KHONG VE VIET NAM NEU CON VIET CONG (KVVNNCVC)
MUON CHONG TÀU CONG PHAI DIET VIET CONG (MCTCPDVC)
MUON DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN (MDVCPDVG)
Thưa anh Lưu Vũ,
Đây không thể gọi là một luân án, mà chỉ là một thiên phóng sự về tệ nạn đĩ điếm Saigon, à xin lỗi, đĩ điếm Hồ Chí Minh. Nếu anh vào google gõ gõ mấy chữ ĐĨ ĐIẾM HỒ CHÍ MINH thì còn được đọc nhiều bài hay hơn.
Làm một luận án về tình trạng đĩ điếm ở xã hội VN mà không nói tới xã hội hiện tại VN, không nói tới nguyên do do đâu mà tình trạng đĩ điếm nó như thế và không đề ra những phương thức để cải thiện thì không đáng gọi là một luận án. Đừng nói là sợ đụng chạm tới ngụy quyền CSVN, đừng nói là sợ bị ghép vào tội “tuyên truyền chống phá nhà nước…” chiếu điều 88 bộ luật hình sự hay tội “có âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân…” chiếu điều 79 bộ luật hình sự.
Lê Duy San
--------------------
Nếu anh San làm luận án thì chắc chắn là trên cả Xuất Sắc.
-------------------
KHONG VE VIET NAM NEU CON VIET CONG (KVVNNCVC)
MUON CHONG TÀU CONG PHAI DIET VIET CONG (MCTCPDVC)
MUON DIET VIET CONG PHAI DIET VIET GIAN (MDVCPDVG)
Luận án của cô này được chấm giải nhất là qúa đáng có lẽ vì người chấm không biết rằng ở Việt Nam còn có đĩ đực nữa. Đây là một thiếu xót rất quan trong.
LDS
--------------------
Sent: Sunday, November 18, 2012 10:33 AM
Subject: Luận án về mại dâm ở Việt Nam chiếm giải nhất tại Hoa Kỳ
Subject: Luận án về mại dâm ở Việt Nam chiếm
giải nhất tại Hoa Kỳ
Nguồn ảnh: UC Berkeley
Luận án về mại dâm ở Việt
Nam chiếm giải nhất tại Hoa Kỳ
Tiến sĩ Đại học Berkeley thắng giải nhất xã
hội học cho luận án về mại dâm ở Việt Nam
DCVOnline - Tin Public Affairs,
UC Berkeley | 09 tháng 5 năm 2012.
BERKELEY - Kimberly Hoàng, tốt
nghiệp tiến sĩ Xã hội học tại UC Berkeley năm 2011, đã được Hội Xã hội học Mỹ
trao giải “luận án hay nhất” cho luận án tiến sĩ về mại dâm tại Việt Nam.
|
|
Luận án tựa đề “Tính kinh tế của tình dục
và chăn gối tại Việt Nam”, là công trình 15 tháng nghiên cứu về dân tộc học
tại TP Hồ Chí Minh; tại đây Ts Kimberly Hoàng đã làm việc như một chiêu đãi
viên tại bốn quán bar phục vụ cho các nhóm khách hàng khác nhau. Theo giáo sư
xã hội học Berkeley Raka Ray, chủ tịch ủy ban luận án, nghiên cứu của Kimberly
Hoàng “không những chỉ làm nổi bật là cấu trúc và cách hành nghề mại dâm ở Việt
Nam mà còn giải thích mại dâm giữ vai trò quan trọng như tiền mặt trong nền
kinh tế chính trị của Việt Nam.”
Trong lá thư đề cử, Gs. Ray gọi luận án “Tính kinh tế của tình dục và chăn gối tại Việt Nam” là “một tác phẩm tuyệt vời” của “một nhà tư tưởng can đảm và sáng tạo” và ông nói thêm rằng Ts. Hoàng “nghiên cứu điền dã ít người dám thực hiện”.
Kimberly Hoàng là con gái trong một gia đình di cư, chủ tiệm bi-da trong khu phố cũ, tốt nghiệp danh dự tại đại học UC Santa Barbara năm 2005 rồi lấy Thạc sĩ tại đại học Stanford trước khi đến học ở Berkeley.
Trong lá thư đề cử, Gs. Ray gọi luận án “Tính kinh tế của tình dục và chăn gối tại Việt Nam” là “một tác phẩm tuyệt vời” của “một nhà tư tưởng can đảm và sáng tạo” và ông nói thêm rằng Ts. Hoàng “nghiên cứu điền dã ít người dám thực hiện”.
Kimberly Hoàng là con gái trong một gia đình di cư, chủ tiệm bi-da trong khu phố cũ, tốt nghiệp danh dự tại đại học UC Santa Barbara năm 2005 rồi lấy Thạc sĩ tại đại học Stanford trước khi đến học ở Berkeley.
Hiện nay Ts. Kimberly Hoàng là một nghiên cứu
sinh sau tiến sĩ tại Trung tâm Nghiên cứu Giới tính, Phụ nữ và Tình dục tại Đại
học Rice; Ts. Hoàng sẽ giảng dạy tại Khoa Xã hội học tại Boston College vào năm
2013.
Giải thưởng của Kimbery Hoàng sẽ được trao vào tháng Tám tại cuộc họp thường niên của Hội Xã hội học Hoa Kỳ (The American Sociological Association, ASA). © DCVOnline
Giải thưởng của Kimbery Hoàng sẽ được trao vào tháng Tám tại cuộc họp thường niên của Hội Xã hội học Hoa Kỳ (The American Sociological Association, ASA). © DCVOnline
Berkeley Ph.D. wins top sociology prize for dissertation
on sex work in Vietnam
By Public
Affairs, UC Berkeley | May 9, 2012
BERKELEY —
Kimberly Hoang, who earned her sociology
Ph.D. at UC Berkeley in 2011, has won the American Sociological Association’s
“best dissertation” award for her doctoral dissertation on sex work in Vietnam.
Kimberly Hoang
The winning entry, New Economies of Sex
and Intimacy in Vietnam, was based on 15 months of ethnographic research in
Ho Chi Minh City, where Hoang worked as a bartender and hostess in four bars
that catered to different groups of clients. According to Berkeley sociology
professor Raka Ray, who chaired her dissertation committee, Hoang’s research “highlights
not just the structure and practices of sex work in Vietnam, but demonstrates
how it serves as a vital form of currency in Vietnam’s political economy.”
In her nominating letter, Ray called the
dissertation “a stunning piece of work” by “an absolutely fearless and creative
thinker,” adding that Hoang had done “the sort of fieldwork few others dare.”
Hoang, the daughter of immigrant parents who
ran an inner-city pool room, graduated summa cum laude from UC Santa
Barbara in 2005 and earned her master’s from Stanford before coming to
Berkeley. Now a postdoctoral fellow at the Center for the Study of Women,
Gender and Sexuality at Rice University, she will join the sociology faculty of
Boston College in 2013.
Hoang’s award will be presented in August at
the ASA’s annual meeting in Denver.
Tính kinh tế của tình dục
và chăn gối
tại Việt Nam
Tác giả: Kimberly Kay Hoang nhận
bằng MA về xã hội học ở trường Stanford University và hiện đang là nghiên cứu
sinh tiến sĩ ở khoa xã hội học tại University of California, Berkeley. Lĩnh vực
nghiên cứu chủ yếu của chị là giới tính, nhập cư, toàn cầu hoá và kĩ nghệ tình
dục ở Việt Nam.
Luận án tựa đề “Tính kinh tế của tình dục và
chăn gối tại Việt Nam”, là công trình 15 tháng nghiên cứu về dân tộc học tại TP
Saigon; tại đây Ts Kimberly Hoàng đã làm việc như một chiêu đãi viên tại bốn
quán bar phục vụ cho các nhóm khách hàng khác nhau. Theo giáo sư xã hội học
Berkeley Raka Ray, chủ tịch ủy ban luận án, nghiên cứu của Kimberly Hoàng
“không những chỉ làm nổi bật là cấu trúc và cách hành nghề mại dâm ở Việt Nam
mà còn giải thích mại dâm giữ vai trò quan trọng như tiền mặt trong nền kinh tế
chính trị của Việt Nam.”
Trong lá thư đề cử, Gs. Ray gọi luận án“Tính
kinh tế của tình dục và chăn gối tại Việt Nam” là “một tác phẩm tuyệt vời” của
“một nhà tư tưởng can đảm và sáng tạo” và ông nói thêm rằng Ts. Hoàng “nghiên
cứu điền dã ít người dám thực hiện”.
Kimberly Hoàng là con gái trong một gia đình
di cư, chủ tiệm bi-da trong khu phố cũ, tốt nghiệp danh dự tại đại học UC Santa
Barbara năm 2005 rồi lấy Thạc sĩ tại đại học Stanford trước khi đến học ở
Berkeley. Hiện nay Ts. Kimberly Hoàng là một nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại
Trung tâm Nghiên cứu Giới tính, Phụ nữ và Tình dục tại Đại học Rice; Ts. Hoàng
sẽ giảng dạy tại Khoa Xã hội học tại Boston College vào năm 2013.
