NÔNG
DÂN VN
NGÀY
CÀNG NGHÈO KHỔ
Vi
Anh
Việt Nam là nước sản
xuất gạo hạng nhì thế giới, có lúc lên hạng nhứt, hơn Thái Lan. Thế
nhưng nông dân VN ngày càng nghèo càng khổ. Thật là một nghịch lý,
nhưng đó là một sư thật như hai với hai là bốn. Một sự thật mà
chính Đảng Nhà Nước CSVN cũng phải thừa nhận.
Sau đây là những con số nói lên số phận hẩm hiu, nghèo khổ, đau buồn của nông dân VN trong thời CS qua kết quả nghiên cứu do Viện Chính Sách Và Chiến Lược Phát Triển Nông Thôn (IPSARD) của Đảng Nhà Nước CSVN tổ chức thực hiện từ năm 2006 theo chu kỳ 2 năm một lần tại 12 tỉnh ở cả 3 miền, với 3.000 hộ gia đình tham gia.
Nông dân chiếm 70% dân số VN. Nhưng 50% các gia đình nông dân phải vay trung bình 50 triệu đồng, tương đương 2.500 Mỹ kim một năm, phần lớn từ anh em, chòm xóm để sống còn và làm ăn vì nông dân càng làm càng lổ theo nhận định nhiều lần của Cựu Giáo sư Đại Học Cần Thơ của VN Cộng Hoà chuyên về nông nghiệp còn ở lại VN sau 30-4- 75, được CSVN “lưu dung” cho tiếp tục làm việc.
Chỉ có 13% các gia đình nông dân có thể vay tiền của Ngân Hàng Phát Triễn Nông Nghiệp. VN không có chính sách tài trợ nông nghiệp để người dân tiêu thụ mua nông phẩm với giá rẻ và không bị thuế như ở Mỹ.
Trong tổng số dân nghèo nhứt nước, nông dân chiếm 83% theo Tổng Cục Thống Kê của Nhà Nước VNCS.
Về diện tích đất nông nghiệp ngày càng teo lại vì bị qui hoạch làm sân golf, mặt bằng công nghiệp, và dân số tăng nên “bình quân mỗi hộ dân chỉ còn (trung bình) 7.000m² đất sản xuất và rất manh mún, khi bình quân mỗi hộ có đến gần năm mảnh ruộng...”.
Trong chiến tranh gồm thâu cả nước, CS Hà nội luôn hô hào liên minh công nông, là lực lượng nổng cốt do Đảng CS lãnh đạo thực hiện cái gọi là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng thời CS thống trị VN và ngay khi CS Hà nội gọi là đổi mới kinh tế sang kinh tế thị trường nông dân lại càng bị Đảng Nhà Nước CS bóc lột còn hơn thời tư bản hoang dã mà Marx đã than nghèo kể khổ để kích động lực lượng này làm cách mạng vô sản theo chủ nghĩa CS. Gần một phần tư thế kỷ CS Hà nội gọi là “chuyển hệ tư duy, đổi mới kinh tế” sang “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nông dân VN càng khổ hơn, có làm mà chẳng có ăn, càng làm càng lổ, càng chết, con em thất học. Miền Tây vựa lúa của cả nước, trẻ em bỏ học vì nghèo, tỷ lệ cao nhứt nước.
Việt Nam nước xuất cảng gạo hàng thứ nhì trên thế giới mà người làm ra hột gạo xuất cảng lại là người càng làm càng lổ. Quốc doanh kiếm lời vô cớ trên mồ hôi của nông dân. Quốc doanh độc quyền nâng giá “vật tư nông nghiệp” và kềm giá mua gạo xuất cảng để kiếm lời nhiều làm giàu cho cán bộ, đảng viên và Đảng Nhà Nước CSVN.
Nông dân VN trở thành dân oan”. Nông dân khiếu kiện liên tục. Dân oan trở thành phong trào, lương dân và tôn giáo từ bắc chí nam. Do chính sách của Đảng Nhà Nước qui hoạch trả rẻ mạc cho dân như giựt nhà đất của dân và cán bộ đảng viên lợi dụng, thao túng bán lại giá cao gấp mấy chục lần.
CS Hà Nội bối rối, thụ động và mất sáng kiến trong đối phó. Đảng Nhà Nước quyết giành quyền sở hữu ruộng đất, dưới danh từ giả đạo đức, đất đai là tài sản của toàn dân do nhà nước đại diện sở hữu chủ quản lý. Người dân chỉ có quyền sử dụng thôi.
CS cho đến bây giờ nhứt quyết không trả lại quyền sở hữu đất đai lại cho người dân. Quốc Hội Đảng cử dân bầu của CS đã tỏ rõ ý đồ trong dự luật đất đai. Nông dân vì thế càng ngày càng cùng khổ.
Con kiến mà dày xéo cũng phải cắn người. Phong trào Dân Oan ở hai chế độ CS VN và Trung Quốc có tăng chớ không có giảm. Nếu CS không trả quyền sỡ hữu lại cho người dân thì sớm muộn gì người dân cũng phải đứng lên đòi lại quyền sở hữu của mình. Nhứt là trong thời kỳ kinh tế thị trường như hiện tại và trong thời gian dân số tăng gia, đất đai trở nên quí hiếm, thì cơn bão đấu tranh của dân oan khó tránh được. Nhẹ nhứt là người dân và tôn giáo khiếu kiện, tọa kháng, biểu tình. Mạnh là dùng những gì người dân có thể kiếm được, chế ra được để đòi lại, để bảo vệ quyền lợi chánh đáng để chống cưỡng chế, chống trưng thu như Anh Đòan văn Vươn đã làm ở Tiên Lãng.
Nếu Đảng Nhà Nước ở địa phương hay trung ương dùng lực lượng võ trang hay bán quân sự như quân đội, dân phòng, công an, cảnh sát và du côn, du đãng, xã hội đen trấn áp, thì bạo lực sẽ kêu gọi bạo lực, tạo cơ hội cho người dân vùng lên thành phong trào quần chúng vùng lên lật đổ nhà cầm quyền độc tài, tham nhũng như ở Tunisia, Ai cập, Libya.
Cựu Tổng bí Thứ Lê đức Anh, Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng và nhiều giới chức khác của cơ quan đòan thể ngọai vi của Đảng CS như Mặt Trận Tổ Quốc cũng sợ áp lực của công luận. Họ hóa giải bằng cách đổ tội cho địa phương, khu trú hóa phong trào để tránh tội cho Đảng Nhà Nước CSVN. Như Ô Hồ đã biện bạch thảm kịch hàng ngàn đảng viên CS, hàng trăm ngàn người dân Việt bị đấu tố, giết chóc trong Cải Cách Ruộng Đất là do sai lầm, lỗi của cán bộ đảng viên chớ Đảng không sai lầm.
Nhưng người dân Việt bây giờ đây không nghe CS nói nữa, mà chỉ thấy CS càng ngày càng cướp đất của dân, bám quyền sở hữu đất đai đã cướp đoạt của người dân. Không một đảng cầm quyền nào, không một nhà nước nào có quyền bắt dân phải tuân hành những điều vô đạo lý, vô công lý như Đảng Nhà Nước CS Hà nội đã, đang làm. CS Hà nội ra Luật Đất đai 2003 bắt buộc dân phải tuân hành rằng đất đai thuộc sở hữu của toàn dân nhưng Nhà Nước là đại diện sở hữu chủ. CS lại giành lấy quyền sở hữu đất đai, ao hồ của người dân.
Tức nước phải bể bờ, người nông dân muốn hết nghèo khổ, hết càng làm càng lổ như từ khi CS cướp được chánh quyền và quyền sở hữu đất đai, người dân chỉ còn có một cách – đó là lật đổ chế độ đó thôi./.(Vi Anh)
Sau đây là những con số nói lên số phận hẩm hiu, nghèo khổ, đau buồn của nông dân VN trong thời CS qua kết quả nghiên cứu do Viện Chính Sách Và Chiến Lược Phát Triển Nông Thôn (IPSARD) của Đảng Nhà Nước CSVN tổ chức thực hiện từ năm 2006 theo chu kỳ 2 năm một lần tại 12 tỉnh ở cả 3 miền, với 3.000 hộ gia đình tham gia.
Nông dân chiếm 70% dân số VN. Nhưng 50% các gia đình nông dân phải vay trung bình 50 triệu đồng, tương đương 2.500 Mỹ kim một năm, phần lớn từ anh em, chòm xóm để sống còn và làm ăn vì nông dân càng làm càng lổ theo nhận định nhiều lần của Cựu Giáo sư Đại Học Cần Thơ của VN Cộng Hoà chuyên về nông nghiệp còn ở lại VN sau 30-4- 75, được CSVN “lưu dung” cho tiếp tục làm việc.
Chỉ có 13% các gia đình nông dân có thể vay tiền của Ngân Hàng Phát Triễn Nông Nghiệp. VN không có chính sách tài trợ nông nghiệp để người dân tiêu thụ mua nông phẩm với giá rẻ và không bị thuế như ở Mỹ.
Trong tổng số dân nghèo nhứt nước, nông dân chiếm 83% theo Tổng Cục Thống Kê của Nhà Nước VNCS.
Về diện tích đất nông nghiệp ngày càng teo lại vì bị qui hoạch làm sân golf, mặt bằng công nghiệp, và dân số tăng nên “bình quân mỗi hộ dân chỉ còn (trung bình) 7.000m² đất sản xuất và rất manh mún, khi bình quân mỗi hộ có đến gần năm mảnh ruộng...”.
Trong chiến tranh gồm thâu cả nước, CS Hà nội luôn hô hào liên minh công nông, là lực lượng nổng cốt do Đảng CS lãnh đạo thực hiện cái gọi là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhưng thời CS thống trị VN và ngay khi CS Hà nội gọi là đổi mới kinh tế sang kinh tế thị trường nông dân lại càng bị Đảng Nhà Nước CS bóc lột còn hơn thời tư bản hoang dã mà Marx đã than nghèo kể khổ để kích động lực lượng này làm cách mạng vô sản theo chủ nghĩa CS. Gần một phần tư thế kỷ CS Hà nội gọi là “chuyển hệ tư duy, đổi mới kinh tế” sang “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, nông dân VN càng khổ hơn, có làm mà chẳng có ăn, càng làm càng lổ, càng chết, con em thất học. Miền Tây vựa lúa của cả nước, trẻ em bỏ học vì nghèo, tỷ lệ cao nhứt nước.
Việt Nam nước xuất cảng gạo hàng thứ nhì trên thế giới mà người làm ra hột gạo xuất cảng lại là người càng làm càng lổ. Quốc doanh kiếm lời vô cớ trên mồ hôi của nông dân. Quốc doanh độc quyền nâng giá “vật tư nông nghiệp” và kềm giá mua gạo xuất cảng để kiếm lời nhiều làm giàu cho cán bộ, đảng viên và Đảng Nhà Nước CSVN.
Nông dân VN trở thành dân oan”. Nông dân khiếu kiện liên tục. Dân oan trở thành phong trào, lương dân và tôn giáo từ bắc chí nam. Do chính sách của Đảng Nhà Nước qui hoạch trả rẻ mạc cho dân như giựt nhà đất của dân và cán bộ đảng viên lợi dụng, thao túng bán lại giá cao gấp mấy chục lần.
CS Hà Nội bối rối, thụ động và mất sáng kiến trong đối phó. Đảng Nhà Nước quyết giành quyền sở hữu ruộng đất, dưới danh từ giả đạo đức, đất đai là tài sản của toàn dân do nhà nước đại diện sở hữu chủ quản lý. Người dân chỉ có quyền sử dụng thôi.
CS cho đến bây giờ nhứt quyết không trả lại quyền sở hữu đất đai lại cho người dân. Quốc Hội Đảng cử dân bầu của CS đã tỏ rõ ý đồ trong dự luật đất đai. Nông dân vì thế càng ngày càng cùng khổ.
Con kiến mà dày xéo cũng phải cắn người. Phong trào Dân Oan ở hai chế độ CS VN và Trung Quốc có tăng chớ không có giảm. Nếu CS không trả quyền sỡ hữu lại cho người dân thì sớm muộn gì người dân cũng phải đứng lên đòi lại quyền sở hữu của mình. Nhứt là trong thời kỳ kinh tế thị trường như hiện tại và trong thời gian dân số tăng gia, đất đai trở nên quí hiếm, thì cơn bão đấu tranh của dân oan khó tránh được. Nhẹ nhứt là người dân và tôn giáo khiếu kiện, tọa kháng, biểu tình. Mạnh là dùng những gì người dân có thể kiếm được, chế ra được để đòi lại, để bảo vệ quyền lợi chánh đáng để chống cưỡng chế, chống trưng thu như Anh Đòan văn Vươn đã làm ở Tiên Lãng.
Nếu Đảng Nhà Nước ở địa phương hay trung ương dùng lực lượng võ trang hay bán quân sự như quân đội, dân phòng, công an, cảnh sát và du côn, du đãng, xã hội đen trấn áp, thì bạo lực sẽ kêu gọi bạo lực, tạo cơ hội cho người dân vùng lên thành phong trào quần chúng vùng lên lật đổ nhà cầm quyền độc tài, tham nhũng như ở Tunisia, Ai cập, Libya.
Cựu Tổng bí Thứ Lê đức Anh, Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng và nhiều giới chức khác của cơ quan đòan thể ngọai vi của Đảng CS như Mặt Trận Tổ Quốc cũng sợ áp lực của công luận. Họ hóa giải bằng cách đổ tội cho địa phương, khu trú hóa phong trào để tránh tội cho Đảng Nhà Nước CSVN. Như Ô Hồ đã biện bạch thảm kịch hàng ngàn đảng viên CS, hàng trăm ngàn người dân Việt bị đấu tố, giết chóc trong Cải Cách Ruộng Đất là do sai lầm, lỗi của cán bộ đảng viên chớ Đảng không sai lầm.
Nhưng người dân Việt bây giờ đây không nghe CS nói nữa, mà chỉ thấy CS càng ngày càng cướp đất của dân, bám quyền sở hữu đất đai đã cướp đoạt của người dân. Không một đảng cầm quyền nào, không một nhà nước nào có quyền bắt dân phải tuân hành những điều vô đạo lý, vô công lý như Đảng Nhà Nước CS Hà nội đã, đang làm. CS Hà nội ra Luật Đất đai 2003 bắt buộc dân phải tuân hành rằng đất đai thuộc sở hữu của toàn dân nhưng Nhà Nước là đại diện sở hữu chủ. CS lại giành lấy quyền sở hữu đất đai, ao hồ của người dân.
Tức nước phải bể bờ, người nông dân muốn hết nghèo khổ, hết càng làm càng lổ như từ khi CS cướp được chánh quyền và quyền sở hữu đất đai, người dân chỉ còn có một cách – đó là lật đổ chế độ đó thôi./.(Vi Anh)
KINH TẾ XHCN
ĐƯA QUẦN CHÚNG ĐẾN NGHÈO ĐÓI
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 14.06.2012. Cập nhật 28.06.2012
Web: http://VietTUDAN.net
Mô hình Kinh tế Tập quyền Chỉ huy đã cáo
chung với Nga và Đông Âu. Trung quốc và Việt Nam vẫn bấu víu lấy nội dung của
mô hình, mà chỉ thêm cái đuôi “định hướng XHCN“ vào Kinh tế Thị trường để đánh
lừa thiên hạ. Nội dung vẫn giữ chủ trương độc tài Chính trị nắm độc quyền Kinh
tế mà chúng tôi gọn lại là Mô hình Kinh tế XHCN.
Cuối năm
2011, Chủ tịch Ngân Hàng Thế giới, Ông Robert ZOELLICK, cũng như Tổng Giám Đốc
Quỹ Tiền Tệ Quốc tế, Bà Christine LAGARDE, đều họp báo tại chính Bắc Kinh thôi
thúc Trung quốc phải cấp bách Cải tổ từ căn nguyên Mô hình Kinh tế XHCN bởi vì
với Khủng hoảng Tài chánh/Kinh tế Thế giới hiện nay, Kinh tế XHCN đi xuống giốc
và Mô hình đang tan rã.
Bài viết
này nhằm cắt nghĩa những lý do đưa đến tụt giốc Kinh tế và tan rã của Mô hình
Kinh tế XHCN. Có những lý do thuộc nội tại của Mô hình. Có những lý do từ sự
mất tin tưởng và từ sức ép của nền Kinh tế Tự do Thị trường nước ngoài. Những
lý do ấy được trình bầy qua những điểm sau đây:
=> Đối lực làm tan rã mô hình như
một định mệnh theo lý luận của Marx
=> Sự xâu xé giữa những nhóm lợi ích
quyền lực trong đảng cầm quyền
=> Hiện tình suy thoái của Kinh tế
Việt Nam và những biện pháp vá víu
Đối lực làm tan rã mô hình như
một định mệnh theo lý luận của Marx
Lý luận của Karl Marx: TƯ BẢN tự hủy diệt
Ý thức hệ Cộng sản dựa trên lý luận của Karl
Marx về Định mệnh Kinh tế Tư bản (Fatalité Economique Capitaliste). Kinh tế Tư
bản đặt Tiền đề là TƯ HỮU. Vì tư hữu (Propríeté Privée) mà phải có Tự do
kinh doanh (Liberté d’Entreprise) và rồi Tự do Trao đổi ở Thị trường (Libre
Echange au Marché).
Karl Marx lý luận rằng nền Kinh tế Tư bản Tự
do và Thị trường gồm những bóc lột của giới Tư bản đối với giới Lao động. Nền
Kinh tế ấy vô sản hóa giới Lao động (Prolétarisation des Travailleurs) đến độ
giới này chịu không nổi mà phải đứng lên làm Cách Mạng Vô sản đòi lại những Tư
sản cho giới vô sản của mình. Dựa trên cách đo lường bằng sức Lao động cho những
Giá trị sản phẩm Kinh tế mà nhà đại Kinh tế gia cổ điển Anh, David RICARDO, đã
có sáng kiến đặt ra, Karl Marx nói đến việc đấu tranh của giới Lao động. Theo
David RICARDO, Giá trị của một sản phẩm Kinh tế được đo lường bằng sức Lao động
hội nhập vào sản phẩm. Tư bản vì vậy được coi là sự chiếm hữu sức Lao động từ
giới Thợ thuyền để làm sở hữu của giới Tư bản. Giới này quay lại dùng Tư bản để
bóc lột thêm giới Thợ thuyền nữa. Karl Marx gọi đây là vông thân Kinh tế
(Alíenation Economique), nghĩa là Tư bản thuộc Thợ thuyền, nhưng Thợ thuyền đưa
tặng cho giới Tư bản để rồi giới Tư bản quay lại bắt Thợ thuyền làm đầy tớ cho
Tư bản.
Lénine lấy Lý luận này của Karl Marx làm ý
thức hệ cho Cách Mạng Vô sản và kêu gọi đấu tranh giai cấp: NHỮNG NGƯỜI VÔ SẢN
HÃY ĐỨNG LÊN ĐÒI LẠI TƯ BẢN CHO ĐOÀN NGŨ THỢ THUYỀN, dù bằng những biện pháp
đẫm máu (Lutte des Classes sanglante). Nhưng giới Vô sản là đám đông, phải có
một Nhóm người đứng ra quản trị những Tư sản vừa thu hồi được. Nhóm người này
là đảng Cộng sản. Những Tư hữu trở thành Công hữu và do đảng Cộng sản nắm giữ,
chỉ huy và làm Kinh tế. Đó là nền Kinh tế Chỉ huy (Economie Dirigiste) với Công
hữu (Propríeté Collective) và với những Hoạch định Kinh tế của Nhà Nước (Plans
Economiques Etatiques).
Theo dòng Lý luận của Karl Marx,
TƯ BẢN ĐỎ bóc lột cũng theo Dịnh Mệnh tự hủy
diệt
Nếu Karl Marx gọi việc Vô sản hóa là một tiến
trình tự động (Processus automatique) và việc sụp đổ của nền Kinh tế Tư bản là
một Định Mệnh của chính Tư bản (Fatalité d’auto-destruction du Capitalisme),
thì Lịch sử sự sụp đổ của Thế giới Cộng sản cũng cho thấy một Định mệnh tự hủy
diệt của TƯ BẢN ĐỎ bóc lột giới vô sản, đó là việc tự sụp đổ của Cộng sản do
chính giới Vô sản thiếu ăn đến cùng cực (Fatalité d’auto-destruction du
Communisme/du Capitalisme rouge).
Thực vậy, trong lúc nền Kinh tế Tư hữu Tự do
và Thị trường tiếp tục phát đạt và Tư sản hóa dần dần giới Lao động, thì nền
Kinh tế Công hữu và Chỉ huy lại càng vô sản hóa giới Lao động đến cùng cực. Đến
lúc mà giới Lao động này quá đói khổ trong một nền Kinh tế do đảng Cộng sản chỉ
huy, thì họ đứng lên lật đổ nền Kinh tế chỉ huy này và đảng Cộng sản độc tài
chỉ huy.
Nga và các nước Đông Aâu đã bỏ độc tài độc
đảng và lấy lại nền Kinh tế tư sản Tự do và Thị trường.
Viet Nam và Trung quốc vẫn cố tình ngụy biện
bám víu Ý thức hệ đã sai lầm lịch sử ấy. Dù cố tình ngụy biện vì quyền hành cho
độc đảng của mình, nhưng cái Định mệnh tự hủy diệt vẫn lạnh lùng diễn ra.
Sau khi Nga và Đông Âu từ bỏ mô hình Kinh tế
Tập quyền Chỉ huy, Trung quốc và Việt Nam khép kính của để cố thủ giữ lấy nội
dung mô hình Kinh tế Cộng sản cũ khiến dân chúng đói nghèo đến cùng cực với
việc khép kín. Trung Cộng và Việt Nam đành phải tuyên bố MỞ CỬA cho Thế giới Tư
bản với nền Kinh tế tư sản Tự do và Thị trường.
Cái Định Mệnh Tự Hủy Diệt (Fatalité
d’auto-destruction) cứ lù lù tiến tới và tăng tốc khi giai đoạn MỞ CỬA cho dân
thấy sự thành công của Thế giới tư bản. Giai đoạn MỞ CỬA có những phát triển
Kinh tế do sự làm ăn với Thế giới tư sản Tự do Thị trường. Đảng cố tình tuyên
truyền rằng đó là công của đảng. Nhưng Dân chúng khám phá ra những tham nhũng
và lãng phí có hệ thống của đảng, đó là kẻ thù của phát triển. Phải nói rằng sự
phát triển hiện nay là do sự nhẫn nại làm ăn của Dân chúng Việt Nam, do nguồn
vốn cung cấp hàng năm của khối người Tỵ nạn Cộng sản ở nước ngoài, do tiếp cận
hạn hẹp làm ăn với Thế giới Tư bản. Chính đảng Cộng sản làm thất thoát và trì
hoãn việc phát triển này mới đúng. MỞ CỬA và HỘI NHẬP với nền Kinh tế Thị
trường tư bản, Kinh tế Trung quốc và Việt Nam có những thu nhập, nhưng những
thu nhập này lại lọt vào tay những đảng viên cầm quyền khiến hố sâu Giầu—Nghèo
mỗi ngày mỗi khơi rộng. Thu nhập Kinh tế nằm trong tay một thiểu số nhóm lợi
ích TƯ BẢN ĐỎ, còn quần chúng thì bị bóc lột đến đói nghèo. Quần chúng đói
nghèo này trở thành lớp VÔ SẢN mà lý luận của Karl Marx đã coi như giai cấp
nồng cốt lật lại giai cấp TƯ BẢN dù XANH trước đây hay ĐỎ hiện nay. Việc đứng
lên của giới VÔ SẢN lật lại TƯ BẢN XANH hay ĐỎ là một Định mệnh Tự hủy diệt
(Fatalité d’autodestruction).
Đã từ năm 2010, chính Thủ tướng ÔN GIA BẢO,
trước Quốc Hội Trung quốc họp ngày 14.03.2010, đã báo trước về Định mệnh tự hủy
diệt này:
“L’inflation, plus une redistribution
inéquitable des revenus et la corruption pourraient affecter la stabilité
sociale et même la stabilité du gouvernement”
(Lạm phát, thêm vào đó là một sự phân phối
không đồng đều những thu nhập và tham nhũng có thể tác hại đến sự ổn định xã
hội và ngay cả đến sự ổn định nhà nước” (Le Monde 16.03.2010, trang 16).
Sự xâu xé giữa những nhóm lợi ích quyền lực
trong đảng cầm quyền
Cái Mô hình chủ trương Độc tài Chính trị nắm
Độc quyền Kinh tế làm phát sinh và lan tràn THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ trong hàng ngũ
đảng cầm quyền. Nếu cái Định mệnh tự hủy diệt, theo lý luận của Karl Marx, đến
từ giới VÔ SẢN do TƯ BẢN XANH hay ĐỎ tạo ra, thì việc làm tan rã Mô hình Kinh
tế XHCN hiện hành còn đến từ chính giới Lạnh đạo xâu xé nhau về THAM NHŨNG,
LÃNG PHÍ.
Trong Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản khóa XI được tổ chức tại Hà Nội vào đầu tháng 5 vừa
qua, Nguyễn Phú Trọng nói chính yếu về vấn đề tham nhũng. Đó cũng chính là một
trong những vấn đề quan trọng nhất được Ban chấp hành Trung ương đảng thảo luận
trong suốt cuộc hội nghị kéo dài đến chín ngày. Trước đây, nhiệm vụ Phòng chống
Tham nhũng được giao cho Nguyễn Tấn Dũng (Nhà Nước), nay việc đó được chuyển về
chính Bộ Chính trị (Đảng). Khi nói đến việc chống Tham nhũng thì cả người trách
nhiệm Đảng cũng như Nhà Nước đều lấy “Tinh thần Cách Mạng “ làm phương tiện để
diệt Tham nhũng. Nhìn như vậy thì việc chống Tham nhũng không đi vào thực tế
của vấn đề. Thực vậy, “Tinh thần Cách Mạng“ đã chết nghoẻo từ lâu rồi. Đảng (Bộ
Chính trị) và Nhà nước (Nguyễn Tấn Dũng), từ thằng trên xuống thằng dưới đều
THAM NHŨNG, thì làm thế nào đứng giữ trách nhiệm Phòng Chống Tham nhũng được. Đừng
nói đùa để bịp bợm. Hãy vào sự thực căn gnuyên của THAM NHŨNG.
Nhân chi sơ, Tính tham lam
Năm 1964, cách đây gần nửa Thế kỷ, tôi bắt
đầu hội nhập đời sống Chính trị Sinh viên tại Sài gòn, chống lại HỘI ĐỒNG NHÂN
DÂN CỨU QUỐC của Bác sĩ Lê Khắc Quyến khởi xướng từ Huế tràn vào Miền Nam. Một
Vị lão luyện trong Chính trường đã khuyên tôi: “Khi cậu hoạt động Chính trị,
thì phải tránh hai điều: (i) đừng động chạm đến những vấn đề lăng nhăng đàn bà
con gái; (ii) đừng liên hệ đến những điều không sáng tỏ về tiền bạc. Khi tránh
được hai vấn đề ấy thì quần chúng sẽ tha thứ, cho dù cậu có dốt về Chính trị “.
Ngày nay, suy nghĩ về hai vấn đề này, tôi
thấy đây là hai vấn đề thuộc về thể xác từ khi chào đời, nghĩa là thuộc bẩm
sinh. Có thể nói là “Nhân chi sơ, tính Dâm dục và Tham lam!”. Cuộc sống thân
xác của một con người mang hai tính đó. Freud đã khẳng định rằng mọi hành động
của một con người có thể cắt nghĩa từ tính Dâm dục. Tính Dâm dục là sự thỏa mãn
thân xác cho xung động ham thích. Còn tính Tham lam của cải vật chất là để
trước hết bảo toàn sự sống còn thân xác. Hai tính đó có ngay từ lúc con người
mới sinh ra va mang cái xác con người. Khi lớn lên với Giáo dục, từ Văn Hóa đến
Tôn Giáo, người ta dậy cho những GIÁ TRỊ thuộc phạm vi Tinh thần nhằm kềm chế
hai cái Tính bẩm sinh thuộc Thân xác là Dâm dục và Tham lam vật chất. Vì vậy
khi một đảng viên Cộng sản không còn Tinh thần Tôn Giáo, Văn hóa hay Cách Mạng,
thì không còn phương tiện kềm chế hai tính bẩm sinh Dâm dục và Tham lam vật
chất. Phòng chống Tham nhũng được trách nhiệm bởi Nhà Nước (Nguyễn Tấn Dũng)
hay bởi Đảng (Nguyễn Phú Trọng), rồi cả hai lấy “Tinh thần Cách Mạng “ ra để
chống, thì đều là chuyện mây gió bịp bợm.
Phải diệt cái Hoàn Cảnh làm Phát sinh và Lan
tràn
Tính Dâm dục và tính Tham lam
Hai cái
Tính Dâm dục và Tham lam vật chất thuộc bẩm sinh con người, thì ở Xã hội nào cũng
có giống nhau. Điều hệ trọng là Tổ chức Xã hội khả dĩ ngăn chặn sự phát sinh và
triển nở hai cái Tính bẩm sinh ấy. Chúng tôi xin kể ra đây một vài tỉ dụ cho
thấy rằng phải diệt cái HOÀN CẢNH làm nẩy sinh và phát triển tính Dân dục và
tính Tham lam, chứ không phải diệt hai Tính bẩm sinh ấy.
Tỉ dụ thứ nhất về Tính dâm dục. Chúng tôi còn
nhớ lại rằng khi sống tu trì trong Chủng viện, mỗi lần gặp khách đến thăm, nhất
là phái nữ, thì phải gặp ở Phòng Khách mở cửa sổ quang đãng, mọi người có thể
nhìn thấy. Thực vậy, cho dù một Thánh nhân, đã trải qua nhiều năm “diệt dục“,
nhưng khi Thánh nhân bị nhốt trong phòng tối cùng với một mỹ nhân, không ai
nhìn thấy, thì có ngày lòng Dục bẩm sinh nổi lên và Thánh nhân có thể hú hí với
mỹ nhân.
Tỉ dụ thứ hai về Tính Tham lam vật chất. Một
người được giáo dục và thực hành Công lý nhiều năm. Nếu lúc này cho người đó
Quyền hành độc đoán sinh sát người khác và đặt bên cạnh người ấy một đống vàng,
thì có lúc người đó cũng lượm mấy thỏi vàng vào túi làm của riêng bảo đảm cho cuộc
sống thân xác của mình. Nếu ai nghi ngờ, thì người có quyền và đã biển thủ vàng
sẽ dùng quyền độc tài mà bịt miệng kẻ khác. Điều quan trọng là đã tạo cho con
người biển thủ trên đây cái HOÀN CẢNH vừa có quyền độc tài, vừa ngồi bên cạnh
đống vàng. Xin nhắc lại rằng ở thời Mao Trạch Đông, quyền độc tài còn mạnh hơn
thời nay, nhưng THAM NHŨNG ít hơn vì thời Mao Trạch Đông, không có đống vàng ở
bên cạnh mà biển thủ, chứ không phải thời Mao Trạnh Đông được giáo dục về Công
lý kỹ càng hơn.
Dứt bỏ Cơ chế CSVN là diệt HOÀN CẢNH làm
nẩy sinh và phát triển THAM NHŨNG
Cơ chế CSVN chủ trương độc tài Chính trị nắm
độc quyền Kinh tế. Đó là HOÀN CẢNH làm nẩy sinh tham nhũng, lãng phí. Không cần
phải đưa Phòng chống tham nhũng từ Nguyễn Tấn Dũng về cho Nguyễn Phú Trọng. Cả
hai đều không chống nổi tính Tham lam bẩm sinh tự con người, mà PHẢI TÁCH RỜI
ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ RA KHỎI ĐỘC QUYỀN KINH TẾ thì mới có thể kềm chế được THAM
NHŨNG, LÃNG PHÍ. Nó giống như việc đừng nhốt chung trong Phòng tối một Thánh
nhân và một Mỹ nhân, cũng như đừng cho một nhà Độc tài quyền hành Chính trị có
toàn quyền về đống Vàng ở bên cạnh.
Chống THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ không phải là diệt
tính bẩm sinh THAM LAM VẬT CHẤT của cá nhân, mà là diệt cái HOÀN CẢNH làm phát
sinh và tràn lan tinh THAM LAM. Bãi phân là HOÀN CẢNH để nẩy sinh và lan tràn
giòi bọ. Giao bãi phân cho Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng săn sóc, thì
bãi phân vẫn là bãi phân, nghĩa là vẫn một HOÀN CẢNH, mà giòi bọ vẫn nhung
nhúc. Phải HỐT ĐI BÃI PHÂN, thì giòi bọ mới hết chỗ (HOÀN CẢNH) nẩy sinh và lan
tràn vậy.
Mô hình Kinh tế XHCN tạo ra THAM NHŨNG, LÃNG
PHÍ để tự đánh nhau giữa cấp Lãnh đạo làm suy thoái Kinh tế quốc dân. Phải đập
tan cái Mô hình Kinh tế XHCN ấy vậy.
Hiện tình suy thoái của Kinh tế Việt Nam
và những biện pháp vá víu, thậm chí nguy
hiểm
Từ cuối năm 2011 và nhất là đầu năm 2012,
Ngân Hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Hội những Nhà Đầu tư đều lên tiếng
thôi thúc Việt Nam cũng như Trung quốc phải Cải tổ tận căn nguyên mô hình Kinh
tế đang tụt giốc trầm trọng đà phát triển của hai nước. Tìm hiểu căn nguyên của
tụt giốc Kinh tế, chúng tôi đã viết nhiều bài nói rằng đó chính là THAM NHŨNG,
LÃNG PHÍ phát sinh và lan tràn như giòi bọ trong Cơ chế chủ trương độc tài
Chính trị nắm độc quyền Kinh tế. Cải tổ tận căn nguyên, tức là dứt bỏ chủ
trương Cơ chế như vậy. Nếu Cơ chế vẫn còn chủ trương độc tài Chính trị nắm độc
quyền Kinh tế thì giòi bọ vẫn lan tràn ăn ruỗng Kinh tế. Nếu không dứt bỏ Cơ
chế, thì tất cả những biện pháp Chính trị Kinh tế (Politiques Economiques) chỉ
là vá váy đụp hời hợt.
Chúng tôi chờ đợi việc cải tổ mô hình Kinh tế
Việt Nam xem có đi vào tận căn nguyên hay không. Trong tuần này, chúng tôi đọc
được Bản Tin về việc hạ Lãi suất ngân hàng ở Việt Nam như biện pháp Chính trị
Kinh tế cứu vãn việc tụt giốc. Theo phân tích tình trạng khủng hoảng Kinh tế
không những tại Việt Nam mà còn toàn cầu, chúng tôi thấy rằng việc giảm Lãi
suất của Việt Nam không những không phải là biện pháp cứu nguy Kinh tế, mà còn
đạp thêm ga để chiếc xe Kinh tế mục nát CSVN đang tụt giốc lao nhanh hơn vào tử
huyệt.
Tình trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế hiện nay.
Bản Tin của VietBao tuần này tóm tắt tình
trạng mục nát, tụt giốc Kinh tế trầm trọng của Việt Nam. Bản Tin viết:
“HANOI — Kinh tế khủng hoảng, dân cạn tiền
tới mức nước mắm cũng không mua nổi.
Trang báo chuyên về kinh doanh VEF loan bản
tin nêu rõ trên tựa đề: “Kinh doanh sụt giảm: Từ ôtô đến nước mắm.”Bản tin VEF
cho biết, hàng tồn kho đang là mối đe dọa lớn nhất đến các DN. Vấn nạn lan tràn
từ các ngành công nghiệp lớn như ô tô, xe máy đến những mặt hàng thiết yếu như…
nước mắm. Sản xuất kinh doanh đang bế tắc và kinh tế chưa thể sớm thoát khó
khăn.
“Trao đổi mới đây, ông Cao Sỹ Kiêm, Chủ tịch
Hiệp hội DN nhỏ và vừa nhấn mạnh, vấn đề khó khăn nhất của các DN hiện nay là
bí đầu ra. Bây giờ với nhiều mặt hàng thiết yếu người dân cũng không có tiền
mua.”
Thê thảm là nước mắm cũng ứ đọng.
Bản tin VEF ghi nhận từ Hiệp hội nước mắm Nha
Trang cho biết, các DN sản xuất nước mắm tại Nha Trang cũng đang phải giảm sản
xuất. Cho dù phải thắt chặt chi tiêu, người tiêu dùng cũng phải mua nước mắm
cho bữa ăn hàng ngày. Vậy mà trên thực tế, mặt hàng này cũng không tránh khỏi
tình trạng tiêu thụ giảm sút. Tại Nha Trang, có nhiều DN nước mắm phải sản xuất
cầm chừng từ đầu năm đến nay, nguyên nhân không gì khác là sức tiêu thụ chậm,
sản phẩm ứ đọng.
Bản tin cho biết, theo bản khảo cứu của Ngân
hàng HSBC, kinh tế VN đang cọ cụm, vì chỉ số PMI đã thấp hơn 50 điểm. Con số
trên 50 điểm là tăng.
Bản tin viết, Chỉ số PMI (nhà quản trị mua
hàng – Purchasing Managers Index) tháng 5/2012 do Ngân hàng HSBC công bố cho
thấy điều kiện kinh doanh của ngành sản xuất tại Việt Nam vẫn đang xấu đi. Theo
báo cáo này, chỉ số PMI ngành sản xuất đã giảm từ mức 50 điểm vào tháng 3 xuống
còn 49,5 điểm vào tháng 4 và tiếp tục giảm xuống còn 48,3 điểm trong tháng
5/2012.
HSBC cho biết, những DN tham gia khảo sát cho
rằng, nhu cầu trên thị trường đã giảm khá mạnh do người dân thực hiện tiết
kiệm, thắt chặt chi tiêu. Bắt đầu từ các siêu thị, doanh số giảm đi vì người
dân giảm sức mua, siêu thị hạn chế nhập hàng, khiến cho các nhà sản xuất hàng
tiêu dùng cũng phải giảm năng lực sản xuất, nguồn cung phải giảm nếu không muốn
lượng hàng tồn kho tăng lên.
“Hiện
nay, tình trạng sản xuất đang giảm được ghi nhận ở hầu hết các ngành hàng từ
dệt – may, giấy, da giày, nhựa, ô tô, xe máy, thép điện tử… Ngành dệt may, dù
bước vào mùa cao điểm trong năm nhưng phần lớn các DN vẫn đang gặp khó khăn
trong việc tìm kiếm đơn hàng. Hiệp hội Dệt may Việt Nam được biết, trước đây
khi vào mùa vụ, các DN có thể thoải mái lựa chọn đối tác để làm nhưng nay thì
ngược lại. Nhiều DN dệt may lớn, lượng đơn hàng giảm khoảng 5-10% so với cùng
kỳ, còn DN nhỏ có thể thiếu hụt trên 10% đơn hàng.
Các ngành sản xuất khác như: xi măng, thép, ô
tô, xe máy, thiết bị điện, thiết bị xây dựng… thì sản xuất đã giảm quá mạnh từ
đầu năm tới nay. Nhiều ngành hàng giờ chỉ còn sản xuất chừng 50-60% công suất.
Những ngành có lượng hàng tồn kho cao là đường ăn, sắt thép, xi măng, ô tô và
xe máy… Đến xăng dầu cũng tồn kho là 106.000 tấn, cho dù Nhà máy lọc dầu Dung
Quất đã tạm ngừng hoạt động để kiểm tra.
Thực tế đang cực kỳ bi thảm, theo lời một nhà
quan sát, rằng đây là lần đầu tiên kể từ thời kỳ đổi mới, dân nghèo tới
mức không có tiền mua nước mắm. Nghĩa là thất nghiệp đã trở thành hiện tựơng
quan ngại. (VietBao)
Trong lúc tụt giốc như vậy, CSVN hạ Lãi suất
như biện pháp cứu nguy Kinh tế
Bản Tin của SBTN viết:
“Tin Hà Nội - Trở lại với những tin từ Việt
Nam, hôm qua Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam ra lệnh cho hệ thống ngân hàng thương
mại hạ lãi suất ký thác tiết kiệm mà Việt Nam gọi là lãi suất huy động, thêm 2%
cũng như giảm lãi suất tín dụng nhằm kích thích nền kinh tế vượt ra khỏi trì
trệù. Quyết định giảm lãi suất được đưa ra sau nhiều báo cáo nói hơn chục ngàn
công ty lớn nhỏ tại Việt Nam đã nộp đơn thông báo ngừng hoạt động chỉ trong mấy
tháng đầu năm nay, không kể nhiều chục ngàn công ty khác ngừng hoạt động nhưng
không thông báo.
Khi loan báo giảm lãi suất ở Quốc Hội, nhân
vật này biện bạch là lãi suất quá cao hiện nay không phục vụ nhu cầu tín dụng
của các doanh nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam đình đốn khắp nơi vì nhiều công ty
không vay được tiền để sản xuất hoặc kinh doanh. Nhiều công ty cũng không dám
vay vì lãi suất tín dụng quá cao.
Chế độ Hà Nội bị buộc phải tăng lãi suất để
đối phó với lạm phát nặng nhất Á Châu theo các khuyến cáo của các nhà tài trợ
quốc tế. Tổng sản lượng quốc gia GDP của Việt Nam chỉ tăng được 4% trong quý đầu
năm nay, mức thấp nhất từ 3 năm qua. Dự trù nền kinh tế chỉ tăng trưởng khoảng
5.2% cho năm nay, theo lời Thứ trưởng Kế Hoạch và Đầu Tư nói với báo chí trong
tuần này. Hành động hạ lãi suất của nhà cầm quyền Hà Nội tương tự như hành động
của nhà cầm quyền Bắc Kinh mới đây. Bắc Kinh đã không thay đổi lãi suất suốt 4
năm qua.(SBTN) (Posted on 13 Jun 2012)
Từ nhận định sai lầm về tình trạng tụt giốc
Kinh tế
đến quyết định vá víu, thậm chí nguy hiểm, của
biện pháp Tài chánh
CSVN ngoài lý do căn bản tụt giốc Kinh tế của
Cơ chế CSVN hiện hành mà chúng tôi luôn luôn nhấn mạnh trong nhiều bài viết, đó
là THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ ăn ruỗng những Tập đoàn Kinh tế quốc doanh, chúng tôi
muốn phân tích những lý do đang làm độ phát triển Kinh tế chỉ còn 5.2% và tình
trạng tồn đọng hàng hóa sản xuất khiến các xí nghiệp, cả quốc doanh lẫn tư
doanh, phải từ từ đóng cửa. Khi phân tích kỹ những lý do này, người ta sẽ thấy
ngay rằng biện pháp hạ Lãi suất của CSVN chỉ là vá víu, thậm chí còn làm tăng
tốc độ tụt giốc của Kinh tế VN.
Phân tích những lý do tụt giốc
Kinh tế
Việt Nam cũng như Trung quốc lệ thuộc vào xuất cảng. Tình trạng co cụm sản xuất
và và hàng hóa ứ đọng tồn kho là do luật CUNG và CẦU. Chính phía CẦU là động
lực cho sản xuất (CUNG). Phía CẦU lệ thuộc chính yếu vào Mãi lực tiêu thụ. Nhìn
như vậy, chúng ta thấy những lý do trực tiếp sau đây làm tụt giốc Kinh tế VN và
TQ:
=> Tình trạng khủng hoảng Kinh tế
của hai Thị trường lớn như Hoa kỳ và Liên Aâu làm cho Thất nghiệp tăng vọt. Mãi
lực của dân chúng Hoa kỳ và Liên Aâu giảm hẳn xuống. Do đó việc đặt mua hàng
Trung quốc và Việt Nam tất nhiên giảm xuống và làm cho hàng hóa TQ và VN không
xuất cảng nổi để phải tồn đọng. Thêm vào đó, Nợ công của Hoa kỳ và Liên Aâu
khiến hai khối Thị trường này phải đưa ra những biện pháp tiết kiệm, nghĩa là
giảm tiêu thụ. Thất nghiệp làm Mãi lực dân chúng giảm và Nợ công khiến các quốc
gia phải tiết kiệm. Tất cả trong chiều hướng cắt đi phía CẦU những hàng hóa sản
xuất từ Trung quốc và Việt Nam.
=> Mãi lực dân chúng nội địa của
Trung quốc và Việt Nam rất ít ỏi để có thể trợ lực cho phía CẦU nội địa. Trong
khi ấy, vì muốn bảo vệ danh dự của Cơ chế, Trung quốc và Việt Nam gồng mình giữ
độ phát triển và mức CUNG dồi dào. Mãi lực quốc tế giảm và Mãi lực nội địa
không có, thì khó lòng giữ thăng bằng được giữa CUNG và CẦU. Do đó hàng tồn kho
là hậu quả.
=> Các Thị trường lớn Hoa kỳ và Liên
Aâu nay đã ý thức rằng tình trạng Thất nghiệp tại nước họ là do hậu quả của
việc lan tràn hàng hóa Trung quốc. Chính vì vậy, để bảo vệ cho sản xuất của
chính mình, Hoa kỳ, nhất là Liên Aâu đưa ra những Biện pháp Bảo Hộ Mậu dịch.
Đây là việc càng làm giảm thiểu đi phía CẦU nhập cảng hàng từ Trung quốc và
Việt Nam.
=> Đặc biệt Việt Nam, ngoài việc
giảm CẦU do Mãi lực tiêu thụ quốc tế và quốc nội, Việt Nam còn bị hàng tồn đọng
từ Trung quốc tràn xuống để giết chết sản xuất tại sân nhà. Để cứu sản xuất nội
địa, các quốc gia phải ngăn cản nhập cảng hàng nước ngoài, trong khi ấy, Việt
Nam bị tràn ngập hàng Trung quốc để cạnh tranh với chính hàng sản xuất nội địa.
Phân
tích những lý do gắn liền với Mãi lực và phía CẦU như vậy, chúng ta mới thấy
rằng Biện pháp Giảm Lãi xuất của CSVN chỉ là vá víu, thậm chí còn làm tăng tốc
độ tụt giốc Kinh tế nữa.
Vá víu của việc giảm Lãi suất
Theo Bản Tin của SBTN về quyết định giảm Lãi
suất, Ngân Hàng Nhà Nước VN đã nhìn sai lầm về những lý do làm tụt giốc Kinh
tế:
“Khi loan báo giảm lãi suất ở Quốc Hội, nhân
vật này biện bạch là lãi suất quá cao hiện nay không phục vụ nhu cầu tín dụng
của các doanh nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam đình đốn khắp nơi vì nhiều công ty
không vay được tiền để sản xuất hoặc kinh doanh. Nhiều công ty cũng không dám
vay vì lãi suất tín dụng quá cao.”
Ngân Hàng Nhà Nước cố tình cắt nghĩa việc tụt
giốc là thiếu vốn vì lãi suất quá cao, mà không nhìn những lý do thuộc Kinh tế,
đó là việc giảm CẦU từ quốc tế đến quốc nội. Vì cố tình nhìn sai lầm về những
lý do tụt giốc Kinh tế, nên Ngân Hàng Nhà nước đưa ra biện pháp Tài chánh là
giảm Lãi suất, nghĩa là Giá Tín dụng rẻ để các xí nghiệp có thể vay vốn tăng
sản xuất (CUNG). Những lý do làm tụt giốc Kinh tế là từ phía CẦU chứ không từ
phía CUNG. Ngân Hàng đã tuyên bố một cách dõng dạc trong nhận định sai lầm của
mình:
“Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam ra lệnh cho hệ
thống ngân hàng thương mại hạ lãi suất ký thác tiết kiệm mà Việt Nam gọi là lãi
suất huy động, thêm 2% cũng như giảm lãi suất tín dụng nhằm kích thích nền kinh
tế vượt ra khỏi trì trệ.”
Như vậy, theo Ngân Hàng Nhà Nước, việc giảm
Lãi xuất tín dụng là “nhằm kích thích nền kinh tế vượt ra khỏi trì trệ”. Bài
học giảm Lãi suất để giá vốn rẻ mà kích thích đầu tư sản xuất là bài học áp
dụng cho những nước đã có sẵn Thị trường Tiêu thụ quốc tế cũng như quốc nội.
Bài học này áp dụng cho Kinh tế Việt Nam không những không có hiệu quả mà có
thể còn sai trật vì Thị trường Tiêu thụ nước ngoài mình không làm chủ được và
Thị trường Tiêu thụ trong nước bị cạn kiệt Mãi lực.
Cái nguy hiểm của tăng vốn sản xuất (CUNG)
Cuộc đại Khủng hoảng Kinh tế 1929-30 là hậu
quả của việc sản xuất quá nhiều sau khi các xí nghiệp thi nhau đầu tư cơ giới
hóa sản xuất. Chính là khủng hỏa của SURPRODUCTION. Hàng hóa được sản xuất quá
nhiều, nghĩa là CUNG tăng vọt, mà tiêu thụ yếu kém đi, nghĩa là CẦU giảm
xuống.Tình trạng chênh lệch CUNG—CẦU này đã dẫn đến cơn xoáy Giảm giá (Spirale
déflationniste) khiến các xí nghiệp thay vì tăng sản xuất, phải thiêu hủy đi
những hàng đã sản xuất và tồn kho. Biện pháp Kinh tế mà KEYNES đề nghị cho thời
này là phải làm hết cách để tăng Mãi lực Tiêu thụ (CẦU), chứ không phải là tăng
sản xuất (CUNG).
Việc Trung quốc sản xuất quá nhiều đang làm
Thế giới lo ngại một tình trạng giảm giá dẫn đến cơn xoáy giảm giá làm sạt
nghiệp phía sản xuất.
Những lý do tụt giốc Kinh tế Việt Nam là từ
phía CẦU, trong khi ấy Ngân Hàng Nhà Nước muốn cứu tụt giốc, lại hành động tăng
phía CUNG, nghĩa là tăng vốn cho các xí nghiệp sản xuất nhiều thêm nữa để cuối
cùng dẫn đến tình trạng hàng tồn kho chất chồng không bán được để các xí nghiệp
phải hốt đổ đi trước khi đóng cửa xí nghiệp. Chúng tôi cũng xin thêm rằng phần
lớn những xí nghiệp là quốc doanh. Khi mà tăng vốn sản xuất cho các xí nghiệp
quốc doanh bằng hạ Lãi xuất, thì những vốn tăng thêm, thay vì sản xuất, lại
thất thoát do THAM NHŨNG, LÃNG PHÍ như Vinashin, Vinalines… mà Nhà nước không
thu lại vốn được.
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh tế
Geneva, 14.06.2012. Cập nhật 28.06.2012
Web: http://VietTUDAN.net
BÁO CHÍ TRONG NƯỚC:
XÁC NHẬN CỦA CÁC LÃNH ĐẠO:
CSVN ĐÃ ĐI VÀO TỬ HUYỆT KINH TẾ
Nguyễn Phúc Liên CHÚ THÍCH:
Chúng tôi đã viết nhiều về Mô hình Kinh tế Chỉ
huy Tập quyền và Mô hình Kinh tế định hướng XHCN hay nói đúng hơn mô hình Kinh
tế lấy Độc tài Chính trị nắm Độc quyền Kinh tế. Những mô hình Kinh tế Mafia này
tự dẫn đến TỬ HUYỆT KINH TẾ.
Cách đây 3 năm, tại Bắc Kinh Ông ZOELLICK,Chủ
tịch Ngân Hàng Thế giới đã họp báo yêu cầu Bắc Kinh phải cải tổ mô hình Kinh tế
tự CĂN NGUYÊN. Bà LAGARDE, Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cũng đòi hỏi Bắc
Kinh phải làm như vậy.
Tại Hà Nội, trước cảnh tụt dốc Kinh tế của
Việt Nam, cuộc Họp các Nhà Đầu tư quốc tế cũng yêu cầu Hà Nội phải cải tổ mô
hình Kinh tế tận CĂN NGUYÊN. Các Chuyên gia Kinh tế như Bà PHẠM CHI LAN, Tiến
sĩ LÊ ĐĂNG DOANH, Tiến sĩ NGUYỄN QUANG A… cũng đồng lên tiếng về đà phá sản
Kinh tế mà nguyên do là HỆ THỐNG.
Cải tổ tự CĂN NGUYÊN ở đây có nghĩa là phải
dẹp bỏ cái CƠ CHẾ chủ trương “ĐỘC TÀI CHÍNH TRỊ NẮM ĐỘC QUYỀN KINH TẾ“.
CSVN không dám làm điều này mà chỉ cải tổ theo
kiểu thoa bóp dầu cù là cho an dân, vì đảng còn muốn giữ quyền hành và nắm chặt
túi vàng để ăn cướp tiền chung cho túi riêng từng người.
Sự bất lực cải tổ từ CĂN NGUYÊN Cơ chế sẽ đưa
CSVN vào TỬ HUYỆT như một Định Mệnh lù lù tới vậy.
Bài báo dưới đây của báo TUỔI TRẺ cho thấy,
tại cuộc họp của ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI ngày 14.05.2013, các nhân vật lãnh
đạo Kinh tế CSVN thấy đảng đang đứng chênh vênh cạnh Định mệnh TỬ HUYỆT KINH TẾ
!
Nguyễn Phúc Liên
Geneva, 16.05.2013
---Tháng NĂM 2013---
Tình hình kinh tế
gay go lắm rồi!
Tuổi Trẻ – Thứ tư, ngày 15 tháng năm năm 2013
TT - Đó là nhận xét của Phó chủ tịch nước
Nguyễn Thị Doan tại phiên họp ngày 14-5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi nghe
các báo cáo của Chính phủ và Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính - ngân sách về
tình hình kinh tế - xã hội và thu ngân sách những tháng đầu năm 2013.
Tiền huy động tăng nhưng dư nợ tín dụng
thấp, doanh nghiệp cũng không mặn mà vay khi hàng hóa tồn kho lớn là những khó
khăn lớn của nền kinh tế lúc này
Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho
rằng: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết
chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
Bà Doan đề nghị: “Phải nhìn thẳng vào tình
hình khó khăn của đất nước để giải quyết vấn đề. Nếu kỳ họp Quốc hội này mà
không đưa ra được giải pháp đủ mạnh thì những khó khăn sẽ thêm trầm trọng”.
Khó khăn ngày càng lớn
"Tình hình đúng là hết sức đáng lo
ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch
vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh
nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh
tế khó khăn đến mức nào"
Ông Nguyễn Xuân Cường (phó trưởng Ban Kinh
tế trung ương)
“Dấu hiệu suy giảm kinh tế ngày càng rõ
nét hơn, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn;
nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào
của khu vực sản xuất chưa được cải thiện” - Ủy ban Kinh tế đánh giá.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn
Giàu, việc thực hiện tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đem lại kết
quả rõ rệt, chính sách kích thích tăng trưởng bị giới hạn bởi thâm hụt ngân
sách, trong khi thị trường vốn và tăng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn ở mức
quá thấp.
Ba tháng đầu năm, số lượng doanh nghiệp
thành lập mới là 15.700 doanh nghiệp (giảm 6,8% về số lượng, giảm 16% về vốn so
với cùng kỳ năm trước); trong khi đó số doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể
là 15.300 (tăng 14,6% so với quý 1-2012).
Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch
- đầu tư Bùi Quang Vinh nhận định: sức mua của nền kinh tế khó có thể tăng mạnh
trở lại trong thời gian ngắn khi việc làm và thu nhập của người lao động giảm
sút, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn gặp khó khăn, số lượng doanh nghiệp thu
hẹp sản xuất, giải thể và phá sản nhiều, tồn kho vẫn ở mức cao.
Tăng trưởng tín dụng có thể sẽ khó tăng
cao trong ngắn hạn và thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tiền gửi tại các
tổ chức tín dụng nếu nợ xấu không sớm được giải quyết, các ngân hàng thương mại
không có các giải pháp hữu hiệu phân loại đối tượng cho vay mà vẫn siết chặt
điều kiện cho vay sẽ ảnh hưởng đến phục hồi nền kinh tế. “Nếu các khó khăn nêu
trên không được xử lý thì khả năng GDP đạt 5,5% như mục tiêu Quốc hội đề ra cho
năm 2013 là rất khó khăn” - ông Vinh nói.
Ông Nguyễn Xuân Cường - phó trưởng Ban
Kinh tế trung ương - nói: “Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng
sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô
cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, phần
còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức
nào”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phán
đoán: “Tình hình doanh nghiệp bi đát, tôi nghĩ có tới một trăm nghìn doanh
nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn
hơn 65%”.
Các con số chưa đáng tin cậy
Tăng cường công tác nắm bắt, phân tích, dự
báo tình hình để có chủ trương, đối sách phù hợp, đặc biệt là các vấn đề biên
giới, biển đảo, thực hiện các đề án, giải pháp bảo đảm an ninh, trật tự tại các
vùng chiến lược. Cần có chính sách hỗ trợ thỏa đáng đối với ngư dân đánh bắt cá
ở vùng biển quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của nước ta.
Lấy con số dư nợ tín dụng ngân hàng từ đầu
năm chỉ tăng hơn 1%, trong khi huy động tiền gửi tăng 5,5%, Phó chủ tịch nước
Nguyễn Thị Doan khẳng định “tiền tệ đã đóng băng, tình hình như thế này là nguy
lắm rồi”.
Bà nói: “Doanh nghiệp không tiếp cận được
nguồn vốn thì không giải quyết được vấn đề gì đâu. Bây giờ doanh nghiệp nợ như
thế thì có khoanh nợ, giãn nợ, cho vay tiếp không? Phải tập trung bàn về chính
sách tiền tệ, giải quyết dòng vốn ra vào, đây là nút thắt”.
Trong khi đó, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
Nguyễn Hạnh Phúc đề cập đến thực trạng “ngân hàng lúc nào cũng tuyên bố là sẵn
sàng cho vay, nhưng doanh nghiệp nói là muốn vay đâu có dễ, đang nợ thì không
thể vay được mà lãi suất cho vay vẫn cao nên chỉ có nước phá sản”.
Ngoài việc khai thông nút thắt tiền tệ,
Phó chủ tịch nước đề nghị tập trung vào giải pháp thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí: “Phải mạnh dạn cắt giảm, thậm chí xóa bỏ những chương trình không cần
thiết. Tôi thấy tình trạng chồng chéo, lãng phí, cái gì cũng dang dở, bộ nào
cũng muốn nắm một tí tiền. Chúng ta cần nhìn thẳng vào những khó khăn của đất
nước, tiết kiệm chi tiêu công, dừng mua sắm xe công, phương tiện đắt tiền, giảm
đi nước ngoài...”.
Một số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đề nghị Chính phủ “nghiêm túc và thật thà” trong các con số báo cáo. “Báo
cáo của Chính phủ cho thấy tỉ lệ nghèo vẫn giảm nhanh. Tại sao kinh tế khó khăn
như vậy, doanh nghiệp đình đốn, công nhân mất việc, sản xuất ra không bán được
hàng hóa mà lại giảm nghèo tốt như vậy? Tôi xuống thực tế thấy nghèo tăng lên
chứ không có giảm” - Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn nói.
Ông Nguyễn Văn Giàu kể thêm: “Hoàn thuế
VAT hôm trước nói 20.000 tỉ, mới có vài ngày mà hôm nay nói là 33.000 tỉ. Không
thể tưởng tượng được!”. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước đề nghị các bộ,
ngành hãy nhìn vào khó khăn của đất nước mà báo cáo đúng tình hình, đừng đưa ra
các con số báo cáo “vì cái ghế của mình”.
Dầu khí cứu ngân sách
Báo cáo của Chính phủ cho thấy thu ngân
sách nhà nước năm 2012 tăng hơn 2.600 tỉ đồng (tỉ lệ tăng thu thấp nhất trong
nhiều năm gần đây), chủ yếu nhờ vào thu từ dầu thô và thu viện trợ không hoàn
lại.
Đặc biệt, thu từ dầu thô vượt dự toán cao
nhờ vào cả hai yếu tố giá và sản lượng đều tăng, đồng thời phát sinh 9.800 tỉ
đồng từ khoản thu lãi nước chủ nhà năm 2012 và 10.000 tỉ đồng lãi dầu khí được
chia cho nước chủ nhà từ năm 2006-2011.
Vì vậy, thu từ dầu thô tăng hơn 53.000 tỉ đồng so với
dự toán. Ủy ban Tài chính - ngân sách cho rằng nếu không có số thu thêm từ lãi
dầu khí nước chủ nhà từ các năm trước thì ngân sách nhà nước năm 2012 sẽ hụt
thu, mất cân đối, ảnh hưởng đến nhiệm vụ chi.
Tình hình thu ngân sách nhà nước năm 2013 được dự báo
còn căng thẳng hơn. Bốn tháng đầu năm mới ước đạt hơn 244.000 tỉ, bằng 29,9% dự
toán.
Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Công Nghiệp
thừa nhận tình trạng căng thẳng trong việc đảm bảo nhiệm vụ thu năm 2013,
“nhiều ý kiến cảnh báo về khả năng hụt thu”. Do đó, Ủy ban Tài chính - ngân
sách đề nghị phải triệt để tiết kiệm, cắt giảm các khoản chi không hợp lý, tiếp
tục rà soát các dự án đầu tư công, tinh giản biên chế... để đảm bảo cân đối thu
chi, an toàn ngân sách.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - ngân sách
Phùng Quốc Hiển cho biết năm nay sẽ không còn trông chờ được vào dầu khí nữa vì
sản lượng ổn định và giá dự toán đã ở mức 90 USD/thùng.
Kết thúc cuộc thảo luận, Phó chủ tịch Quốc
hội Nguyễn Thị Kim Ngân đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện báo cáo để trình
Quốc hội xem xét tại kỳ họp tới. “Chưa đặt vấn đề điều chỉnh chỉ tiêu tăng
trưởng, thu ngân sách..., nhưng nên lường trước tình huống cho kịch bản xấu
nhất để xử lý tình hình” - bà Ngân gợi ý.
* TS Lê Thẩm Dương (trưởng khoa quản trị
kinh doanh ĐH Ngân hàng TP.HCM):
Chỉ rối phải gỡ từ từ
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng
tín dụng chậm hiện nay, về phía doanh nghiệp đó là do hàng tồn kho. Chính vì
hàng tồn nên dù lãi suất thấp họ cũng không vay vì sản xuất ra bán cho ai? Bốn
tháng đầu năm tình trạng hàng tồn vẫn chưa gỡ được bao nhiêu. Còn về phía ngân
hàng (NH) do áp lực nợ xấu. Thời gian qua NH đã nỗ lực xử lý nợ xấu bằng cách
bán tài sản đảm bảo, trích dự phòng... nhưng nợ xấu vẫn cao khiến NH nhát tay
trong xét cho vay.
Với những vấn đề hiện nay, nếu để NH và
doanh nghiệp tự giải quyết với nhau thì sẽ không bao giờ giải quyết được vì có
tình trạng như hiện nay còn có nguyên nhân từ nền kinh tế. Cơ quan quản lý phải
xắn tay cùng với NH và doanh nghiệp trong việc ban hành và thực thi các chính
sách tháo gỡ khó khăn, củng cố niềm tin, củng cố thị trường trong nước, làm ấm
thị trường bất động sản... Về phía NH, phải hạ dần lãi suất đầu ra, đa dạng hóa
tài sản đảm bảo, nâng dần tỉ lệ cho vay tín chấp. Phần doanh nghiệp cũng phải
khắc phục những vướng mắc thì mới giải quyết được các vấn đề khó khăn hiện nay.
* PGS.TS Trần Hoàng Ngân (phó hiệu trưởng
Trường ĐH Kinh tế TP.HCM):
Cần ủy ban khẩn cấp ngăn chặn “dịch” phá
sản
Dư nợ tín dụng từ đầu năm đến nay có tăng
nhưng ở mức độ thấp: 1,44%. Đây chính là điều đáng lo ngại. Mặt khác, số lượng doanh
nghiệp phá sản ba năm qua liên tục theo chiều hướng gia tăng kéo theo số nợ xấu
tăng thêm...
Thời gian qua, nhiều chính sách tháo gỡ
khó khăn cho doanh nghiệp được ban hành nhưng chưa thể đi vào cuộc sống vì
nhiều lý do. Theo tôi, đã đến lúc cần lập một ủy ban khẩn cấp để ngăn chặn
“dịch” phá sản của doanh nghiệp. Ủy ban này sẽ đứng ra để trực tiếp giải quyết
những vấn đề của doanh nghiệp hiện nay. Còn thời gian qua, giải quyết khó khăn
nhưng cơ quan quản lý chỉ kêu gọi một chiều NH giảm lãi suất cho doanh nghiệp,
nhưng khi NH giảm lãi suất thì doanh nghiệp cũng không thể tiếp cận được vốn.
Chưa kể NH, doanh nghiệp mỗi nơi nói một kiểu, rốt cuộc chính sách được ban ra
nhưng vướng mắc vẫn còn nguyên không giải quyết được.
ÁNH HỒNG ghi
---Tháng MƯỜI 2012---
Bi kịch
nền kinh tế Việt Nam
Chủ Nhật, 14/10/2012, 10:41
Theo Trần Việt – ANTĐ
Có thể nói nền kinh tế Việt Nam đang đứng
trước bi kịch lớn.
Một thực
trạng đáng lo lắng
Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình
Thiên, trong nghiên cứu của mình đã dẫn thống kê của Bộ Kế hoạch Đầu tư: có tới
53.000 doanh nghiệp đóng cửa và phá sản trong năm 2011, và 35.500 doanh nghiệp
lâm vào cảnh tương tự trong 8 tháng đầu năm 2012.
Con số này gần bằng một nửa con số các doanh
nghiệp đóng cửa và phá sản kể từ năm 1986 tới nay.
Đáng lo hơn hoạt động của các doanh nghiệp
đang tồn tại trên thị trường cũng không khá hơn. Thống kê cho thấy hầu hết các
doanh nghiệp đã giảm công suất hoạt động, thậm chí nhiều doanh nghiệp chỉ còn
tồn tại hình thức bởi không tiêu thụ được sản phẩm, lượng tồn kho cao. Nếu tính
trung bình các doanh nghiệp này giảm công suất 20% tương đương với khoảng
150.000 doanh nghiệp nữa đóng cửa và phá sản. Số người thất nghiệp do sự thu
hẹp sản xuất lên đến hàng triệu người.
Còn một vấn đề đáng lo nữa là số lượng sản
phẩm tồn kho cao và sự giảm giá trị tài sản do giảm phát, hạ giá do sức mua
kém. Hàng triệu tỷ đồng vốn đang bị chôn trong hàng hóa tồn kho, trong đó hàng
tồn bất động sản lớn nhất. Trên thị trường bất động sản có tới 70.000 căn hộ
đang bị ế chỉ ở hai thành phố lớn nhất nước. Ít nhất là có tới 140 nghìn tỷ
đồng đang bị chôn, mà phải mất tới 7 năm sau may ra mới xử lý được. Một báo cáo
của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia ước tính, khu vực bất động sản đã được
các ngân hàng bơm gần 350 nghìn tỷ đồng, một số vốn khổng lồ.
Thêm một dẫn chứng bi kịch về bất động sản.
Ông Thiên tính toán có 69 công ty bất động sản niêm yết đang đối mặt với vấn đề
thanh khoản nghiêm trọng. Đến cuối năm 2011, các công ty này gánh khoản nợ vay
67.000 tỉ đồng và chi phí lãi vay mỗi năm 13.400 tỉ đồng. Đáng báo động là
trong cơ cấu nợ vay, khoản vay ngắn hạn trong quý IV của năm ngoái đã tăng lên
26.400 tỉ đồng. Nghĩa là các công ty này phải có 39.800 tỉ đồng để trả nợ vay
đến hạn và lãi vay trong năm 2012. Nhà kinh tế đặt câu hỏi hoài nghi: “Với tình
trạng hiện nay, họ có khả năng trả nợ không?”
Nhìn ra khu vực công, tình hình cũng không
sáng sủa hơn. Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho biết, năm 2011, tổng số nợ vốn
đầu tư của 63 tỉnh và thành phố là 91.273 tỷ đồng của 47.209 dự án; trong đó,
nợ vốn các công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành là 25.423 tỷ đồng, nợ vốn
của 20.921 dự án đang triển khai là 65.850 tỷ đồng, dãn tiến độ 41 dự án với
tổng số vốn là 38.320 tỷ đồng. Hệ quả của tình trạng trên, không gì khác là số
phận hẩm hiu của các doanh nghiệp và người làm công. Ông nói: “Đang có nhiều
doanh nghiệp “chết” hoặc “chờ chết” vì không thu được món nợ này”.
Doanh nghiệp Nhà nước nợ khổng lồ
Sự suy giảm này trước hết là do hoạt động của
các doanh nghiệp Nhà nước mà đứng đầu là các tập đoàn và tổng công ty nhà nước
làm ăn không những kém hiệu quả mà còn để rơi vào tình trạng phá sản.
Tiến sĩ Đinh Tuấn Minh tại tài liệu phục vụ
cho Diễn đàn Kinh tế mùa thu 2012 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp tổ chức tại
thành phố Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã chỉ rõ: “Doanh nghiệp Nhà nước
sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong đó các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu”. Ngoài ra, theo ông Minh, nợ xấu của
khu vực tập đoàn, tổng công ty chiếm tới 30 – 35% tổng dư nợ của khối này trong
vay nợ từ hệ thống ngân hàng thương mại.
Tổng dư nợ đó của 12 tập đoàn kinh tế Nhà
nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng, theo Đề án tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp
Nhà nước của Bộ Tài chính năm 2012. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về Tập đoàn
Dầu khí (PVN – 72.300 tỷ đồng), Điện lực (EVN-62.800 tỷ đồng), Than và Khoáng
sản (Vinacomin – 19.600 tỷ đồng).
Ngoài khu vực ngân hàng, tiến sĩ Minh lưu ý
nợ xấu của khu vực doanh nghiệp đang “rất lớn” ở Ngân hàng Phát triển (VDB).
Chẳng hạn, Vinashin vay ưu đãi VDB gần 300 tỷ đồng lãi suất bằng 0% để hỗ trợ
trả lương và phụ cấp; EVN được vay hơn 5.000 tỷ đồng. Còn trong các năm trước
đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng bành vay 290 tỷ
đồng…
Ông Nguyễn Quang Dũng, Tổng giám đốc Ngân
hàng Phát triển (VDB) cho biết: “Nợ của các tập đoàn, tổng công ty… chiếm độ 75
– 80% tổng dư nợ của Ngân hàng Phát triển…” Các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù số
lượng thấp hơn doanh nghiệp tư nhân nhưng nợ thuế cũng khổng lồ, Phó Tổng cục
trưởng Tổng cục Thuế Trần Văn Phu nhận xét: Nợ thuế chưa trả của các DN Nhà
nước chiếm khoảng 13% trên tổng số nợ thuế.
Khối các ngân hàng thương mại cũng không khá
hơn. Bởi lẽ, giữa năm 2012 NHNN công bố tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam là 8,6% tổng
dư nợ nghĩa là vào khoảng 202 nghìn tỷ đồng, nhưng trên diễn đàn Quốc hội,
Thống đốc NHNN lại thông báo con số 10%, và dư luận lại đánh giá có thể ở mức
cao hơn 10%. Gánh nặng này thật sự đã đè gần bẹp khả năng phát triển của nền
kinh tế vì vốn là một trong những điều kiện tiên quyết của hoạt động doanh nghiệp.
Những lối thoát cần được tính đến
Ngày 6-10-2012 một cuộc hội thảo quốc gia
mang tên: “Kinh tế Việt Nam năm 2012: Tạo bước ngoặt để xoay chuyển tình thế”,
tập hợp đông đảo các nhà quản lý và nghiên cứu kinh tế đã được tổ chức. Tại hôi
thảo này đa số các đại biểu cho rằng những khó khăn của nền kinh tế không thể
giải quyết một sớm một chiều bằng một vài ba giải pháp nào đó. Những chỉ tiêu
lên xuống của nền kinh tế hiện nay hầu hết không phản ánh được thực tế của nền
kinh tế cũng như hiệu quả của những chính sách cụ thể. Đại biểu Quốc hội Trần
Du Lịch đồng tình: “Chính phủ cần xây dựng kế hoạch tổng thể cho cả ba năm tới,
thay vì làm kế hoạch cho từng năm như hiện nay. Kế hoạch đó là nhằm phục hồi
nền kinh tế sau khủng hoảng. Cả ba năm tới phải tập trung toàn bộ nguồn lực và
chủ trương cho kế hoạch này.”.
Những giải pháp đó là cơ cấu lại nền kinh tế,
đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước và xử lý nợ xấu. Ông Lịch đề xuất, ngân
hàng nào hệ số vốn chủ sở hữu so với tổng tài sản dưới 8%, nhưng nợ xấu lên
trên 10%, tức là đã mất hết vốn, thì Nhà nước cần quốc hữu hóa. Bên cạnh đó,
ông đề nghị khoanh nợ và cho vay mới với các doanh nghiệp sản xuất, xây dựng,
các dự án BOT, BT mà có khả năng sản xuất tiếp. Về tài khóa, ông Lịch đề nghị
từ nay đến 2015 tất cả các cơ quan của hệ thống chính trị không được xây mới
trụ sở, nếu nơi đó còn trường học bệnh xá là nhà tranh, vách lá. Trên diễn đàn
Quốc hội, ông cho biết sẽ đề nghị Quốc hội cắt chi thường xuyên năm 2013 đi 10%
so 2012, ngoại trừ tiền lương và chi xã hội; và giảm thuế thu nhập doanh nghiệp
xuống 20% từ 25% hiện nay.
Song dư luận cho rằng bên cạnh việc xử lý nợ
xấu, hay tồn kho bất động sản, hay các giải pháp cơ cấu nền kinh tế… cần tiếp
tục cải cách bộ máy Nhà nước, tìm cơ chế để tìm ra người chịu trách nhiệm khi
có những sai phạm gây tác động xấu tới nền kinh tế… Đó cũng sẽ là một việc quan
trọng cho phục hồi và xây dựng nền kinh tế bền vững sau này.
Theo Trần Việt – ANTĐ
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment