việt Nam vì giá lao động rẻ,” Edmund Malesky, một chuyên viên kinh tế chính trị thuộc Đại học California tại San Diego, chuyên nghiên cứu về Việt Nam cho hay.

Bỏ qua mặt chính trị, chọn lựa Việt Nam đã trở thành một sơ xuất tốn tiền. Rất ít người kinh doanh dự đoán được Việt Nam vào năm 2012 là một quốc gia với các vấn đề như đồng tiền mất giá, lạm phát, quan liêu, và chủ nghĩa bè đảng đã dẫn đến việc mất mát hàng tỷ đô la và một chính phủ đưa ra những quyết định kỳ quặc như xây dựng hải cảng, hoặc đường xá không có một chút giá trị kinh tế.

Tình hình trở nên xấu đi khi Việt Nam bắt tay vào việc mở rộng 100 tỷ USD cổ phần tín dụng nội địa trong khoảng 2007-2010, một chương trình được đẩy nhanh vì cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008. Thay vì đầu tư vào các doanh nghiệp tư nhân, chính phủ chuyển tiền vào những doanh nghiệp nhà nước đầy móc nối chính trị; Những doanh nghiệp nhà nước này dùng tiền đầu tư, năng nổ khuếch trương sang những khu vực ngoài chuyên môn của họ, tạo ra một nhu cầu gia tăng về nguồn tài nguyên làm lạm phát gia tăng. Đầy tiền mặt, các công ty quốc doanh có thể đè bẹp những đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn, và có hiệu quả hơn. Công ty đóng tàu của nhà nước, Vinashin, có khoảng 60.000 công nhân và giám sát 28 nhà máy đóng tàu, đa dạng hóa với gần 300 đơn vị, gồm cả ngành sản xuất xe máy và khách sạn, sau khi thu được thêm 1 tỷ USD từ giới đầu tư quốc tế trong năm 2007. Các quan chức chính phủ hy vọng Vinashin sẽ phát triển như các tập đoàn của bán công của Nam Hàn.

Thuyền trưởng Nguyễn Tấn Dũng vươn ra biển lớn... Nguồn hình: OtheNet


Nhưng trong năm 2010, người ta đã phát giác Vinashin làm giả báo cáo tài chính, và gần như sụp đổ vì 4,4 tỷ USD tiền nợ với cả hai giới đầu tư trong nước và quốc tế; số nợ này tương đương với 5% của GDP. Cuối cùng Vinashi không trả được món nợ 400 triệu đô-la Credit Suisse. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - người hậu thuẫn Vinashin như dự án cốt lõi của kinh tế quốc doanh, và coi như con cưng của mình - đã phải đau khổ xin lỗi trước Quốc hội trong một buổi tự phê. Đối thủ của Dũng, tìm cách bảo vệ thái ấp của họ ở thị trường và chính trường, đã tìm được vật tế thần: Nhà chức trách kết án tù 8 giám đốc điều hành Vinashin vào cuối tháng Ba. Nhưng thay vì tăng vận tốc tiến hành việc tư nhân hóa (như rùa bò và đã nhiều lần hứa hẹn) bắt đầu vào những năm 1990, chính quyền che đậy thất bại trước công chúng.

Chính phủ đã chuyển sang thế giảm thiểu thiệt hại, từ chối bảo đảm số nợ 400 triệu đô-la tín dụng mà Credit Suisse cho vay trong khi Vinashin vẫn ngậm miệng trước các chủ nợ châu Âu. Đối phó với cuộc khủng hoảng, Moody hạ cấp giá tín dụng của Việt Nam xuống B1 từ Ba3, có nghĩa Việt Nam là nơi có “rủi ro tín dụng cao” không đáng là chỗ đầu tư.



Vinalines báo cáo lãi khủng
Nguồn ảnh: TNO



Một số biên tập viên của báo nhà nước trong cuộc phỏng vấn vào năm 2011 cho hay các khủng hoảng khác kiểu như Vinashin đầy rẫy trong kinh tế Việt Nam, nhưng họ đang hối lộ để che đậy những thất bại trong nhiều năm qua. Tháng Năm, 2012, trong một cuộc điều tra của chính phủ cho thấy công ty vận tải biển Vinalines, một công ty khác của nhà nước đã vỡ nợ, không trả nổi khoản vay trị giá 1,1 tỉ đô-la và còn món nợ tích lũy khoảng 2,1 tỉ USD, lớn gấp bốn lần vốn cổ phần của nó. Kể từ tháng Hai, bốn giám đốc điều hành đã bị bắt giữ vì quản lý tồi nguồn lực nhà nước; chính quyền, trong khi đó, đang truy nã cựu chủ tịch của Vinalines đang đào tẩu.

Giới đầu tư nước ngoài đang phải đối đầu với giá lao động và vật liệu cao hơn, đã bắt đầu lo rằng Việt Nam đang mất lợi thế cạnh tranh nhờ giá thấp. Bốn người đầu tư nước ngoài than phiền, qua những cuộc phỏng vấn trong vòng 2 năm vừa rồi, các công ty quốc doanh lạm dụng vị trí của họ như người gác cổng công nghiệp có móc nối với nhà nước. “Họ là ‘a pain in the ass’,” một luật sư kinh doanh người Mỹ ở thành phố Hồ Chí Minh nói. “Không ai muốn giao thiệp với những ‘ông kẹ’ này.”

Trong khi các quan chức Việt Nam đang trấn an giới đầu tư rằng những điều tồi tệ nhất đã qua, một báo cáo kiểm toán của chính phủ phát hành vào đầu tháng Bảy cho thấy có ít nhất ba mươi doanh nghiệp nhà nước lớn khác đang nặng nợ ở mức đáng lo ngại. Vấn đề sâu sắc hơn là ở Việt Nam, không giống như ở Trung Quốc, các tầng lớp lãnh đạo Đảng Cộng sản rất nghi ngại về sự chia sẻ lợi nhuận với các doanh nhân tư nhân, và đặc biệt là doanh nhân nước ngoài. Ở Trung Quốc, để giữ sức cạnh tranh ở thị trường, nhà nước đưa các doanh nhân tư nhân vào hợp tác, cải thiện quản trị, tư nhân hóa khoảng 90.000 công ty trị giá nhiều hơn 1,4 nghìn tỷ từ năm 1998 đến 2005, và gần đây hơn là việc khai trừ băng đảng tân Mao-ít như Bạc Hi Lai, Bí thư Đảng ở Trùng Khánh. Giới lãnh đạo CHXHCN Việt Nam vẫn chưa tìm ra cách để chữa trị nền kinh tế mà không phải từ bỏ một số hình thức kiểm soát chính trị - một bước mà họ đang không muốn thực hiện.

Thay vì làm sạch mạng nhện giữa các doanh nghiệp nhà nước và các chính khách ông trùm của chúng, một số các thế lực đã đưa ra các chiến dịch phản công với thế hệ nhà giàu mới là doanh-nhân-kiêm-người-làm-luật. Vào cuối tháng Năm, Quốc hội đã bỏ phiếu 96% ủng hộ khai trừ dân biểu Đặng Thị Hoàng Yến, một trong số ít những đại gia không phải đảng viên cộng sản có ghế ở quốc hội; bà Yến bị lật đổ vì bị kết tội đã khai man lý lịch.

Tội thực sự của bà Yến là nhiều lần kêu gọi đối xử công bằng với các doanh nghiệp tư nhân, chiếm gần nửa nền kinh tế. “Dọn sạch nhà nằm ngoài khả năng của hệ thống hiện chính trị tại,” David Brown, một cựu viên chức ngoại giao Mỹ tại Hà Nội nhận xét.

Trong tháng sáu, chính phủ thắt chặt hệ thống tín dụng đã giúp giảm lạm phát từ 23% hồi tháng Tám năm ngoái xuống 6,9%. Vấn đề bây giờ, như chủ nhà máy sản xuất nhỏ như Nguyễn than phiền, là cơn lũ tín dụng quá dễ trước đây đã làm tăng nguy cơ của một cuộc khủng hoảng ngân hàng. Sau khi hai doanh nghiệp nhà nước sụp đổ, chính phủ công nhận có điều gì đó sai cơ bản trong hệ thống tài chính của nhà nước Việt Nam. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Nguyễn Văn Bình, cho biết vào đầu tháng Sáu, khoảng 10% khoản nợ tại ngân hàng Việt Nam là nợ xấu (1). Thay vì đổi mới nền kinh tế, chính phủ lại tiếp tục đưa ra những phương án như cũ: Một dự án là để lập ra một cơ quan quản lý tài sản quốc gia với 4,8 tỉ đô-la hầu đối phó với các khoản nợ. Nhưng điều đó có nghĩa là chính phủ lại lập thêm một bộ máy quan liêu kẹt cứng trong mạng lưới của các “ông trùm” trong khối lãnh đạo đảng [CSVN], các ngân hàng, và các công ty.

Giới đầu tư đã phàn nàn về việc phải chịu đựng quá sức với tình trạng quan liêu, và rất nhiều người trong số họ đang toan tính chuyển sang làm ăn ở Indonesia, Bangladesh, Myanmar, ông Denny Cowger, một luật sư của công ty Duane Morris, một công ty luật của Mỹ có văn phòng tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cho biết. Theo Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới cho năm 2011 và 2012, Việt Nam đã tụt 6 hạng xuống hàng 65, vì những quy định nặng nề, lạm phát, thâm hụt ngân sách, và cơ sở hạ tầng quá căng thẳng); Báo cáo này khen Việt Nam là 1 thị trường lao động tương đối hiệu quả và có “tiềm năng sáng tạo”).

Khu vực kinh tế quốc doanh, trong khi đó, tiếp tục nuốt trửng 40% của GDP. “Điểm then chốt là Việt Nam phải thực hiện một số đổi mới kinh tế cơ bản để duy trì khả năng cạnh tranh,” Carl Thayer, một giáo sư tại Đại học New South Wales nói. “Tuy nhiên, có nhiều khả năng giới lãnh đạo Việt Nam sẽ dùng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu như một cái cớ để giữ nguyên hiện trạng.”

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin buổi sáng-12/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link