Giải thưởng của Kimbery Hoàng sẽ được trao
vào tháng Tám tại cuộc họp thường niên của Hội Xã hội học Hoa Kỳ (The American
Sociological Association, ASA).
Tóm tắt
Bài báo này khảo sát nền công nghệ tình dục
ở thành phố HCM, Việt Nam, một đất nước đã nhanh chóng thực hiện việc tái cấu
trúc nền kinh tế trong hơn 20 năm qua.
Trên cơ sở khảo sát tại chỗ trong khoảng
thời gian từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007, tôi phân tích và so sánh
quan hệ của những người lao động tình dục và các khách hàng của họ trong ba khu
vực khác nhau của ngành công nghệ tình dục.
Khu vực hạ cấp mua vui cho đàn ông Việt
Nam, khu vực trung cấp phục vụ cho người da trắng ngoại quốc và khu cao cấp
phục vụ cho người Việt hải ngoại (Việt kiều).
Tôi sử dụng lý thuyết của Arlie Hochschild
về biểu hiện tình cảm để minh hoạ những người phụ nữ trong khu vực hạ đẳng
thường có thái độ thô bạo trong khi những người phụ nữ làm việc trong khu vực
trung và cao cấp thường có tình cảm hơn.
Khía cạnh tình cảm trong các mối quan hệ
này cho thấy những điều kiện tạo thành những sự lựa chọn mà những người lao
động trong lĩnh vực tình dục có thể có đối với khách làng chơi của họ.
Dẫn nhập
Trong vài chục năm gần đây đã xuất hiện
nhiều tác phẩm viết về công nghệ tình dục trên phạm vi toàn cầu (Bales, 2004;
Cabezas, 2004; Kempadoo, 2004).
Trong mười năm qua, các nhà khoa học đã tập
trung chú ý đến sự phát triển của du lịch tình dục trên phạm vi toàn cầu, được
thể hiện bởi sự hoà nhập giữa du lịch quốc tế và khu vực, và sự cung ứng và
tiêu thụ các dịch vụ tình dục (Brennan, 2004; Lim, 1998).
Trong nền kinh tế thế giới hiện nay, tình
dục thường kết hợp với dòng di chuyển xuyên quốc gia của đàn ông từ các nước
phát triển sang các nước kém phát triển hơn (Wonders and Michalowski, 2001).
Tiểu luận này khảo sát nền công nghệ tình
dục toàn cầu hiện nay ở thành phố HCM, trước đây gọi là Sài Gòn, một thành phố,
thông qua những thay đổi về mặt kinh tế-xã hội đầy kịch tính trong hơn 20 năm
qua, đã tham gia vào nền kinh tế toàn cầu.
Tôi phân tích và so sánh quan hệ giữa những
người lao động trong lĩnh vực tình dục với các khách hàng của họ trong ba khu
vực khác nhau của nền công nghệ tình dục ở thành phố HCM và đưa ra mẫu thức của
tình cảm trong những mối qua hệ này.
Về phía khách làng chơi đàn ông, tôi nhận
thấy rằng một số người thích trả nhiều tiền hơn để đổi lấy sự thân tình chứ
không chỉ tình dục.
Về phía người lao động, tôi nhận thấy rằng
khu vực dịch vụ quyết định hình thức tình cảm, người được trả công cao thường
có biểu hiện tình cảm cao hơn.
Elizabeth Bernstein (2007) là khoa học gia
duy nhất mà tôi biết đã thử so sánh những người lao động trong những khu vực
khác nhau của nền công nghệ tình dục ở San Francisco.
Công trình nghiên cứu của Bernstein cho
thấy tình cảm của những người lao động tình dục trong những khu vực được trả
công trung bình và cao thông qua cái mà bà gọi là sự xác thực có giới hạn. Tuy
nhiên bà biện luận rằng những người đàn bà đứng đường được trả công thấp thường
tỏ ra vô cảm “làm cho xong”, không hề có tí tình cảm nào trong đó.
Tôi mở rộng công trình nghiên cứu của
Bernstein thông qua việc khảo sát ba lĩnh vực của nền công nghệ tình dục ở
thành phố HCM. Trái ngược với Bernstein, tôi thấy rằng những người lao động
trong khu vực hạ cấp làm tình chỉ vì tiền thường có thái độ thô bạo vì họ phải
đè nén sự kinh tởm trước cơ thể và tuổi tác của khách làng chơi.
Hơn nữa, trong khi Bernstein thấy rằng tình
dục cao cấp thường hoạt động trong không gian có tính rất riêng tư, khảo sát
của tôi lại cho thấy khu vực tình dục cao cấp lại được thể hiện khá tình cảm,
giúp những người đàn ông thể hiện nam tính của mình một cách công khai nhất ở
thành phố HCM.
Các số liệu của tôi còn chứng tỏ sự tồn
tại, dù không thật rõ,
nhưng cần thiết, giữa sự thân tình và quan hệ kinh tế mà những
người làm việc trong lĩnh vực tình dục trung và cao cấp có dưới hình thức những
biểu hiện thân tình với khách làng chơi (Zelizer, 2005) nhằm làm cho khách cảm
thấy được an ủi, quan tâm, có khả năng tưởng tượng và khát khao.
Hoàn cảnh lịch sử
Mại dâm trong giai đoạn thuộc địa Pháp và
Mỹ
Cùng với việc thiết lập các căn cứ quân sự
với quân đồn trú trên những vùng khác nhau, công nghệ tình dục ở Đông Nam Á
phát triển rất nhanh trong giai đoạn Pháp thuộc và chiến tranh Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng như thế đã tạo ra ở phương
Tây hình ảnh người đàn bà đẹp và ngoan ngoãn ở Đông Nam Á (Enloe, 1990).
Nạn mại dâm ở Việt Nam phát triển cùng với
việc khai thác thuộc địa của Pháp, nhằm phục vụ thực dân. Trong khi trước thời
Pháp thuộc người Việt Nam vẫn sống chủ yếu là ở làng quê, việc phát triển các
trung tâm đô thị – trụ sở của bộ máy quản lý hành chính, thương mại và tài
chính của nhà nước thuộc địa – thúc đẩy sự trỗi dậy trong cơ cấu kinh tế của
đất nước làm cho nạn mại dâm cũng gia tăng (Guenel, 1997).
Sài Gòn-Chợ Lớn, sau này đổi tên là thành
phố HCM, là thành phố bị tác động mạnh nhất trong giai đoạn thuộc địa. Thành
phố này được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông” với dân cư phát triển rất nhanh,
từ 13.000 người vào 1883 lên thành 250.000 vào năm 1932, làm cho Sài Gòn trở
thành biểu tượng của ảnh hưởng của phương Tây (Guenel, 1997: 149).
Cho đến năm 1930 “Sài Gòn là trung tâm đô
thị chủ yếu và là một trong những mắt xích phức tạp của nạn buôn người, có quan
hệ mật thiết với giới mại dâm” (Rodriguez, 2008). Trong những thành phố như Sài
Gòn, thực dân và dân bản xứ quan hệ mật thiết với nhau, điều đó đã dẫn tới
những qui định cứng rắn hơn (Proschan, 2002).
Thực dân Pháp cố gắng quản lý nạn mại dâm ở
Đông Dương bằng cách buộc gái điếm phải đăng ký với chính quyền địa phương. Lý
do căn bản là không để cho dân đi khai thác thuộc địa bị mắc những căn bệnh lây
qua đường tình dục (Stoler, 1991, 1992). Nhưng việc quản lý đã thất bại vì nạn
mại dâm có bảo kê giữ thế thượng phong trong thị trường tình dục.
Mại dâm có bảo kê thường xuất phát từ các
nhà thổ được nguỵ trang thành tiệm café, phòng hút thuốc phiện và quán bar, gây
khó khăn cho việc quản lý công nghệ tình dục (Rodriguez, 2008).
Trong cuộc chiến Việt Nam, chính sách của
Bộ quốc phòng Mỹ là hạn chế mại dâm đến hết mức có thể. Tuy nhiên, trong những
năm 1960, việc quản lý của Mỹ đã trở nên lỏng lẻo hơn.
Đến năm 1966, Sài Gòn có 1000 quán bar, hơn
100 hộp đêm và ít nhất là 30 tửu quán (Sun, 2004: 131).
Khi
Mỹ đổ thêm quân vào Việt Nam thì nhu cầu mại dâm cũng tăng. Năm 1967 có 500.000
quân Mỹ và quân Nam Việt Nam và theo đánh giá thì có khoảng một trăm ngàn phụ
nữ tham gia hoạt động trong lĩnh vực công nghệ tình dục (Dunn, 1994).
Khu vực trung tâm Sài Gòn và gần những khu
nhà của người Mỹ và các căn cứ quân sự dày đặc các quán bar chuyên phục vụ
người Mỹ (Jamieson, 1995). Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến giữa cộng sản
Bắc Việt và chính phủ Nam Việt kết thúc bằng việc Sài Gòn thất thủ.
Thành phố HCM trong khung cảnh toàn cầu
đương đại
Sau khi Sài Gòn thất thủ, Việt Nam thực
hiện chính sách bế quan toả cảng. Chính phủ xã hội chủ nghĩa thực hiện chương
trình phục hồi nhân phẩm nhằm xoá bỏ nạn mại dâm. Nhưng sau một thập kỷ tụt hậu
về sản xuất và lạm phát phi mã, năm 1986 chính phủ Việt Nam thực hiện chính
sách cải tổ mà họ gọi là Đổi Mới, tức là chính sách đã đưa Việt Nam từ nước xã
hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường (Turley and Selden, 1993).
Sài Gòn, sau này được gọi là thành phố HCM,
trở thành một thành phố có tốc độ lưu chuyển người và tư bản rất cao. Là “khu
vực kinh tế trọng điểm phía Nam”, thành phố HCM đóng góp tới 35% tổng sản phẩm
quốc dân của Việt Nam (Pham, 2003).
Theo
sau các nước xã hội chủ nghĩa khác, năm 2006 Việt Nam tham gia WTO, tức là tự
mình lao vào nền kinh tế toàn cầu và thiết lập những mối quan hệ mới với các
nước khác trong lĩnh vực ngoại thương và đầu tư (Greider, 1997; Hoogvelt, 1997;
Sassen, 1998).
Có một số bằng chứng cho thấy thành phố HCM
bắt đầu nổi lên như là một thành phố toàn cầu mới, Saskia Sassen (2001) coi đây
là trung tâm sản xuất, phát triển công nghệ và tài chính tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên thành phố HCM còn thiếu hệ thống
giao thông hiện đại, chưa có thị trường chứng khoán quốc tế lớn và chưa có ảnh
hưởng tích cực đối với thị trường thế giới. Như vậy là, thành phố HCM mới là
thành phố quốc tế đang lên chứ chưa phải là thành phố toàn cầu.
Thành phố quốc tế đang lên, tôi khẳng định,
là một phần của khu vực ngoại vi trong thị trường tư bản toàn cầu mà cơ cấu
kinh tế và xã hội của nó đang ngày càng được định hình bởi quá trình toàn cầu
hoá từ bên trên và hoạt động của chủ nghĩa siêu quốc gia từ bên dưới.
Việc luân chuyển người và tư bản từ các
nước đã phát triển sang các nước kém phát triển hơn là đặc điểm của quá trình
toàn cầu hoá từ bên trên.
Những
cá nhân sống trong các nước kém phát triển hơn lợi dụng các mối liên hệ toàn
cầu của họ nhằm giữ vững hoặc nâng cao mức sống của họ chính là những người
tham gia vào hoạt động của chủ nghĩa siêu quốc gia từ bên dưới (Smith and
Guarnizo, 1998).
Trong hai mươi năm qua người ta đã ít chú ý
đến sự gia tăng hoạt động mại dâm trong đất nước đang toàn cầu hoá này
(Nguyen-Vo, 2008).
Thực vậy, Giáo sư Bùi Thị Kim Quy đã nhận
thấy rằng nạn mại dâm ở Việt Nam đã gia tăng ngay sau Đổi Mới, với khoảng
200.000 phụ nữ Việt Nam thường xuyên tham gia (CATW, 2005).
Tình cảm thể hiện
Tôi sử dụng lý thuyết quan hệ tình cảm của
Arlie Hochschild’s (2003 [1983]) làm phương tiện kiểm tra và so sánh quan hệ
giữa người lao động tình dục với khách làng chơi ở thành phố HCM.
Trong công trình nghiên cứu các tiếp viên
hàng không Mỹ và nhân viên thu nợ, Hochschild đã khảo sát sự thâm nhập của
những mối quan hệ tình cảm vào trong quan hệ thương mại.
Bà chia tình cảm của con người thành hai
phần: phần cốt yếu của tình cảm của con người được thể hiện chủ yếu trong đời
sống riêng, ở gia đình được bà gọi là tình cảm thực (emotion work) và việc biến
tình cảm riêng tư thành một loại hàng hoá đem bán trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa được bà gọi là tình cảm thể hiện (emotional labor).
Muốn thể hiện tình cảm phù hợp với hoàn
cảnh thì người ta phải cố tình gợi lên, uốn nắn và đè nén tình cảm bên trong
bằng cách chuyển hoá tư tưởng, cơ thể và điệu bộ, thông qua cả những hàng động
mang tính bề mặt bên ngoài và sâu thẳm ở bên trong nữa.
Hochschild khẳng định rằng tình cảm thể
hiện thay đổi tuỳ thuộc vào giới tính và giai cấp xã hội.
Những người có địa vị xã hội thấp kém thí
dụ như phụ nữ, người da màu và trẻ con không có “những tấm lá chắn” nhằm bảo vệ
họ khỏi những hành động xúc phạm đến tình cảm.
Nói về giới tính, tình cảm thể hiện rất quan trọng đối với
phụ nữ vì họ ít được độc lập về tài chính, ít quyền lực, uy tín và địa vị xã
hội hơn là đàn ông. Vì vậy mà cần phải khảo sát tình cảm thể hiện thay đổi như
thế nào trong những người làm việc trong lĩnh vực công nghệ tình dục với những
địa vị xã hội khác nhau.
Việc thảo luận thường chủ yếu nhắm vào khu
vực trung và cao cấp.
Bài phân tích của tôi cho thấy những cơ chế
khác nhau của tình cảm thể hiện và ước vọng trong hoạt động và mối quan hệ qua
lại giữa những người lao động tình dục và khách làng chơi trong cả ba khu vực:
hạ đẳng, trung và cao cấp.
Mặc dù có nhiều “kiểu” người lao động và
khách làng chơi trong từng khu vực, nhưng tôi đưa ra những mối quan hệ điển
hình giữa đàn ông và đàn bà trong mỗi khu vực.
Đàn bà trong khu vực hạ đẳng phục vụ chủ
yếu cho khách làng chơi Việt Nam. Họ là những người được trả công thấp nhất, họ
thường chỉ có những mối quan hệ ngắn và nhanh với khách và có thái độ thô bạo
(Xiao, 2009).
Những
người lao động tình dục trong vực khu trung bình phục vụ cho khách du lịch ba
lô da trắng. Trong khu vực này, đàn bà thường dùng tình cảm nhằm tạo ra sự cảm
thông và tình yêu, thông qua những lời dối trá nhằm giữ vững và nâng cao mức
sống của họ.
Trái lại, đàn bà trong khu cao cấp phục vụ
đàn ông Việt kiều và được trả công cao nhất. Đàn bà trong khu vực này dựa vào
sự khao khát và quan tâm giả tạo để có thể sống với tiêu chuẩn “5 sao” quanh
năm.
Mặc dù tất cả những người đàn bà trong công
trình nghiên cứu của tôi đều khoác cho công việc của họ những tấm áo khác nhau,
hiện tượng “ăn bánh trả tiền” trắng trợn thường xảy ra trong khu vực hạ cấp,
trong khi người lao động và khách làng chơi trong khu cao cấp thường trộn lẫn
giữa hoạt động kinh tế với sự thân tình (Zelizer, 2005).
Phương pháp nghiên cứu
Từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007,
tôi đã tiến hành nghiên cứu tại hiện trường trong 7 tháng, chia làm ba thời kỳ.
Trong thời gian này, tôi đã quan sát những
người tham gia trong các quán bar, quán café, nhà của những người lao động tình
dục, những khu phố buôn bán, khách sạn và đường phố.
Các nhà khoa học, những người viết về phụ
nữ lao động tình dục trong giai đoạn thuộc Pháp và Mỹ thường coi đàn bà là gái
điếm trong các nhà thổ.
Nhưng trong bài báo này, tôi tập trung chú
ý vào những người lao động tình dục (sex workers) (Bernstein, 1999) trong kĩ
nghệ tình dục đương đại, những người tự tham gia hoạt động tình dục chứ không
phải là các gái điếm hay trẻ con bị buôn bán hay bị ép buộc (O’Connell
Davidson, 1998).
Như vậy là, công trình nghiên cứu của tôi
chỉ giới hạn trong những người phụ nữ trên 18 tuổi, làm việc như những thực thể
độc lập trong các quán bar hay câu lạc bộ mà thôi.
Tôi bắt đầu công trình nghiên cứu bằng cách
ngồi trong các quán bar và đứng trên đường phố để gặp và làm thân với những
người lao động tình dục và khách làng chơi khác nhau trước khi đề nghị những
người phụ nữ đó tham gia vào đề án của tôi.
Sau khi đã kết thân với những người lao
động trong các quán bar, tôi mới hỏi liệu họ có thể dành thời gian làm việc với
tôi ở bên ngoài quán được không. Tôi cũng sử dụng hiểu biết của hai người lái
xe ôm là Cường và Lộc, hai anh này đã giới thiệu tôi với những người đàn ông và
đàn bà trong khu vực hạ cấp và trung bình. Qua những mối quan hệ như thế, tôi
đã gặp gỡ tổng cộng 54 người lao động và 26 khách làng chơi trong cả ba khu
vực. Đấy là những người đồng ý tham gia vào dự án của tôi.
Khu vực hạ cấp: Tôi phải giải quyết việc đó
trong hai mươi phút
Những người lao động tình dục chuyên phục
vụ cho đàn ông địa phương thường hoạt động trong những địa điểm mang danh hiệu
cắt tóc, quan café hay trong các công viên xung quanh quận I trung tâm thành
phố HCM.
Một buổi chiều mùa hè, Cường chở tôi đến
quân Tân Bình, đi từ trung tâm thành phố mất 45 phút xe ôm. Ở đây có 25 hiệu
cắt tóc nằm thành một dãy sát nhau. Tất cả các hiệu cắt tóc trông đều giống
nhau, rộng khoảng hơn một mét, dài gần hai mét, với hai hoặc ba người lao động
tình dục ngồi bên trong. Không có Cường thì tôi không thể nào ngờ được rằng đây
là những điểm mại dâm vì trông chúng cũng chẳng khác gì những hiệu cắt tóc hợp
pháp khác trên khắp thành phố này.
Chúng tôi dừng lại trước một hiệu có treo
một cái gương lớn và hai chiếc ghế bọc da ở bên trong. Ở đằng sau cái màn hoa
là một chiếc giường bọc da, như thể chỉ đủ cho một người nằm. Quán có vẻ ọp ẹp,
không có bồn rửa tay, cũng chẳng có phòng tắm. Tiền thuê một chỗ như thế khoảng
40 USD một tháng.
Tôi gặp Thuý, Yến và Thu, ba người là chị
em họ với nhau, tuổi khoảng gần 35. Khác với những người làm trong hai khu vực
kia, những người này không có quần áo đẹp hay loè loẹt. Họ là đối tượng của
những người đàn ông nghèo khó trong khu vực, những người cho rằng cơ thể của họ
vừa gần gũi lại vừa quen thuộc nữa. Tôi đã đến cái quán này mấy lần, giống như
mọi quán khác trên cùng con phố, nó thường hoạt động vào buổi sáng và buổi
chiều và đóng cửa trước 5 hoặc 6 giờ chiều. Thời khoá biểu như thế giúp những
người đàn bà này che giấu gia đình và họ có thể có mặt ở nhà khi con họ đi học
về. Những người đàn bà này kiếm sống bằng mãi dâm, mỗi khách làng chơi chỉ trả
họ 3USD là cùng.
Thuỷ, Yến và Thu đều là các bà mẹ đơn thân;
chồng họ đã bỏ đi theo những người đàn bà trẻ hơn. Sau khi bị ruồng bỏ, để có
tiền nuôi con các cô phải bán dâm. Trung bình mỗi cô có ba người khách một
ngày, tức là được khoảng 100 USD một tháng. Theo Thuỷ thì như thế là thu nhập
cao hơn những người phục vụ trong các nhà hàng hay “osin” khoảng 40USD/tháng.
Khi mới vào, khách làng chơi ngồi lên ghế,
các cô bắt đầu massage đầu và cổ. Nếu là khách mới thì các cô phải đợi khách tự
yêu cầu “dịch vụ”, nghĩa là họ biết có việc bán dâm ở đây. Thực ra, đúng là có
người đến cắt tóc thật, nhưng ít người đi ra với cái đầu đã được hớt gọn gàng.
Khách quen thường đến đòi phục vụ tình dục ngay. Tất cả các cửa hiệu cắt tóc
trên con đường này cũng như trong các quận ngoại thành khác đều hoạt động theo
kiểu ấy.
Quan hệ người lao động-khách làng chơi
thường kéo dài 20 phút, đấy là khi các cô không gặp phải những “ca khó”; trong
những trường hợp như thế (khó), cô khác phải vào giúp; khách làng chơi vẫn chỉ
trả có 3 USD. Tôi ngồi tán gẫu với các cô suốt 3 tiếng đồng hồ trước khi Phong,
một khách làng chơi khoảng 45 tuổi, tới. Anh này mặc một chiếc quần màu xám, áo
T-shirt cộc tay. Anh ta ngồi lên chiếc ghế da, nhưng cả anh ta lẫn ba người phụ
nữ và tôi đều không nói một lời nào.
Tôi thấy Thuỷ massage cổ anh ta chừng năm
phút, rồi hỏi: “Anh sẵn sàng chưa?” - Không
trả lời, anh ta đi vào nằm lên giường, còn Thuỷ thì kéo bức màn che lại.
Khi Thuỷ “làm việc” thì Yến và Thu quay
sang tôi. Tôi hỏi: “Anh ta là khách hàng thường xuyên à?” / Yến
đáp: “Vâng, tuần nào anh ta cũng tới và chỉ đòi Thuỷ thôi. Chúng tôi rất lo vì
anh ta là loại khó”. Tôi hỏi: “Khó nghĩa là thế nào?” Cô bảo: “Anh ta thuộc
loại có tuổi, Thủy cảm thấy khó cho nên chúng tôi phải vào giúp. Tôi ghét lắm
vì anh ta bóp rất chặt. Đôi khi rất đau, nhưng chúng tôi không dám nói hay làm
gì vì anh ta trả tiền cho chúng tôi”.
Hai mươi phút sau Thuỷ và khách của cô đi
ra. Anh ta lấy xe mô tô và phóng đi mà không nói với ai câu nào. Sau khi khách
đã đi, tôi hỏi Thuỷ: “Các vị có nói chuyện với nhau không?” Cô nhìn tôi và bảo
[bằng tiếng Việt],
“Không,
chẳng có gì mà nói. Họ đến và nhận được cái mà họ cần rồi đi. Chúng tôi có thể
nói gì được? Có vẻ như họ chẳng quan tâm hay tôn trọng gì chúng tôi. Đôi khi ba
chúng tôi nói chuyện rồi khóc với nhau vì những người như cái gã vừa nãy là
những kẻ rất khó. Họ tỏ ra thô lỗ và chỉ muốn nhận cái mà họ trả tiền thôi. Nếu
chúng tôi không “giải quyết được” thì họ sẽ không trả tiền cho nên đôi khi cả
ba chúng tôi phải thay nhau giải quyết cho ‘nó ra’”.
Kiểu quan hệ này thường chỉ là “ăn bánh trả
tiền” mà không cần mặc cả hay tình cảm gì hết. So với những người phụ nữ trong
khu vực trung và cao cấp thì những người đàn bà này không cần cố gắng thiết lập
quan hệ thân mật với khách làng chơi. Những người phụ nữ trong khu vực này phải
là cái việc mà Hochschild (2003 [1983]) gọi là “kiểm soát hay đè nén tình cảm,
tức là cố tình đè nén cái tình cảm không hay đang xuất hiện”. Những người đàn
bà này phải đè nén cảm xúc coi thường khách làng chơi của họ. Khách làng chơi tới,
được phục vụ và rời khỏi tiệm trong vòng 20 phút. Những người đàn bà trong khu
vực này mất thì giờ chủ yếu cho công việc và gia đình, và không tìm cách chuyển
sang khu vực được trả công cao hơn.
Do tính chất quan hệ giữa người lao động và
khách cho nên tôi khó bắt chuyện với khách làng chơi khu vực hạ đẳng. Vì vậy mà
Cường, tức là anh lái xe ôm mà tôi quen, thường bắt chuyện với những người đàn
ông địa phương, anh hỏi, còn tôi thì ngồi nghe. Khi ngồi với Cường trong một
quán café nhỏ ở quận Tân Bình, tôi đã gặp một người lái xe tải tên là Thực,
khoảng 35 tuổi. Cường hỏi: “Anh có hay vào quán này không?” - Thực đáp: “Có, tôi thường đến đây khi đi ra
ngoài thành phố”.- Cường hỏi: “Mấy cô ở đây
thế nào?” - Thực bảo: “Mấy người ở đây đều là phụ nữ nhà quê, họ
sạch sẽ nhưng không thể nói chuyện với họ được. Tôi đến, giải quyết, rồi đi.
Chỉ phải trả 50 ngàn (3 USD) thôi. Còn đòi gì nữa? Họ không phải là những người
đàn bà cao sang đi với bọn da trắng. Họ chỉ là những người đàn bà nông thôn
nghèo túng không có việc làm mà thôi”.
Những người đàn bà này chỉ bán thân vì
khách hàng của họ cũng chẳng cần gì hơn là làm tình. Đa số đàn ông đến đây là
những người thất nghiệp hoặc không có tay nghề, thu nhập chừng 50 USD tháng; họ
không thể đòi hỏi hơn. Quan hệ giữa người lao động-khách hàng là “mì ăn liền”,
khách làng chơi làm tình với những người mà họ cảm thấy dễ chịu. Mặc dù khách
làng chơi không nghĩ rằng những người phụ nữ ở đây thể hiện tình cảm với họ,
nhưng thật ra, những người phụ nữ ở đây phải đè nén sự khinh bỉ đối với khách
hàng của mình.
Khu trung lưu: “Cô ấy là một người khoẻ
mạnh và trung thực”
Giống như đường Khao San ở gần Bangkok hay
phố Petaling ở Kuala Lumpur, Phạm Ngũ Lão, quận 1 ở thành phố HCM là khu du
lịch “Tây ba lô”.
Những khu vực này phục vụ du khách quốc tế
đủ mọi thành phần, nhưng nổi tiếng vì có các dịch vụ du lịch và khách sạn rẻ
tiền.
Có rất nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm,
khách sạn mini, hãng du hành, nhà hàng, quán café và dĩ nhiên là các quán bar
chuyên phục vụ đàn ông da trắng nữa. Các phố trong khu vực này đầy những người
bán hàng rong, trẻ con đường phố và phục vụ chủ yếu cho người nói tiếng Anh.
Tôi tiến hành khảo sát bảy quán bar trong
khu vực này. Mối quan hệ giữa người lao động và khách làng chơi có thể thấy rõ
trong một quán tên là Azul, rộng khoảng một mét rưỡi, dài chừng bốn mét, quầy
thu ngân ốp đá với 6 chiếc ghế cho khách ngồi và uống. Phía sau là một chiếc
ghế bành hình chữ L bọc da. Ngay ngoài cửa có hai cái bàn, chủ quán thường ngồi
và nói chuyện với khách ở đấy. Những người lao động tình dục làm việc ở đây
đóng vai người pha rượu có lương. Trong khi họ là những người kéo khách vào
quán thì họ lại chẳng được chủ trả cho đồng nào. Những người lao động tình dục
dùng quán làm chỗ gặp gỡ khách làng chơi và họ tự ra giá mà không cần trung
gian nào hết. Người lao động phải trả cho chủ quán 7 USD sau mỗi lần “đi”
khách. Khách làng chơi phải trả từ 30 đến 70 USD, tuỳ thuộc vào yêu cầu của
từng cô và khả năng mặc cả của khách.
Các quán bar trong khu vực “Tây ba lô” có
tốc độc lưu chuyển cao, không chỉ vì các cô ở đây thường chuyển từ quán nọ sang
quán kia, hi vọng tìm được khách mới mà còn vì các quán này thường bị chính
quyền bắt đóng cửa, rồi lại được mở. Tất cả các cô tôi gặp ở khu vực này đều có
tuổi gần ba mươi và phần lớn là những bà mẹ đơn thân.
Tôi gặp Trâm vào tháng 6 năm 2006 và giữ
liên lạc với cô cho đến tháng 8 năm 2009, sau đó cô đi Canada với ông chồng
người Mỹ tên là William vì cô không được nhập cư vào Mỹ.
Khi gặp Trâm lần đầu trong quán Azul, cô đã
làm tôi ngạc nhiên vì đây là người sành điệu nhất trong quán. Cao khoảng 1 mét
6, cô thường mặc những bộ quần áo làm nổi bật những đường cong trên cơ thể. Cô
trang điểm nhẹ nhàng và tự nhiên, tay và cổ đều có đeo vòng, hoa tai có gắn hạt
xoàn. Bề nổi, Trâm có rất nhiều tiền và tất cả những người phụ nữ trong quán
bar này đều ghen tị với đồ trang sức của cô.
Tôi đã bắt chuyện với Trâm ngay tối đầu
tiên. Cô nói là trước đây cô đã có chồng người Việt Nam, tên là Hải và có với
anh này ba đứa con. Người chống cũ và ba đứa con cũng như họ hàng đều sống cách
trung tâm thành phố chừng một giờ đi xe. Cách đây vài tháng bạn cô, tên Trang,
giới thiệu cô cho Cô Thuỷ, chủ nhà hàng và cô bắt đầu giữ chân pha rượu từ đấy.
Ban đầu Cô Thuỷ bảo là Trâm chỉ được nhận tiền “bo” của khách ngoại quốc. Tháng
đầu cô được 75 USD. Chẳng bao lâu sau cô biết rằng có thể kiếm được nhiều hơn
nếu cô chịu đi “với khách về nhà”. Trâm bảo tôi: “Cô Thuỷ không bao giờ ép tôi
đi khách. Nhưng cô ấy bảo tôi là có thể kiếm được nhiều tiền nếu làm theo cách
đó. Thế là tôi bắt đầu làm và kiếm được khoảng 75 USD mỗi lần đi khách.”
Trâm kể cho tôi nghe chuyện làm quen với
một người đàn ông đến từ bang Connecticut, tên là William, ngay trong quán bar
này. Ban đầu William có vẻ rất thích cô và trả giá cao (120 USD mỗi đêm). Sau
hai tuần họ đã có quan hệ thân mật, họ kể cho nhau nghe chuyện đời mình và đi
chơi phố với nhau suốt ngày.
William rời Việt Nam để về Mỹ vào tháng 6
năm 2006, nhưng vẫn giữ quan hệ với Trâm qua chatroom và email. Anh gửi cho cô
mỗi tháng 500 USD để chi tiêu và trả tiền học phí tiếng Anh. Năm tháng sau
(tháng 1 năm 2007) William quay lại Việt Nam, Trâm li dị với người chống cũ và
hai người kết hôn. Sau đó không lâu cô sinh một bé gái, đặt tên là Jessica và
họ rời khỏi khách sạn để chuyển đến căn hộ ba buồng ở Phú Mỹ Hưng, một khu
ngoại ô mới với những căn hộ và villa sang trọng dành cho giới giàu có mới.
Trâm và William phải trả tiền thuê nhà là 1200 USD một tháng, tức là gấp 12 lần
giá trung bình ở thành phố HCM. Đấy là khu nhà ở mới nhất và đắt nhất, nằm
trong quận đang được cải tạo. William và Trâm đồng ý ở lại Việt Nam cho đến khi
cô được phép di cư.
Tôi hỏi Trâm tại sao cô còn làm trong ngành
kĩ nghệ tình dục khi đã có đủ thứ mà đa số những người phụ khác trong lĩnh vực
này ước ao: chồng ngoại quốc, tiền và cơ hội định cư ở nước ngoài. Trâm nói
[bằng tiếng Việt]:
“Các cô ở đây bảo rằng tôi tham. Tôi làm ở
đây vì hai lý do. Thứ nhất, tôi phải gửi tiền cho anh chồng cũ và con tôi. Tôi
vẫn còn yêu anh chồng đầu tiên. Tôi phải giả vờ yêu William và chăm sóc anh ta
vì anh đã giúp đỡ gia đình tôi rất nhiều. Không phải là tôi không yêu William.
Nhưng đây là kiểu tình yêu khác, ta phải nuôi dưỡng tình yêu đối với người đã
giúp đỡ mình. Không có gì bảo đảm là William sẽ đưa được tôi ra khỏi Việt Nam
được. Sứ quán nghiên cứu rất kĩ các trường hợp làm đám cưới giả. Họ có thể cho
rằng đám cưới của tôi là giả vì tôi đã li dị cho nên tôi phải có kế hoạch dự
phòng chứ”.
Mặc dù Trâm phải nuôi “tình yêu” với William,
tình cảm của cô đã chuyển hoá từ cố gắng tạo ra tình cảm và quan tâm sang tình
cảm sâu nặng đối với William. Trâm tiếp tục làm việc trong ngành kĩ nghệ tình
dục ngay cả khi đã kiếm được một ông chồng ngoại quốc là vì địa vị về mặt kinh
tế và xã hội của cô chưa được chắc chắn, và cô cần tiền để cung cấp cho gia
đình.
Những người phụ nữ đồng cảnh ngộ với Trâm
sống trong thành phố quốc tế mới nổi có thể dựa vào hoàn cảnh nghèo nàn và
thuộc thế giới thứ ba của đất nước nhằm kich
thích trí tưởng tượng của khách làng chơi, để họ cảm thấy như đang đóng vai
những vị cứu tinh cho các cô.
Sau khoảng hai tháng rưỡi làm quen với Trâm
trong quán bar, quán café và mua sắm, Trâm bắt đầu nói cho tôi biết những tình
tiết trong cuộc sống với William.
Một buổi chiều tháng 8 năm 2007, Trâm mời
tôi về nhà, tôi gặp William và con gái họ là Jessica ở đấy. Khi nói chuyện về
Việt Nam, William bảo tôi:
“Chị biết đấy, người ta thường có quan niệm
xấu về những người đàn ông da trắng lấy vợ Việt Nam. Nhưng tôi yêu Trâm ngay từ
ngày đầu tiên tôi gặp cô ấy ở nhà hàng Azul. Không như những người đàn bà ở Mỹ,
cô ấy không đòi bình đẳng. Cô ấy biết cách chăm sóc tôi. Cô ấy là người giàu
tình cảm và cô ấy làm cho tôi cảm thấy mình là người được yêu. Mặc dù chúng tôi
có osin, chuyên nấu ăn và giặt giũ, nhưng Trâm vẫn hướng dẫn cho cô ta cách nấu
những món ăn mà tôi thích”.
Tôi hỏi anh ta: “Tại sao anh lại lấy cô ấy
mà không lấy người nào đó ở Mỹ?” . Anh
ta đáp: “Tôi là người lái xe bus đã 20 năm nay, khó tìm người yêu lắm. Không ai
muốn lấy lái xe bus hết. Sau khi mẹ mất tôi được thừa kế rất nhiều tiền và tôi
quyết định đi chu du khắp thế giới. Việt Nam là nơi dừng chân cuối cùng của
tôi. Tôi yêu đất nước này và yêu Trâm nữa. Tôi không nói được tiếng Việt và cô
ấy nói tiếng Anh cũng không tốt lắm, nhưng chúng tôi vẫn hiểu nhau. Tôi vui vì
được chăm sóc cô ấy. Khi tôi nhìn thấy cảnh cha mẹ và con cô ấy sống, tôi đã
cho họ 50.000 USD (trong vòng 6 tháng) để xây lại nhà. Chúng tôi gửi cho họ mỗi
tháng 200 USD để mua thức ăn và đồ dùng lặt vặt. Trâm là người mạnh khoẻ và đa
tình”.
Đàn ông gặp những người như Trâm đã thấy lý
do vì sao cô lại tham gia vào kỹ nghệ tình dục. Trâm và William quan tâm đến
nhau, hai người kể cho nhau nghe câu chuyện của đời mình, yêu nhau (thật hay
giả) và quan tâm đến nhau.
William nói với tôi ước muốn được “chăm
sóc” người đàn bà trung thực và mạnh mẽ như Trâm. Anh ta còn muốn cứu cô khỏi
cảnh làm gái bán bar vì khác với những người đàn bà ở phương Tây, Trâm làm cho
William không chỉ cảm thấy được yêu mà còn là người cần thiết và trên thực tế
là nhân vật quan trọng vì anh đã chi tiền để cải tạo căn nhà của bố mẹ cô.
Khác với những người lao động tình dục
chuyên phục vụ cho đàn ông Việt Nam đã nói đến bên trên, khả năng nói tiếng
Anh, khả năng giao tiếp với người nước ngoài và tạo cảm giác yêu đương và thông
cảm của Trâm đã giúp cô thuyết phục được những người đàn ông phức tạp như
William thường xuyên giúp đỡ cô.
Câu chuyện về những người như William và
Trâm cho thấy chiến thuật của phụ nữ trong việc sử dụng tình cảm để có thể nhận
được tiền, nâng cao mức sống và có thể ra nước ngoài định cư.
Khu vực cao cấp: “Nhiều người thích cô ấy,
nhưng cô ấy chỉ đi với tôi thôi”
Những người phụ nữ làm việc trong khu cao
cấp của ngành kĩ nghệ tình dục ở Việt Nam không ra giá trực tiếp.
Trong khu vực này, quan hệ kinh tế và tình
cảm đan xen vào nhau đến mức là cả đàn ông lẫn phụ nữ đều thường cố gắng thể
hiện quan hệ tình cảm mà ít nói với nhau trực tiếp về tiền (Zelizer, 2005).
Người lao động tình dục trong khu vực cao
cấp có gắng tạo dựng “quan hệ thân tình” và che đậy sự kiện là muốn được trả
nhiều tiền hay quà tặng đắt tiền (Zelizer, 2005).
Giống như những người lao động tình dục ở
Thái Lan mà Aura Wilson (2004) đã khảo sát, những người phụ nữ hoạt động trong
khu vực cao cấp ít khi ra giá trực tiếp. Đa số bỏ túi được nhiều hơn bằng các
món quà.
Các cô thường chi khá nhiều tiền cho các
thẩm Mỹ viện và quán bar, nhằm tạo cho khách hình ảnh của những người đi chơi
giàu có. Nhưng khác với những người phụ nữ địa phương vào quán với bạn bè,
những người này biết rằng họ đang làm việc. Họ lợi dụng sắc đẹp và khả năng
biến tình cảm của mình thành một món hàng.
Khách
làng chơi quan hệ với những người lao động tình dục cao cấp trả tiền không chỉ
vì nhục dục, họ trả tiền vì người đàn bà đẹp và đáng yêu, những người dành
nhiều thời gian tâm sự với họ trong nhà hàng hay quán café chứ không chỉ làm
tình.
Tôi xin minh hoạ khu vực cao cấp bằng hai
câu chuyện của một người lao động và một khách làng chơi trong ngành công nghệ
tình dục Việt Nam như sau.
Tôi làm quen với Thanh, một Việt kiều, cũng
là chuyên viên máy tính ở Paris về Việt Nam thăm gia đình, sống cùng khách sạn
với tôi.
Một tối Thanh cho tôi đi theo anh ta. Sau
khi vào quán Whisper, một quán bar nằm ngay trung tâm quân 1, Thanh nói với tôi
[bằng tiếng Anh]: “Tất cả [các cô ở đây] đều làm, chị phải trả giá đúng”.
Khi tôi đề nghị giải thích thì anh ta nói:
“Đấy là món đồ uống mà chị sẽ mua. Tôi nghĩ, thường thì mua một chai Remy [chai
Cognac giá khoảng 100 dollars] và sau đó mời các cô đến nói chuyện”.
Đêm đó Thanh gặp hai người, Châu và Hoài,
cả hai đều mặc quần áo cộc và đi giày cao gót. Châu 23 tuổi, còn Hoài 24. Khi
Thanh giới thiệu, chúng tôi cùng mỉm cười và không nói chuyện được nhiều vì
nhạc trong quán mở to quá. Thanh thích Hoài và họ bắt đầu ve vãn nhau. Cuối
buổi Thanh và Hoài cho nhau số điện thoại và họ đi vào khách sạn, vào quán
café, quán bar với nhau suốt hai tuần liền. Trước hôm Thanh trở về Paris tôi đã
mời anh ta đi uống café và làm một cuộc phỏng vấn không chính thức.
Câu đầu tiên Thanh nói với tôi bao trùm
việc buôn bán sắc đẹp của đàn bà và ước muốn của đàn ông [bằng tiếng Anh]:
“Chị biết đấy, tôi chỉ ở đây có hai tuần
thôi và có một người đẹp đi chơi cùng thì còn gì thú bằng. Nghĩa là, chị biết
đấy, tôi là thanh niên Việt Nam, tôi mua cho cô ta đồ trang sức, quần áo và cho
cô ta tiền tiêu trong thời gian chúng tôi bên nhau. Thanh niên da trắng kiệt sỉ
lắm. Họ đếm từng xu, trong khi người Việt Nam chúng ta phóng khoáng hơn. Tôi là
người tốt, chị biết đấy, tôi cho cô ấy tiền và mua cho cô ấy tặng phẩm. Tôi
quan tâm đến cô ấy. Tôi có thể tiêu nhiều tiền trong hai tuần cũng không sao.
Đây là kì nghỉ của tôi”.
Khi tôi hỏi Thanh trong hai tuần qua anh ta
đã chi cho Hoài bao nhiêu, thì anh ta bảo: “Tôi không biết. Tôi mua cho cô ấy
rất nhiều đồ, thỉnh thoảng tôi lại đưa cho cô ấy hai trăm… có thể sáu bảy trăm
dollars”.
Khi tôi nói về quan niệm của anh ta về
những người làm việc trong lĩnh vực tình dục ở Việt Nam và tỉ giá ngoại tệ,
Thanh giải thích: [bằng tiếng Anh]: “Những cô gái này cao giá vì họ trẻ,
xinh xắn, và những anh chàng khác cũng muốn. Chị biết đấy, họ khéo léo và biết
nói tiếng Anh. Họ biết cách nói chuyện với đàn ông… Tôi biết nếu tôi đưa ít thì
cô ấy sẽ đi với người khác. Tôi không muốn những cô xấu xí đang nói chuyện với
mấy tay da trắng mà chị nhìn thấy kia.”
Việt kiều, tương tự như Thanh, đến Việt Nam
để thụ hưởng không chỉ tình dục. Những người đàn ông này mua dịch vụ của những
người lao động tình dục trong khu vực cao cấp, tức là mua dịch vụ của những cô
gái trẻ, đẹp, phong lưu và có nhiều người thích, và quan trọng hơn là làm cho
họ cảm thấy là mình cũng được người khác thích.
Những người phụ nữ này còn tạo điều kiện
cho đàn ông thể hiện sức mạnh của đồng tiền của mình bằng cách tạo ra cách sống
sang trọng. Những người lao động tình dục trong khu vực cao cấp dùng tình cảm
để tạo ra cảm giác thèm muốn và cảm giác về quyền lực của khách bằng cách giúp
những người đàn ông đó thể hiện nam tính của mình ở những nơi công cộng
(Allison, 1994).
Cái ham muốn đó hiện diện không chỉ trong
khả năng thanh toán của Thanh mà còn nằm trong khả năng thể hiện tình cảm của
Hoài khi cô cùng với Thanh vào quán café, khách sạn hay quán bar (Constable,
2003).
Trong khu vực cao cấp, quà tặng là thứ bắt
buộc phải có để trao đổi. Thông qua những món quà tặng đắt tiền, cả người lao
động lẫn khách làng chơi đều thể hiện mình là những người sành điệu hơn những
người đàn ông và đàn bà trong khu vực trung và hạ cấp, tức là những người sử
dụng quan hệ tình-tiền theo kiểu “tiền trao cháo múc” (Peiss, 1986).
Nhiều người lao động trong khu vực này có
khả năng và cũng gặp những khó khăn nhất định trong việc cung cấp cái mà
Hochschild gọi là “tình cảm sâu nặng” (deep acting).
Một
trong những người như thế là Kim Lý, một người bạn trai đã giới thiệu tôi với
cô vào tháng 8 năm 2006. Cũng như những người mà tôi ngờ rằng đang làm trong
lĩnh vực tình dục khác, tôi phải chờ cho đến khi khá thân với Kim Lý mới dám
hỏi thẳng và trực tiếp về công việc của cô.
Giống như một số người phụ nữ làm việc
trong khu vực cao cấp, Kim Lý xuất thân từ một gia đình khá giả. Cha mẹ cô có
một cửa hàng bán đồ Mỹ phẩm sản xuất tại Nhật và Hàn Quốc ở quận 1. Kim Lý
thường mời tôi đi uống café, vào Mỹ viện và quán bar, cho thấy khả năng kinh tế
và xã hội tạo điều kiện cho cô sự tự tin và có những cầu nối để gia nhập những
quán bar cao cấp, nơi cô có thể gặp gỡ những người đàn ông Việt kiều khác nhau.
Trong thời gian gặp gỡ tôi, Kim Lý đang hẹn hò với hai Việt kiều Mỹ; một
người từ San Jose, California còn người kia thì từ Pittsburgh, Pennsylvania
tới. Mới 21 tuổi, những đêm cuối tuần Kim Lý thường đến các quán bar cao cấp
trong những khách sạn 5 sao hay những địa điểm như Whisper. Khả năng kinh tế và
xã hội của Kim Lý giúp cô che giấu vai trò của mình (người lao động tình dục)
đối với đa số đàn ông trong khi kín đáo thể hiện nó với một số người khác.
Một tối (tháng 6 năm 2007) Kim Lý và tôi
tới Whisper. Đêm đó tôi mới biết rằng so với những người phụ nữ trong các khu
vực khác, những người hành nghề trong khu vực cao cấp thường bỏ rơi những khách
làng chơi mà họ thấy là không hợp, như Kim Lý đã làm hôm đó. Bỏ rơi đàn ông
thường làm cho cô có nhiều khách hàng hơn, đặc biệt là Việt kiều, những người
mà cô có thể lựa chọn. Hơn nữa, nó còn đưa đến cho cô những người thích cô để
cô lựa chọn.
Cô nói với tôi [bằng tiếng Anh]: “Phải biết cách nói chuyện với đàn ông Việt
kiều. Không được nói ngay là tôi sẽ ngủ với anh, còn anh sẽ trả tiền cho tôi.
Nếu muốn được nhiều tiền hơn thì phải kiên nhẫn và biết cách nói chuyện với
họ”.
Khi tôi đề nghị giải thích thì cô bảo [bằng
tiếng Việt]: “Chị biết đấy, nhiều cô
gái cảm thấy ngượng khi đòi tiền ngay. Nhưng đấy là những con ngốc. Như em thì
em sẽ nói: ‘Anh yêu ơi, phải tiết kiệm mới được. Ăn ở chỗ nào rẻ rẻ thôi’. Lúc
đó họ sẽ nghĩ là em quan tâm tới họ và họ sẽ cho tiền. Không cần phải đòi. Chị
hiểu không? Việt kiều thường hào phóng. Em phải tỏ ra quan tâm tới họ bằng
những việc nhỏ nhặt thôi và họ thường cho em những món đồ đẹp như thế này (vừa
nói cô vừa chỉ vào cái vòng bằng vàng trắng trên cổ tay”.
Trong những trường hợp như vậy, những người
đàn bà như Kim Lý thể hiện tình cảm bằng cách giả vờ quan tâm tới túi tiền của
khách. Tương tự như các cô trong công trình nghiên cứu của Amy Flowers về trí
tưởng tượng bằng công nghệ tình dục qua điện thoại, Kim Lý thường nói dối, đóng
kịch với khách, kể chuyện nhằm kiếm được những món quà tặng đắt tiền (Flowers,
1998).
Những
người phụ nữ này dành nhiều thời gian và công sức nhằm lèo lái và trình diễn
tình cảm với khách hơn là làm tình “theo lối mì ăn liền”. Nhằm khẳng định mình
là những người phụ nữ trẻ, đáng ước ao, họ thường làm cho khách tin rằng họ
không cần đàn ông, mà là những người phụ nữ có quyền lựa chọn, những người yêu
và thích đi chơi với những người đó.
Khi tôi hỏi cách thức cô quyết định sẽ ngủ
với người nào, nếu khi mới gặp cô không thể hiện cho họ biết rằng mình là người
làm trong lĩnh vực tình dục, thì cô giải thích:
“Em không ngủ ngay. Em phải nói chuyện với
họ trong quán café, rồi đi nhà hàng nữa. Em chỉ ngủ sau khi đã nhận được tiền
hoặc quà. Phải bắt họ làm, không thì họ sẽ chẳng coi mình ra gì. Nếu em nghĩ
rằng đấy là người kiệt xỉ thì em sẽ không nhấc máy mỗi khi họ gọi nữa”.
Điều này cho thấy thời gian đóng vai trò
như thế nào trong quan hệ ở khu vực cao cấp. Những người phụ nữ này mất nhiều
ngày thậm chí nhiều tuần với khách nhằm tạo ra quan niệm về sự sang trọng trong
khi chờ đợi được trả bằng tiền hay quà cáp trước khi đồng ý ngủ với khách.
Những người như Kim Lý, tức là những người
đóng vai khách hàng giàu có trong các quán bar và câu lạc bộ đắt tiền ở thành
phố HCM, phải chi cho riêng khoản uống đã là khoảng từ 15 đến 100 USD một đêm.
Khác với những người phục vụ khách làng
chơi địa phương và người da trắng, những người làm trong khu vực cao cấp hoạt
động độc lập và không bao giờ thể hiện công khai là những người làm việc trong
lĩnh vực công nghệ tình dục. Bằng cách thanh toán bằng quà tặng, cả đàn ông lẫn
phụ nữ đều che giấu được hình ảnh của họ. Đây là cách làm hiệu quả vì những
Việt kiều như Thanh thích đi quán, đi nhà hàng với những người phụ nữ đẹp,
những người tạo cho họ cảm giác là được người khác quan tâm.
Kết luận
Có sự khác nhau trong quan hệ giữa khách
hàng với người lao động trong ba khu vực khác nhau trong lĩnh vực kĩ nghệ tình
dục ở thành phố HCM, phụ thuộc vào địa điểm làm việc, kiểu khách hàng, cách
thức quan tâm, thời gian, sự gắn bó về kinh tế và tình cảm, cách thức phụ nữ
chiêu dụ đàn ông, và kiểu quan hệ của phụ nữ với khách hàng của họ.
Phụ nữ làm việc trong khu vực hạ cấp phải
bán dâm để sống tại những địa điểm tồi tàn nhằm thoát nghèo, trong khi những
người hoạt động trong khu cao cấp xuất thân từ những gia đình khá giả và có
nguồn lực kinh tế cũng như quan hệ xã hội bảo đảm cho họ thâm nhập vào trong và
xung quanh những khu đắt tiền nhất ở thành phố HCM.
Là những người bán dâm, phụ nữ dựa và tham
gia vào những hình thức thể hiện hoặc đè nén tình cảm.
Người lao động tình dục trong khu trung cấp
làm cho “Tây ba lô” cảm thấy mình là những người có quyền lực và cần thiết vì
có tiền chăm sóc cho những người đàn bà nghèo thuộc thế giới thứ ba; trong khi
những người lao động tình dục trong khu cao cấp làm cho Việt kiều cảm thấy là
được người phụ nữ của mình thích và yêu; còn những khách làng chơi trong khu
vực hạ cấp quan hệ với những người phụ nữ xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ như
họ.
Công trình này khảo sát bản chất của mối
quan hệ giữa khách làng chơi và người lao động, từ đáy cho đến đỉnh của thị
trường, và thấy rằng ở dưới đáy có nhiều tình dục và nhiều đè nén tình cảm hơn,
trong khi những người phụ nữ được trả giá cao nhất lại cần ít tình dục nhưng
phải thể hiện nhiều tình cảm hơn.
Các nữ nhân viên hoạt động trong lĩnh vực
tình dục, những người có thể biến tình cảm của mình thành một loại hàng hoá và
đem bán và tạo được quan hệ thân mật với khách làng chơi đàn ông có thể được
giá cao hơn, trong khi những phụ nữ hành nghề mại dâm “tiền trao cháo múc”
thường phải đè nén cảm giác kinh tởm của mình.
Tình cảm thể hiện trong những mối quan hệ
này cho thấy những điều kiện tạo ra những lựa chọn cho cả đàn ông lẫn phụ nữ.
Qua khảo sát khía cạnh văn hoá của tình cảm
thể hiện, tiểu luận này cho thấy cung cách mà những người lao động trong lĩnh
vực tình dục thể hiện với đàn ông Việt Nam, với “Tây ba lô” và Việt kiều và
bằng cách đó, minh hoạ cho sự phức tạp của kĩ nghệ tình dục ở thành phố HCM.
Giá trị của tiểu luận này không phải chỉ là
nó cho chúng ta thấy kĩ nghệ tình dục ở thành phố HCM hoạt động như thế nào mà
còn giúp cho ta hiểu sâu thêm về cách thức đè nén cũng như thể hiện tình cảm
của những người lao động tình dục nhằm tạo ra cảm giác thoải mái, mơ mộng và
ước muốn. Cách thức thể hiện này thay đổi đối với cả đàn ông lẫn phụ nữ, tuỳ
thuộc vào địa vị kinh tế cũng như xã hội của họ.
Tri ân: Tôi xin cảm ơn Barrie
Thorne, Raka Ray, Irene Bloemraad, Michael Burawoy, Hung Cam Thai, Peter
Zinoman, Becki Ross and Paul Spickard, những người đã giúp đỡ tôi bằng những
nhận xét và đưa ra nhiều câu hỏi trong khi tôi viết bài báo này. Tôi cũng xin
cám ơn Suowei Xiao, Julia Chuang and Leslie Wang, những người đã giúp tôi xem xét
các số liệu và khung lý thuyết cho bài báo này. Tôi xin cám ơn Rhacel Parrenas,
Stephanie Gilmore and Eileen Boris, những người đã tổ chức hội thảo tại UC
Santa Barbara nơi bản nháp của bài báo này được viết. Cuối cùng tôi xin được
cám ơn Jessica Cobb, người đã giúp tôi hoàn thiện những ý tưởng trong bài báo
này.
Nguyên Trường dịch
Tài liệu tham khảo
Allison, Anne (1994) Nightwork: Sexuality,
Pleasure, and Corporate Masculinity in a Tokyo Hostess Club. Chicago, IL: The
University of Chicago Press.
Bales, Kevin (2004) Disposable People: New
Slavery in the Global Economy. Los Angeles: University of California Press.
Bernstein, Elizabeth (1999) ‘What’s Wrong
with Prostitution? What’s Right with Sex Work? Comparing Markets in Female
Sexual Labor’, Hastings Women’s Law Journal 10(1): 91–117.
Bernstein, Elizabeth (2007) Temporarily
Yours: Intimacy, Authenticity, and the Commerce of Sex. Chicago, IL: University
of Chicago Press.
Brennan, Denise (2004) What’s Love Got to do
with it? Transnational Desires and Sex Tourism in the Dominican Republic.
Durham, NC: Duke University Press.
Cabezas, Amalia (2004) ‘Between Love and
Money: Sex, Tourism, and Citizenship in Cuba and the Dominican Republic’, Signs
29(4): 987–1015.
CATW (2005) ‘Trafficking and Prostitution in
Asia and the Pacific’, Coalition Against Trafficking In Women, URL (accessed
January 2010): http://www.catw-ap.org/programs/research-documentation-publications/facts-and-statistics/%26lang=en
Constable, Nicole (2003) Romance on a Global
Stage: Pen Pals, Virtual Ethnography, and ‘Mail-Order’ Marriages. Berkeley:
University of California Press.
Dunn, Caroline (1994) ‘The Politics of
Prostitution in Thailand and the Philippines: Policies and Practice’,
unpublished Working Paper 86, Centre of Southeast Asian Studies, Monash
University, Australia.
Enloe, Cynthia (1990) Bananas, Beaches, and
Bases: Making Feminist Sense of International Politics. Berkeley: University of
California Press.
Flowers, Amy (1998) The Fantasy Factory: An
Insider’s View of the Phone Sex Industry. Philadelphia: University of
Pennsylvania Press.
Greider, William (1997) One World, Ready or
Not: The Manic Logic of Global Capitalism. New York: Simon and Schuster.
Guenel, Annick (1997) ‘Sexually Transmitted
Diseases in Vietnam and Cambodia since the French Colonial Period’, in Milton
Lewis, Scott Bamber and Michael Waugh (eds) Sex, Disease, and Society, pp.
139–53. Westport: Greenwood Press.
Hochschild, Arlie (2003 [1983]) The Managed
Heart: Commercialization of Human Feeling. Berkeley: University of California
Press.
Hoogvelt, Ankie (1997) Globalization and the
Postcolonial World: The New Political Economy of Development. Basingstoke:
Macmillan.
Jamieson, Niel (1995) Understanding Vietnam.
Berkeley: University of California Press.
Kempadoo, Kamala (2004) Sexing the Caribbean.
New York: Routledge.
Lim, Lin L (1998) The Sex Sector: The Economic
and Social Bases of Prostitution in Southeast Asia. Geneva: International
Labour Office.
Nguyen-Vo, Thu-Huong (2008) The Ironies of
Freedom: Sex, Culture, and Neoliberal Governance in Vietnam. Seattle:
University of Washington Press.
O’Connell Davidson, Julia (1998)
Prostitution, Power and Freedom. Ann Arbor: The University of Michigan Press.
Peiss, Kathy (1986) Cheap Amusements: Working
Women and Leisure in the Turn-Of-The-Century New York. New York: Temple
University Press.
Pham, Chi Do (2003) The Vietnamese Economy:
Awakening the Dormant Dragon. New York: Routledge.
Proschan, Frank (2002) ‘Syphilis, Opiomania,
and Pederasty: Colonial Constructions of Vietnamese (and French) Social
Diseases’, Journal of the History of Sexuality 11(4): 610–36.
Rodriguez, Marie-Corinne (2008) ‘Insights
into Prostitution in Vietnam During the Colonial Days from the Late 19th
Century to the Early 1930s’, unpublished paper, University of Provence, Aix-en
Provence, France.
Sassen, Saskia (1998) Globalization and its
Discontents: Essays on the New Mobility of People and Money. New York: The New
Press.
Sassen, Saskia (2001) The Global City: New
York, London, Tokyo. Princeton, NJ: Princeton University Press.
Smith, Michael Peter and Guarnizo, Luis
Eduardo (1998) Transnationalism from Below. New Brunswick, NJ: Transaction
Publishers.
Stoler, Ann (1991) ‘Carnal Knowledge and
Imperial Power: Feminist Representations of Women in Non-Western Societies’, in
Micaela Di Lenardo (ed.) Gender at the Crossroads of Knowledge: Feminist
Anthropology in the Postmodern Era, pp. 51–101. Berkeley: University of
California Press.
Stoler, Ann (1992) ‘Sexual Affronts and
Racial Frontiers: European Identities and the Cultural Politics of Exclusion in
Colonial Southeast Asia’, Comparative Studies in Society and History 34(3):
514–51.
Sun, Sue (2004) ‘Where the Girls Are: The
Management of Venereal Disease by United States Military Forces in Vietnam’,
Literature and Medicine 23(1): 66–87.
Turley, William and Selden, Mark (1993)
Reinventing Vietnamese Socialism: Doi Moi in Comparative Perspective. Boulder,
CO: Westview Press.
Wilson, Ara (2004) The Intimate Economies of
Bangkok: Tomboys, Tycoons, and Avon Ladies in the Global City. Los Angeles:
University of California Press.
Wonders, Nancy and Michalowski, Raymond
(2001) ‘Bodies, Borders and Sex Tourism in a Globalized World: A Tale of Two
Cities – Amsterdam and Havana’, Social Problems 48(4): 545–71.
Xiao, Suowei (2009) ‘China’s New Concubines?
The Contemporary Second-Wife Phenomenon’, unpublished PhD thesis, University of
California Berkeley.
Zelizer, Viviana (2005) The Purchase of
Intimacy. Princeton, NJ: Princeton University Press.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment