XẾP
LOẠI CÁC CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ
Chế độ chính trị là một tổng thể bao gồm nhiều
yếu tố: Các nguyên tắc về luật pháp như Hiến pháp quy định đặc điểm của thể chế
chính trị và các nguyên tắc khác như hệ thống các đảng phái, các cá nhân nắm
giữ quyền lực, hệ tư tưởng… Chế độ chính trị thể hiện cách tổ chức các cơ quan
trong một Nhà nước nhất định. Mỗi chế độ chính trị đều có các quan điểm khác
nhau về chủ quyền, về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, về các nguyên tắc
mà nhà lãnh đạo phải tuân theo. Chế độ chính trị quy định nhiệm vụ của các cơ
quan công quyền và định hướng các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Chế độ
chính trị phản ánh các đặc điểm cơ bản của toàn bộ hệ thống hành chính của mỗi
nước.
Người Hy Lạp trước Công nguyên đã tiến hành xếp loại các chế độ
chính trị dựa theo một số tiêu chuẩn về số lượng người tham gia vào các hoạt
động chính trị, xã hội ở các thành bang. Các nhà tư tưởng thời Trung cổ như
Machiavel, Jean Bodin đã đưa ra các tiêu chuẩn nhằm đánh giá chế độ quân chủ và
chế độ cộng hòa. Các nhà triết học thời kỳ ánh sáng đã tiến hành phân loại các
kiểu chế độ chính trị tồn tại trong suốt thời kì Trung cổ đến giai đoạn Cách
mạng Pháp 1789. Montesquieu là đại diện tiêu biểu của thời kì ánh sáng, ông đã
thành công trong việc phân loại các chế độ khác nhau dựa trên các tiêu chuẩn
mới, khác với Aristote.
Trên thế giới hiện nay có gần 200 quốc gia độc
lập, mỗi nước đều có chế độ chính trị riêng. Sự đa dạng văn hóa, tôn giáo ảnh
hưởng rất lớn đến việc chọn lựa và xây dựng thể chế. Ví dụ các nước Ả Rập đều
lấy đạo hồi là quốc giáo, các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp dựa theo giáo lí
của kinh Coran. Nhà luật học và chính trị học Bernard Chantebout cho rằng các
giá trị dân chủ của phương Tây khác với các nguyên tắc của đạo hồi. Cho nên nếu
đánh giá thể chế chính trị của các nước Trung Đông dựa theo các tiêu chuẩn của
phương Tây, các chuyên gia có thể kết luận rằng các nước hồi giáo không có dân
chủ, nhưng các nhà lãnh đạo ở các nước này lại khẳng định các giá trị dân chủ
dựa trên tôn giáo vẫn được đảm bảo. Chế độ chính trị ở mỗi nước đều có các đặc
điểm khác nhau và quan điểm về dân chủ cũng khác nhau.
Nền dân chủ phương Tây (Mỹ và Châu Âu) có ảnh hưởng lớn đối với
các nước đang phát triển, và là hình mẫu cho các nước này. Bảo vệ quyền con
người, xây dựng Nhà nước pháp quyền, xây dựng nền kinh tế thị trường… là các
điều kiện cơ bản của thể chế chính trị phương Tây. Những đặc điểm nổi bật của
chế độ chính trị sẽ chứng minh mỗi nước có dân chủ hay không, dựa trên các phân
tích, các nhà nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ tính ưu việt hay bất cập của các
thể chế.
Chế độ chính trị được phân loại theo 3 tiêu chí sau:
I. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm truyền thống.
II. Phân loại chế độ chính trị theo cách xây dựng các thiết chế.
III. Phân loại chế độ chính trị theo quan điểm xã hội học và
triết học hiện đại.
I. Xếp loại chế độ chính trị theo quan điểm truyền thống
Các nhà triết học thời Hy Lạp cổ đại và thời kỳ ánh sáng xếp
loại các thể chế chính trị tồn tại trong giai đoạn họ đã sống, họ có dịp quan
sát và đưa ra nhiều đánh giá thú vị về các mô hình nhà nước. Các nhà tư tưởng
lớn đã có nhiều công lao, góp phần vào việc hoàn thiện các thể chế chính trị
thời cổ đại (A), các công trình của họ có ảnh hưởng lớn đến triết học thời kì
ánh sáng, khi các nhà luật học và các nhà chính trị học bàn về đặc điểm của các
thể chế chính trị sau này (B), họ đối chiếu với các nguyên tắc đã được xây dựng
từ trước.
A. Chế độ chính trị theo quan điểm triết học Hy Lạp
Từ Polybe đến Platon, các nhà tư tưởng thời Hy Lạp cổ đại đều có
ý định xếp loại các chế độ chính trị bằng cách quan sát cách thức tổ chức bộ
máy ở các thành bang. Họ phân loại thể chế chính trị theo số lượng người nhiều
hay ít, có quyền tham gia vào bộ máy điều hành Nhà nước hay không. Họ đưa ra
đánh giá một Nhà nước tốt đẹp hay tồi tệ dựa trên phẩm chất của người có quyền
lực và vai trò của họ trong việc ban hành các chính sách quan trọng. Nếu quyền
lực thực thi, đem lại lợi cho toàn bộ cộng đồng, đó sẽ là Nhà nước tốt đẹp, nếu
quyền lực chỉ để phục vụ lợi ích cho một nhóm người, đó sẽ là nhà nước xấu xa.
Aristote nghiên cứu các bản Hiến pháp của 150 thành bang trong thế kỷ thứ IV
trước Công nguyên (mỗi thành bang thời Hy Lạp cổ là một Nhà nước riêng biệt).
Ông chia ra hai loại Hiến pháp cơ bản: Hiến pháp hư hỏng hay còn gọi là Hiến
pháp chệch đường, loại Hiến pháp này trao quyền hành và ban phát lợi ích cho
một nhóm người, thiết lập một thể chế chính trị tệ hại. Hiến pháp đúng đắn bảo
đảm các lợi ích chung cho toàn thể các nhóm người trong xã hội, nhằm đem lại
hạnh phúc cho con người. Loại Hiến pháp này sẽ tạo điều kiện hình thành một chế
độ chính trị tốt đẹp. Aristote xây dựng ba kiểu chế độ chính trị:
-Chế độ quân chủ, do nhà vua đứng đầu, người đứng đầu chịu trách
nhiệm điều hành đất nước, ban ra các điều luật buộc mọi người phải tuân theo,
người đứng đầu phải luôn hành động vì lợi ích chung của nhân dân. Khi vua không
thực hiện tốt bổn phận của mình, chế độ quân chủ sẽ chuyển thành chế độ bạo
chúa hay hôn quân.
-Chế độ quý tộc do một nhóm người điều hành, họ là những người
ưu tú được tuyển trọn trong các gia đình có thế lực, họ điều hành đất nước bằng
luật pháp nhằm duy trì trật tự và bảo vệ quyền lợi cho chính họ và gia đình sau
đó bảo vệ quyền lợi của những nhóm người khác nhau. Chế độ này có thể chuyển
hóa thành chế độ đầu sỏ độc tài.
-Chế độ dân chủ, do nhiều nhóm người lãnh đạo luân phiên nhau,
thông qua hình thức lựa chọn bốc thăm, và bầu cử các đại diện cao nhất nắm giữ
các chức vụ chủ chốt. Công dân vừa là người lãnh đạo vừa là người phải tuân
theo các điều luật của Nhà nước, tuy nhiên mỗi công dân trong đời đều có điều
kiện làm lãnh đạo 1 năm theo tính chất luân phiên. Chế độ dân chủ có thể chuyển
hóa thành chế độ dân đen lãnh đạo (la populace au pouvoir ou l’ochlocratie) vì
nhiều người thiếu hiểu biết vẫn có cơ hội điều hành đất nước, điều này khiến
Platon và Aristote luôn tỏ ra nghi ngờ về chế độ dân chủ thời Hy Lạp cổ.
Các nhà tư tưởng thời kỳ Trung cổ và dưới Chế độ cũ có nhiều
công lao hoàn thiện việc xếp loại các thể chế chính trị được các nhà triết học
Hy Lạp xây dựng.
B. Chế độ chính trị theo quan điểm của Montesquieu
Nhà luật học Jean Bodin và nhà triết học Thomas Hobbes xây dựng
lí thuyết mới để củng cố quyền lực cho chế độ quân chủ chuyên chế. Với mục đích
đề cao quyền lực của vua, giúp vua thoát khỏi cái bóng ảnh hưởng của giáo hội
La Mã, các nhà tư tưởng thời Trung cổ và thời Chế độ cũ (l’Ancien Régime) định
ra các nguyên tắc và các đặc điểm cho chế độ quân chủ: Vua phải luôn hành động
vì lợi ích chung để bảo vệ cuộc sống và nền hòa bình của nhân dân cũng như duy
trì các trật tự xã hội, do đó quyền hành của vua cao hơn tất cả.
Ở thời kì ánh sáng, thế kỉ XVII, XVIII, Montesquieu trong tác
phẩm Tinh thần luật, 1748, xây dựng ba kiểu chế độ chính trị: Chế
độ quân chủ, đứng đầu là nhà vua, nhân vật này lãnh đạo đất nước bằng danh dự.
Chế độ cộng hòa, do một chính quyền đại diện gồm các cá nhân ưu tú được tín
nhiệm qua hình thức lựa chọn, chế độ này lãnh đạo đất nước dựa trên các tiêu
chuẩn đạo đức. Chế độ chuyên chế áp bức lãnh đạo đất nước bằng cách gieo rắc sợ
hãi để giữ ổn định. Chế độ quân chủ và chế độ cộng hòa đều có thể chuyển thành
chế độ độc tài áp bức. Nếu Aristote phân loại thể chế chính trị theo số lượng
người nắm giữ quyền lực, Montesquieu tiến thêm một bước xa hơn, bằng cách phân
tích các thể chế chính trị dựa trên các thuộc tính vốn có của nó. Quan điểm của
Montesquieu có ảnh hướng đến việc phân loại các chế độ chính trị dân chủ và phi
dân chủ trong giai đoạn hiện đại. Ví dụ khi nhận định các chế độ theo hệ tư
tưởng Đức quốc xã, theo chủ nghĩa fasciste, staliniste hay maïste là các thể
chế độc tài được cai trị bằng dối trá và sợ hãi, phân tích của Montesquieu khá
đúng, vì trong các thể chế này, hệ tư tưởng và tình cảm sùng bái lãnh tụ được
đặc biệt chú trọng. Nếu sự dối trá bị phát hiện, sự sợ hãi sẽ thế chỗ, khiến
con người không dám phản kháng và buộc phải ngoan ngoãn tuân theo.
Chế độ chính trị trong thời kỳ hiện đại rất đa dạng về cách thức
tổ chức quyền lực, các nhà nghiên cứu sắp xếp theo các tiêu chuẩn khác nhau,
kết quả là có nhiều quan điểm về các thể chế chính trị.
II. Xếp loại thể chế chính trị theo cách thức tổ chức quyền lực
Các học giả người Pháp xếp loại chế độ chính trị bằng cách quan
sát cách thức tổ chức quyền lực của các cơ quan nhà nước, từ đó họ nhận biết
chế độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực tập trung (A) hay chế độ chính trị
theo nguyên tắc tam quyền phân lập (B). Đây là phương pháp xếp loại tổng quát,
cần có các cách phân tích và xếp loại chi tiết hơn.
A. Chế độ chính trị theo nguyên tắc quyền lực thống nhất
Đa số các quốc gia không chú ý phân chia quyền lực minh bạch, rõ
ràng, đều theo nguyên tắc thống nhất về quyền lực dưới hình thức dân chủ tập
trung, đây là nguyên nhân khiến cả hệ thống chính trị hoạt động thiếu dân chủ.
Các cơ quan lập pháp hành pháp và tư pháp không có tính độc lập tương đối,
quyền lực không tách biệt do một người hay một nhóm người nắm giữ.
Các chế độ độc tài hay độc đoán còn được gọi là các chế độ hội
nghị có đặc điểm khá giống với chế độ bạo chúa chuyên quyền và chế độ đầu sỏ
theo định nghĩa của Aristote và Montesquieu trước đây. Khi quyền lực tập trung
không có cơ chế kiểm soát hiệu quả, các nhà lãnh đạo có xu hướng lạm quyền, kết
quả là quyền con người và các giá trị dân chủ bị vi phạm nặng nề. Khi quan sát
hệ thống chính trị vẫn đang tồn tại ở một số nước, nếu nhiệm vụ giám sát các
đạo luật vi hiến không được tiến hành, hay nguyên tắc tam quyền phân lập không
được tôn trọng, khi chỉ có một đảng được phép điều hành đất nước mà không có
cạnh tranh chính trị, ở các quốc gia đó sẽ không có dân chủ, cho dù quốc hiệu
luôn đi kèm với từ dân chủ. Ví dụ khái niệm nền dân chủ nhân dân để chỉ các
nước Đông Âu và Liên bang Xô viết trước đây, hay Cộng hòa dân chủ nhân dân
Triều Tiên hiện nay.
Chế độ độc tài có một số đặc điểm sau: Các nhà lãnh đạo có quyền
hành pháp và lập pháp, tư pháp không có vị trí độc lập và phụ thuộc vào cơ quan
hành pháp. Những người có quyền ban ra các đạo luật và thi hành luật theo kiểu
độc đoán, tư pháp trở thành công cụ trong tay họ. Tập trung quyền lực gây ra
những hậu quả nghiêm trọng, xã hội dân sự tồn tại ở mức độ hình thức, vì con
người không có không gian riêng, Nhà nước can thiệp vào mọi lĩnh vực. Nền chính
trị với sự góp mặt của nhiều đảng phái không tồn tại, chỉ có một đảng duy nhất
lãnh đạo, tiếng nói đối lập bị ngăn cản. Con người bị huy động và phải theo các
chính sách của Nhà nước được một nhóm người quyết định. Công dân không có quyền
phản kháng. Đảng duy nhất cầm quyền trở thành Nhà nước, có sự nhầm lẫn về khái
niệm đảng-Nhà nước. Các đặc điểm trên đều dễ nhận thấy trong các chế độ
fasciste, Đức quốc xã, hay chế độ chính trị theo hệ tư tưởng Mác-Lênin và Mao.
Chế độ độc đoán là một giai đoạn chuyển giao từ độc tài sang dân
chủ, (không ngoại trừ khả năng thể chế này lại trở lại độc tài như cũ). Tuy
nhiên thể chế chính trị này có một số nét khá giống với chế độ độc tài. Quyền
lực cũng tập trung trong tay một người hay một nhóm người, các nhà lãnh đạo có
quyền quyết định tất cả mọi việc lớn nhỏ của đất nước do cơ chế quyền lực tập
trung, thiếu kiểm soát. Có thể có đối lập chính trị, nhưng ảnh hưởng của phe
đối lập bị giới hạn. Các quyền tự do cá nhân bị hạn chế đến mức tối đa, một khi
các quyền này ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Quyền lực của tòa án bị
kiểm soát, các quan tòa không có quyền phê phán tính chính danh của chế độ và
vai trò của những người lãnh đạo. Cơ chế giám sát các đạo luật để bảo vệ Hiến
pháp không được áp dụng, các nguyên tắc đảm bảo sự tồn tại của Nhà nước pháp
quyền không được coi trọng. Tất cả những yếu tố này trở nên vô ích và nguy hiểm
đối với nhà lãnh đạo vì quyền lực của họ sẽ bị hạn chế. Chế độ độc đoán còn có
điểm tựa là chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo, quân đội và tinh thần sùng bái lãnh tụ.
Ví dụ trường hợp của Thổ Nhĩ Kì dưới thời Mustafa Kemal Atatürk, Tây Ban Nha
dưới thời Franco, Bồ Đào Nha thời Salazar và Chile của Augusto Pinochet…
Cho dù là chế độ độc tài, độc đoán hay dân chủ, giới cầm quyền
đều đưa ra các khẩu hiệu rất hấp dẫn để tạo tính chính danh và lấy lòng nhân
dân. Các cơ quan công quyền và các công trình phúc lợi đều gắn nhãn mác “nhân
dân” Ví dụ các nước Xã hội chủ nghĩa trước đây, được gọi là nền dân chủ nhân
dân, ở Bắc Triều Tiên có quảng trường nhân dân, thư viện nhân dân, nhà hát nhân
dân…Ở các nước tư bản khẩu hiệu được ghi trong Hiến pháp là Nhà nước của dân do
dân và vì dân hay chủ quyền thuộc về nhân dân (ví dụ điều 2, Hiến pháp Pháp năm
1958, điều 1, Hiến pháp Ý năm 1947, điều 1, Hiến pháp Tây Ban Nha, năm 1978), nhưng
thực tế không phải chính sách nào cũng vì lợi ích của toàn bộ nhân dân mà trước
hết vì lợi ích của các tập đoàn kinh tế lớn, vì quyền lợi của các nhóm người có
ảnh hưởng trong xã hội tư bản. Tuy vậy quyền con người và các nguyên tắc duy
trì nền dân chủ vẫn được đảm bảo ở các quốc gia phương Tây một khi nguyên tắc
tam quyền phân lập được tuân thủ.
B. Các chế độ chính trị theo nguyên tắc tam quyền phân lập
Thể chế chính trị của Châu Âu và Mỹ dựa trên nguyên tắc tam
quyền phân lập. Cân bằng và phân bổ quyền lực hợp lí giữa các cơ quan luôn được
đảm bảo, cơ chế “check and balance” là đặc điểm nổi bật trong thể chế dân chủ.
Theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để, hay tam quyên phân lập tương đối
không có nghĩa là không có sự hợp tác nào giữa các cơ quan hành pháp, lập pháp
và tư pháp. Hiện nay có ba kiểu chế độ chính trị cùng tồn tại ở hai bờ Đại Tây
Dương, bao gồm chế độ tổng thống, chế độ nghị viện và chế độ hỗn hợp. Các nước
đang phát triển trên thế giới lựa chọn mô hình chính trị của phương Tây, nhưng
do các điều kiện kinh tế chính trị và xã hội chưa đáp ứng được, nên thể chế
chính trị tại các nước này đều có ít nhiều biến thái.
Chế độ tổng thống ở Mỹ có một số nét tiêu biểu, khác với chế độ
chính trị của Châu Âu. Tổng thống không có quyền giải tán Hạ viện. Nghị viện
(gồm Thượng viện và Hạ viện) không có quyền bãi chức Tổng thống trừ trường hợp
phạm tội phản bội đất nước, tham nhũng hay phạm các trọng tội về hình sự (điều
2, khoản 4, Hiến pháp Mỹ, năm 1787). Chính phủ đứng đầu là Tổng thống và Phó
Tổng thống không chịu trách nhiệm trước Nghị viện vì nước Mỹ theo nguyên tắc
tam quyền phân lập triệt để. Nếu không có các biện pháp đối trọng gây sức ép
như trong chế độ nghị viện, Hiến pháp Mỹ ghi nhận một số ảnh hưởng giữa các cơ
quan hành pháp và lập pháp. Tổng thống có quyền phủ quyết các dự luật, trong
khi Nghị viện có thể từ chối không thông qua luật ngân sách và phủ quyết các
hiệp ước quốc tế mà Tổng thống mong muốn kí kết.
Trong chế độ nghị viện, chính phủ được đảng phái chiếm đa số tại
Nghị viện bầu ra và ủng hộ các chính sách của cơ quan này. Các phương tiện gây
sức ép giữa cơ quan hành pháp và lập pháp luôn tồn tại và phải ở vị thế cân
bằng, nếu không chế độ sẽ mất ổn định. Nghị viện (thường là Quốc hội hay Hạ
viện) có quyền lật đổ chính phủ, một chính phủ mới sẽ được thành lập để đáp ứng
tốt hơn các đòi hỏi từ phía cơ quan lập pháp. Tổng thống hay vua có thể giải
tán Quốc hội, để nhân dân bầu lại một Quốc hội mới có đa số ủng hộ chính phủ.
Quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm và quyền giải tán Nghị viện là hai thứ vũ khí lợi
hại, tạo sức ép lớn lên hai cơ quan hành pháp và lập pháp, buộc hai cơ quan này
phải làm tốt nhiệm vụ của mình, nếu không sẽ bị thay thế. Anh, Đức, Tây Ban Nha
và các nước Bắc Âu là những nền dân chủ tiêu biểu theo chế độ nghị viện.
Chế độ hỗn hợp là thể chế chính trị có đặc điểm của chế độ tổng
thống và chế độ nghị viện. Các phương tiện gây sức ép giữa Quốc hội và chính
phủ chỉ tồn tại trên hình thức. Cơ quan hành pháp được đa số tại Nghị viện ủng
hộ. Tổng thống được nhân dân bầu trực tiếp và có vị thế ngang bằng với Quốc
hội, điều này khác biệt với chế độ nghị viện truyền thống. Ví dụ tiêu biểu về
thế chế chính trị đặc biệt này là mô hình chính trị của nước Pháp (về mô hình
thể chế chính trị ở Pháp, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau, một số nhà luật
học cho rằng, nước Pháp đang theo mô hình chế độ tổng thống, các nhà chính trị
theo quan điểm của Maurice Duverger, xếp mô hình chính trị của Pháp theo chế độ
nửa tổng thống nửa nghị viện, hay còn gọi là chế độ hỗn hợp, trong bài viết
này, chúng tôi tạm xếp nước Pháp theo chế độ hỗn hợp, giống với quan điểm của
Maurice Duverger, tuy nhiên cũng còn nhiều điểm phải bàn lại về cách gọi này).
Thể chế chính trị phương Tây, theo nhà luật học Jean-Louis
Quermonne, có 5 đặc điểm cơ bản:
-Chế độ bầu cử tự do, các đảng phái được phép thành lập trên
tinh thần tôn trọng luật pháp và bảo vệ các giá trị dân chủ, các đảng phải lựa
chọn ứng cử viên ra tranh cử. Các chiến dịch vận động tranh cử và chương trình
hành động của các đảng được các phương tiện thông tin đăng tải, người dân có
điều kiện tìm hiểu và xem xét lựa chọn ứng viên phù hợp với mình.
-Tồn tại đa số nghị sĩ của một đảng hoặc một liên minh giữa các
đảng cùng chia sẻ quan điểm chính trị, với mục đích ủng hộ các chính sách của
chính phủ.
-Phe đối lập có quyền phê bình và quyền tranh cử, nếu nhân dân
lựa chọn, phe đối lập sẽ có quyền lãnh đạo.
-Chủ nghĩa hiến pháp được thực thi, các đảng phái buộc phải có
thỏa hiệp và đi đến đồng thuận về một số vấn đề quan trọng, các đạo luật được
tòa án hiến pháp giám sát chặt chẽ để bảo vệ các giá trị của Hiến pháp. Cơ quan
tư pháp giữ vai trò độc lập.
-Bảo vệ các quyền cơ quản của công dân, chú trọng nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Nhà nước và công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
các cơ quan công quyền phải tuân theo luật pháp.
Arendt Lijphart, nhà chính trị học người Hà Lan xếp loại thể chế
chính trị phương Tây theo chế độ theo đa số và chế độ theo nguyên tắc ưng
thuận. Tác giả chọn nước Anh theo nền chính trị theo đa số và Bỉ theo nền chính
trị theo nguyên tắc ưng thuận. Cách xếp loại mô hình chính trị của Arendt
Lijphart khá độc đáo nhưng không phải là cách xếp loại được các nhà nghiên cứu
chú ý.
Cách xác định các thể chế chính trị theo quan điểm triết học, xã
hội học hiện đại được nhiều học giả uyên bác của Mỹ và Tây Âu tiến hành, phương
pháp này giúp con người hiểu rõ hơn về bản chất của các thể chế chính trị dân
chủ và phi dân chủ.
III. Chế độ chính trị được xếp loại theo quan điểm xã hội học và
triết học
A. Hannah Arendt và Raymond Arond, hai đại diện tiêu biểu sau
chiến tranh.
Raymond Aron là một trong những nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp
cho ngành xã hội học trong thế kỷ XX, ông cũng để lại dấu ấn trong lĩnh vực
khoa học chính trị. Nhà xã hội học ưu tú này là người giới thiệu các tác phẩm
của Max Weber và góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Max Weber về chính trị và
xã hội. Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, Raymond Aron sang Anh, tham gia
kháng chiến với tướng De Gaulle. Trong tác phẩm Dân chủ và Độc tài,
Démocratie et Totalitarisme, xuất bản năm 1965, ông chia ra làm hai
loại thể chế chính trị, điểm khác biệt giữa hai kiểu chế độ này là việc tổ chức
các đảng phái chính trị theo cách riêng:
Chế độ đa đảng thể hiện hệ thống chính trị có nhiều đảng phái
cạnh tranh, đây là biểu hiện của dân chủ. Nhà nước chấp nhận sự có mặt của
nhiều đảng với điều kiện, các đảng phải tôn trọng Hiến pháp và hoạt động tuân
theo các đạo luật hiện hành. Phe đối lập được tôn trọng và có quyền tự do hoạt
động, có quyền tranh cử để thay thế đảng đa số cầm quyền, theo nguyên tắc luân
phiên. Chế độ chính trị phương Tây hoạt động theo quy định của Hiến pháp. Cạnh
tranh chính trị lành mạnh để giành được quyền lãnh đạo tạm thời, quyền này sẽ
bị tước đoạt nếu đảng lãnh đạo không đủ năng lực, sẽ không được tín nhiệm.
Raymond Aron cho rằng cạnh tranh cũng như căng thẳng chính trị ở thể chế chính
trị phương Tây khá khắc nghiệt. Tác giả đặt câu hỏi làm thế nào để đảm bảo đồng
thời lợi ích của đa số chiến thắng trong cuộc bầu cử và của thiếu số thất bại?
Một số thiếu sót của mô hình chính trị dân chủ vẫn tồn tại như áp dụng không
hợp lí vấn đề bầu cử hợp pháp và đúng luật (như một số vẫn không được tham gia
bầu cử, hay trong quá trình bầu cử một số cử tri vẫn bị lợi dụng), việc không
áp dụng nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh giữa các đảng phái và giữa các nhóm
nghị sĩ tại Nghị viện, tính không đại diện của các đảng phái. Đây vẫn là những
khuyết điểm của chế độ dân chủ.
Trái với chế độ đa đảng là chế độ một đảng, thể chế này có thiên
hướng cách mạng. Nhà nước được trang bị một hệ tư tưởng, (trong Nhà nước dân
chủ, nhiều ý kiến, tư tưởng được lắng nghe và được nghiên cứu, điều này phản
ánh sự đa dạng của các nhóm người trong xã hội, nên sẽ không có hệ tư tưởng
chung, vì tư tưởng của nhóm này lại không phản án quan điểm và suy nghĩ của
nhóm khác). Hệ tư tưởng trở thành nền tảng và động lực của đảng cầm quyền trong
chế độ một đảng. Đối lập chính trị không được phép hoạt động. Nguyên tắc bình
đẳng, hợp pháp về cạnh tranh chính trị không được tôn trọng. Raymond Aron lập
một bảng đánh giá về mức độ của chế độ độc tài: Bản chất về học thuyết của đảng
cầm quyền, sức mạnh và khả năng thuyết phục thông qua các chủ trương và chính
sách, phương tiện được sử dụng để đạt đến mục đích cuối cùng, lí tưởng kiến
thiết xã hội, mức độ bao quát của hệ tư tưởng đối với xã hội, mức độ thống nhất
giữa ranh giới Nhà nước và xã hội.
Hannah Arendt (1906-1975), nhà triết học người Đức gốc Do Thái,
chứng kiến sự lớn mạnh của chế độ Đức quốc xã, bà chạy chốn sang Pháp sau đó
sang định cư tại Mỹ. Hannah Arendt xây dựng lí thuyết về chế độ độc tài theo
quan sát của một nhà triết học. Bà nhận xét chế độ độc tài luôn gắn với nỗi sợ
hãi, trong chế độ này không còn khái niệm nhân đạo, xã hội con người bị thế chỗ
bởi đám đông quần chúng, không có tình cảm, không có kí ức và không có ý thức
phân tích đúng sai.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của chế độ độc tài, Les
origines du totalitarisme, 1951, Hannah Arendt phê phán mối liên hệ chính
trị giữa nhà lãnh đạo và công dân, bà cho rằng cần phải xem xét lại chính sách
dựa trên tự do và tranh luận, cần phải bàn về “không gian riêng tư” và “không
gian công cộng” giữa sức sản xuất của nền kinh tế và điều hành chính trị, cần
tách biệt với sự quản lí đơn giản. Vượt xa hơn cả một chế độ chính trị thông
thường, chế độ độc tài là một hệ thống, là tổng thể các yếu tố có liên hệ mật
thiết với nhau: Đồng thời là một tổ chức xã hội có một quan niệm về vai trò của
Nhà nước, có quan điểm về nhìn nhận thế giới. Toàn bộ các mục tiêu của thể chế
này cần được áp dụng và kiểm nghiệm qua thực tế, chế độ độc tài được kết hợp
với những yếu tố thần thoại và các yếu tố siêu hình. Hannah Arendt nhận định
chế độ độc tài hướng đến sự thống trị toàn bộ, thống trị con người về sức lực,
tư tưởng và hướng đến nhiệm vụ chinh phục thế giới. Chế độ độc tài dẫn đến
chiến tranh hoặc hướng đến một cuộc cách mạng được chuẩn bị theo một chương
trình quy mô trên phạm vi toàn thế giới.
Chế độ độc tài khinh bỉ các đạo luật được ban hành, nhưng luôn
tự coi mình hợp pháp hơn cả luật pháp. Tư tưởng của Hitler hướng đến việc thực
hiện các đạo luật tự nhiên (cạnh tranh sinh tồn, kẻ mạnh chiến thắng kẻ yếu),
tư tưởng của Staline nhằm thực hiện quy luật của lịch sử theo chủ nghĩa Marx.
Hannah Arendt sử dụng phương pháp phân tích của Max Weber để xây dựng lí
thuyết. Bà quan sát thể chế chính trị thời Đức quốc xã và Liên bang Xô viết
dưới thời Staline. Một số tác giả phê phán cách xếp loại thể chế chính trị theo
quan điểm triết học này, vì nó không đủ độ sâu và thiếu bằng chứng thuyết phục.
Bên cạch hai tác giả lớn, cần phải kể đến Claude Lefort
(1924-2010), ông là nhà triết học chịu ảnh hưởng tư tưởng của Karl Marx, ông
phân tích thể chế chính trị theo cách thức tổ chức các cơ quan trong xã hội.
Claude Lefort dựa theo quan sát của Ernst Kantorowicz về hai hệ thống trong Nhà
nước quân chủ, hệ thống của nhà vua và hệ thống của nhân dân. Trong hệ thống
của nhân dân thường có các yếu tố xung đột, tạo sự chia rẽ, thể chế độc tài
chấp nhận điều đó và quản lí xã hội bằng các biện pháp mạnh. Nhưng chế độ độc
tài sẽ không thành công để loại bỏ tính đối lập vốn có, vì trong quá trình vận
động và phát triển của thể chế, sẽ luôn xuất hiện sự xung khắc và tồn tại các
quan điểm đối lập. Hơn nữa, để tổ chức xã hội hoàn thiện, chế độ độc tài buộc
phải kiến thiết và tổ chức xã hội tốt hơn bằng cách học theo các nguyên tắc có
sẵn trong các thể chế dân chủ, điều này càng làm cho xã hội thêm phân chia sâu
sắc. Các mối xung đột luôn thường trực trong thể chế dân chủ vì thể chế này
công nhận lợi ích hợp pháp của các nhóm người khác nhau, và chấp thuận sự tồn
tại các quan điểm trái ngược.
B. Xếp loại thể chế chính trị theo quan điểm của Juan José Linz
Juan José Linz (1926-2013) là nhà chính trị học người Tây Ban
Nha, ông là giáo sư đại học ở Mỹ, ông bảo vệ luận án tiến sĩ, dưới sự chỉ dẫn
của Seymour Martin Lipset. Juan José Linz gần gũi với những đại diện tiêu biểu
của học thuyết chức năng của Mỹ như Paul Lazasfeld, Robert K. Merton.
Juan José Linz xa rời phương pháp xếp loại truyền thống các thể
chế chính trị dân chủ/ độc tài. Ông xây dựng lí thuyết mới và xếp loại 3 kiểu
chế độ chính trị. Trong cuốn sách chế độ độc tài và chế độ độ đoán,
Totalitarian and Autoritarian regime, xuất bản năm 2000, ông đưa ra nhận
xét, quan điểm về thể chế độc tài và thể chế dân chủ đa đảng trước đây chưa
phản ánh hết thực tế các thể chế chính trị đã và đang tồn tại trên thế giới,
cần có những đánh giá năng động về các chế độ chính trị vì có mô hình ra đời, sau
đó biến mất hoặc thay đổi sang một hình thức khác. Ông phủ nhận phương pháp xác
định các thể chế chính trị dựa trên vai trò của các cơ quan công quyền và dựa
trên mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực hay cấu trúc của các đảng phái.
Điều này chỉ đem lại những quan sát mang tính hình thức về các kiểu chế độ
chính trị, chứ không phản ánh đúng bản chất của chúng.
Ông nêu ra ba loại thể chế chính trị khác nhau: chế độ độc tài,
chế độ độc đoán, chế độ dân chủ đa đảng. Ông nhấn mạnh thuyết phát triển (le développementalisme)
của Samuel Huntington không đủ sức thuyết phục khi giải thích điều kiện tồn tại
các chế độ chính trị theo lí thuyết này. (Phát triển kinh tế đi kèm với quá
trình xây dựng và củng cố nền dân chủ, kinh tế sẽ thúc đẩy dân chủ). Juan José
Linz nhận xét các nước không có dân chủ vẫn đảm bảo tăng trưởng kinh tế liên
tục, kinh tế phát triển nhưng chưa chắc đã có dân chủ. Khi quan sát những
chuyển đổi của các chế độ chính trị vào cuối thế kỷ XX, Juan José Linz đã xây
dựng lại quan điểm của mình về các kiểu thế chế chính trị. Ông phân loại làm 5
kiểu thể chế khác nhau: Chế độ độc tài, chế độ độc đoán, chế độ dân chủ đa
đảng, chế độ quân vương và chế độ hậu độc tài, (trong hình thức chính thể cuối
cùng này, ông lại xếp thành 5 kiểu thể chế chính trị khác nhau). Những phân
tích của tác giả được đánh giá là rất công phu và đầy đủ nhất đến thời điểm
hiện tại.
A.R., P.T.Đ.
Tài liệu tham khảo
1. Dictionnaire de la culture juridique, sous la direction de
Denis Alland et Stéphane Rials, QUADRIAGE/LAMY-PUF, 2007.
2. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis Quermonne
cinquième édition, Éditions du Seuil.
3. Régimes totalitaires et autoritaires, Juan José Linz Paris,
Armand Colin, 2006.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment