Sunday, July 27, 2014

“Từ cột đồng Mã Viện năm xưa... đến “cột đồng” ý thức hệ hôm nay”


“Từ cột đồng Mã Viện năm xưa... đến “cột đồng” ý thức hệ hôm nay”

Nguyễn Thượng Long (Danlambao) - ...Hơn 80 năm qua, dân tộc Việt Nam bị tan tác vì một thứ cột đồng mang tên “Ý THỨC HỆ...” được Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam rước về qua ngả Nga - Tầu và đáng buồn hơn cột đồng ý thức hệ đó lại đang được những người cộng sản Trung Quốc cụ thể hoá thành những đạo bùa mang tên hết sức mĩ miều là “Thập Lục Kim Tự” và “Tứ Hảo” để đưa dân tộc Việt Nam tới một tương lai không xa sẽ ngồi cùng mâm với những dân tộc bất hạnh nhất thế giới như dân Campuchia thời Khơ Me đỏ, như dân Palestin sống mà cũng như chết bên người Do Thái, như dân Tây Tạng, như dân Tân Cương đang nghẹt thở dưới bóng cờ 5 sao, thậm chí phải ngậm ngùi sống thân phận không quê hương... trong ánh mắt ái ngại của những dân tộc văn minh. Cái thứ gọi là “Ý THỨC HỆ...” đó nay đã bị cả thế giới văn minh kiên quyết từ chối và vứt bỏ, vậy mà không biết tổ tiên dân tộc mình từ trong tiền kiếp đã phạm tội lỗi gì mà nay ĐCS Việt Nam vẫn còn cố níu kéo nó để dân tộc tiếp tục phải trả quả vô lý...

*
“Gửi tặng các thế hệ học sinh cũ và đồng nghiệp GD-ĐT của tôi” 

Những ai đã từng có tuổi thơ trôi qua đời sống học đường, hẳn đều chưa thể quên, ngay những ngày đầu cắp sách đến trường đã được thầy cô khai tâm, dưỡng tính bằng bài học Việt Sử mang đậm ám ảnh về thân phận giống nòi: 

“Sau khi đàn áp thành công cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 0043, Phục Ba tướng quân nhà Đông Hán là Mã Viện gọi tắt là Mã Phục Ba (0014 - 0049) cho thu gom chiêng trống đồng, vật dụng bằng đồng… của cư dân Giao Chỉ về đúc một cột đồng lớn mang dòng chữ “ĐỒNG TRỤ CHIẾT - GIAO CHỈ DIỆT”, rồi cho cắm sâu vào lòng đất này”.(Lịch Sử Việt Nam giáo khoa thư)

Tuyệt đại đa số người Việt đều nghĩ, dòng chữ “Đồng Trụ chiết Giao Chỉ diệt” là một lời nguyền, rằng: “Cột Đồng gẫy thì dân Giao Chỉ tuyệt diệt...”. Tuy vâỵ, không phải là không còn những hướng giải mã khác. Nhà khảo cứu độc lập Thiên Đức coi cột đồng này là một phần của cả một trận đồ phong thuỷ được lập ra để tận diệt mọi mầm mống phản kháng ở nước Nam. Thiên Đức viết:

“Cụ thể, Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương, có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch. Yếu tố Dương trong bùa yểm này chính là chiếc cột đồng, còn yếu tố Âm là Kiến Thành, là một toà thành hình cái kén được Mã Viện cho xây ở Phong Khê. Hình dáng Kiến Thành kết hợp với cột đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa cực mạnh nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc. Nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò hết sức thô bỉ là “đóng cọc” người đàn bà Giao Chỉ nhằm triệt phá con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Ngoài ra câu “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” về bản chất cũng là một câu thần phù hay một lời nguyền. Chữ “chiết” ở đây không có nghĩa là gẫy mà có nghĩa là tách làm hai. Do đó câu này nên hiểu là “Trụ đồng tách huyệt (Đế Vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”, chứ không thể dịch là “Trụ đồng bị gẫy, dân Giao Chỉ bị giết”. Chữ “Huyệt” và chữ “Vương” là hai chữ bị ẩn trong câu này.” (Theo Hôn nhân & Pháp luật).

Bị Mã Phục Ba đối xử ác độc và thâm hiểm như thế, người dân Giao Chỉ đã hoá giải đạo bùa này thế nào? Có người nói rằng, để cột đồng không bị chiết (gẫy), để vô hiệu hoá lời nguyền, cư dân trong vùng mà Mã Viện cắm cọc, mỗi lần qua lại là một lần ném đất đá vào chân cột những mong cây cột đó không thể gẫy đổ, lâu dần đất đá đã vùi lấp hoàn toàn cột đồng cùng lời nguyền đó. 

Lại có giai thoại khác nói rằng nơi Mã Phục Ba chôn cọc là ở vùng Rú Rum (Lam Thành – Châu Hoan tức Nghệ An ngày nay). Ngày đó có một đôi vợ chồng nghèo, ngày ngày họ thường lên Rú hái thuốc. Họ đã vô cùng căm tức cột đồng này và quyết chí cưa đứt rồi ném xuống sông. Người dân Châu Hoan vô cùng cảm phục, sau này dựng đền thờ và tôn đôi vợ chồng nọ là Thành Hoàng. Cho đến sau 1945 ở thôn Trung Thịnh, tên mới của Trung Ca nay thuộc xã Thịnh Lộc, huyện Can Lộc vẫn còn ngôi đền thờ đôi vợ chồng tương truyền đã cưa đứt cột đồng trấn yểm ngày đó.

Bình tĩnh mà ngẫm lại điển tích này, ai cũng thấy hiếm có một dân tộc nào, ngay từ buổi bình minh của Thiên Niên Kỷ thứ nhất, lại phải đối diện với một thử thách nghiệt ngã, không bình thường và bi tráng đến như vậy. Vậy dân tộc Đại Việt sau đó có bị lời nguyền đó dẫn dắt, có bị “ma ám”, có bị “bóng đè” không? Câu trả lời là CÓ & cũng cả là KHÔNG.

Có lẽ vì quá choáng ngợp trước vượng khí rực rỡ trên vùng đất của chúng ta mà Mã Viện làm cái việc độc ác đó thôi. Sức sống mãnh liệt của dân tộc ta sau đó là một minh chứng cho thấy, ông ta chỉ là một thầy bùa hạng bét. Một hiện thực hoành tráng diễn ra trên một bình diện rộng dài về trước và cả sau lời nguyền của Mã Viện rất nhiều:

Chưa kể cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979 mà người ta đang cố tình quên thì cũng đã 13 lần dân Đại Việt đánh thắng giặc phương Bắc. Lần thứ nhất là vào năm 1218 (TCN) Phù Đổng Thiên Vương – Thánh Gióng phá giặc Ân và lần thứ 13 là năm 1789 SCN Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Ông cha chúng ta đã chấp nhận đối diện và hoá giải xuất sắc cái bất hạnh Địa – Chính Trị, điều mà Nguyễn Phú Trọng đã vin vào để ngầm thanh minh cho sự lúng túng, run sợ và quỳ gối trước Trung Quốc của ông ta, rằng “Có ai chọn được láng giềng đâu...”.

Còn hôm nay... với hàng nghìn, hàng vạn cây “Cột Sắt”, “Cột Bê Tông” khủng trong các dự án mà hậu duệ của những Mã Viện, Cao Biền... luôn luôn thắng thầu đã và đang cắm sâu vào lòng đất Việt Nam ở Bauxite Tây Nguyên, ở Vũng Áng Hà Tĩnh, ở dọc đường Quang Trung Hà Đông nơi tôi cư trú, ở nơi mà HD – 981 vừa hạ đặt ở Biển Đông... Tôi nghĩ rằng, chỉ một nhúm nhỏ người Việt Nam trong cái gọi là “Các nhóm lợi ích” là ngấm phải “Độc Tố Ngọt Ngào” của những “16 chữ vàng” và “4 tốt”, còn một dân tộc đã có những bài học lịch sử đắt giá như bài học về “Cuộc tình Mỵ Châu - Trọng Thuỷ”... dân tộc đó đủ bản lĩnh để hoá giải, để khẳng định một chân lý bất di bất dịch cho mọi thời đại:

“Không một lời nguyền nào, không một loại bùa chú nào, không một trận đồ bát quái hay phong thuỷ nào dù là ở dạng hóc hiểm, ác độc đến đâu của Mã Viện, của Cao Biền ngày xưa, của những họ Mao, họ Đặng, họ Hồ, họ Tập…ngày nay, có thể làm gục ngã ý chí độc lập và tự cường của dân tộc Việt Nam. Với những vị vua anh minh, với những triều đại không bị “ma ám”, không bị “quỷ hành”…dân tộc chúng ta đã sống và vẫn trường tồn mãnh liệt”. (NTL)

Vậy mà bất hạnh thay, hơn 80 năm qua, dân tộc Việt Nam bị tan tác vì một thứ cột đồng mang tên “Ý THỨC HỆ...” được Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam rước về qua ngả Nga - Tầu và đáng buồn hơn cột đồng ý thức hệ đó lại đang được những người cộng sản Trung Quốc cụ thể hoá thành những đạo bùa mang tên hết sức mĩ miều là “Thập Lục Kim Tự” và “Tứ Hảo” để đưa dân tộc Việt Nam tới một tương lai không xa sẽ ngồi cùng mâm với những dân tộc bất hạnh nhất thế giới như dân Campuchia thời Khơ Me đỏ, như dân Palestin sống mà cũng như chết bên người Do Thái, như dân Tây Tạng, như dân Tân Cương đang nghẹt thở dưới bóng cờ 5 sao, thậm chí phải ngậm ngùi sống thân phận không quê hương... trong ánh mắt ái ngại của những dân tộc văn minh. Cái thứ gọi là “Ý THỨC HỆ...” đó nay đã bị cả thế giới văn minh kiên quyết từ chối và vứt bỏ, vậy mà không biết tổ tiên dân tộc mình từ trong tiền kiếp đã phạm tội lỗi gì mà nay ĐCS Việt Nam vẫn còn cố níu kéo nó để dân tộc tiếp tục phải trả quả vô lý đến thế này:

- Vì có chung “Ý THỨC HỆ...” , mà ngay cả các lãnh đạo chóp bu của Việt Nam cũng đã tự đánh mất cái bản ngã độc lập, cái hồn cốt tự cường của tiền nhân để lại, như: “Tôi không có tư tưởng gì ngoài CN Mác-Lê!” và “Ai đó có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được!” (Hồ Chí Minh), còn TBT Lê Duẩn thì... “Chúng ta đánh Mĩ là đánh cho Liên Xô và Trung quốc…!”. Dân tộc Việt Nam vốn dĩ là một dân tộc yêu hoà bình, trọng nhân nghĩa “Thương Người Như Thể Thương Thân...” đã bị hàm oan, bị tiếng xấu là đã đồng lòng chọn bạo lực giai cấp làm con đường sống còn, chọn hư danh được làm chiến sĩ trên tuyến đầu chống đế quốc làm lý tưởng để cùng nhau phấn đấu cho đến chết.

- Vì cùng chung “Ý THỨC HỆ...”, nên chẳng có gì là ngạc nhiên khi đại đa số trí thức Việt Nam đã từ bỏ nhiệm vụ làm “Chim Báo Bão”, làm đối trọng của chuyên quyền, để thích nghi bằng được, chung sống hoà bình cũng bằng mọi giá với tà trị để được yên thân, được sống còn… đến nỗi đứng trước tín điều vừa man rợ vừa u tối: “Trí - Phú - Địa - Hào đào tận gốc trốc tận rễ” (Trần Phú) cũng không ai dám phản biện. Xưa kia Sĩ Phu, kẻ Sĩ:

“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” (NĐC)...

thì nay quá đông trí thức bằng cấp đầy mình vẫn chỉ mong được “phụng sự” độc trị, được làm tôi tớ cho chuyên quyền... chấp nhận cúi mặt “Coi vung nồi cơm lớn hơn cả trời”. Học giả Nguyễn Gia Kiểng, nhà lãnh đạo THDCĐN, một tập hợp của các trí thức yêu nước ở Pháp đã nói: “Thảm kịch của trí thức Việt Nam chính là thảm kịch nhân cách”... là hoàn toàn đúng.

- Vì chung “Ý THỨC HỆ...” mà người phụ nữ đã từng cưu mang những lãnh tụ cộng sản, nuôi ăn cả một trung đoàn, bà Cát Hanh Long cùng nhiều triệu người Việt Nam khác phải chết tức tưởi trong CCRĐ, trong cải tạo tư bản sau 1954 và sau 30-4-1975, trong vụ Nhân Văn giai Phẩm, xét lại chống đảng, trong cuộc nội chiến Nam-Bắc 1954-1975, trong các trại tù cải tạo quân-dân-cán-chính thuộc VNCH sau 30-4, trong cơn lốc “Thuyền Nhân” trên Biển Đông sau 30-4-1975, trong các cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc năm 1979.

- Vì chung “Ý THỨC HỆ...” mà sau khi ký Hiệp Nghị Giơ ne vơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương với những điều khoản rất thiệt thòi cho Việt Nam do bị các đồng chí Liên Xô (Mô lô tốp) và Trung Quốc (Chu Ân Lai) ép, trả lời baó chí quốc tế ngay sau lúc ký, ông Phạm Văn Đồng chua chát nói: “Chẳng biết chúng tôi sẽ giải thích việc này như thế nào cho đồng bào, đồng chí của chúng tôi ở miền Nam”(!?). (Hồi ký của nhà báo Úc U. Bơc sét - Nhà xuất bản Thông Tin Lý Luận Hà Nội 1985 – trang 270). Cũng lại là ông Phạm Văn Đồng 4 năm sau lại thản nhiên ký Công Hàm 1958 công nhận Tuyên bố về chủ quyền 12 Hải lý cho TQ... mở đường cho Trung Quốc cướp Hoàng Sa 1974 và Gạc Ma 1988, rồi tiếp đó 32 năm sau cũng lại là ông Phạm Văn Đồng, lúc này ông Đồng chỉ là cố vấn tối cao cho BLĐ Việt Nam, dẫn Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đi ký Thoả Ước Thành Đô 1990, mở ra “Một thời kỳ Bắc thuộc mới” (NCT). Sau khi ký thoả ước này vì không được anh Đặng (Đặng Tiểu Bình) thù tiếp, về đến Hà Nội, ông Đồng đã đấm ngực than trời: “Mình đã bị họ lừa rồi...”. (Hồi Ký của Nguyễn Quang Cơ Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao). Hàng loạt các hiệp định phân định biên giới trên đất liền, trên biển và hải đảo với Trung Quốc đã liên tiếp diễn ra sau Hội Nghị này và đau xót làm sao:

...“Quốc Thổ đã mất 2/3 Thác Bản Giốc, mất Ải Nam Quan, mất bãi Tục Lãm, mất một diện tích đất liền bằng cả tỉnh Thái Bình, mất hàng loạt các cao điểm chiến lược ở Hà Giang, ở Lão Sơn, mất Hoàng Sa 1974, mất Gạc Ma 1988, còn mà như mất với Bauxite Tây Nguyên cùng hơn 398374 ha rừng thượng nguồn các tỉnh biên giới bị nhượng bán cho Tầu khai thác tới nhiều chục năm, tương tự với Vũng Áng Hà Tĩnh. Về yếu tố Địa - Chính Trị, thật không ngờ, 2 người bạn chí cốt Lào - CPC xát xạt biên giới phía Tây hình như họ đang đung đưa với người tình Ba Tầu nhiều Đô chứ đâu có mặn nồng gì với Hà Nội! Quay ra bờ đại dương, ta mất phần lớn vịnh Bắc Bộ, nay lại đang có nguy cơ mất nốt cả Biển Đông. Việc xuất hiện ngang nhiên bao làng Tầu, phố Tầu, China town ở ngay giữa các vùng dân cư thành thị của đất nước... như thế vẫn chưa là “Ngũ bề thọ địch!”, “Bốn bên lửa cháy” hay sao? Về đời sống tinh thần, sau nhiều thập kỷ vọng ngoại, theo đuổi những giá trị hư ảo đâu đâu, nay xã hội Việt Nam đạo lý truyền thống đã bị băng hoại ở mức nghiêm trọng, hình ảnh dân tộc bị méo mó, nhân phẩm giống nòi bị hoen ố, cả dân tộc dắt díu nhau cô đơn, lầm lũi dưới bóng cờ “Thập Lục Kim Tự và Tứ Hảo” ba que xỏ lá, cùng hội cùng thuyền với vài 3 nhà nước bệnh hoạn để tìm đến cái nơi mà chính ông Nguyễn Phú Trọng TBT đảng gần đây nói: “...đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam chưa?”! Quốc Thổ đang những ngày như thế, dân tộc đang phải thoi thóp sống những ngày như thế... chẳng lẽ vẫn chưa là “Trầm Luân”, chưa là “Hệ Luỵ”. (Quốc Thổ Trầm Luân Dân Tộc Luỵ…6 / 2014 - NTL)

- Vì chung “Ý THỨC HỆ...” mà ngay từ những năm 1960 sinh viên khoa Địa Lý Đại Học Sư Phạm Hà Nội chúng tôi phải học những bản đồ mà dưới những vùng đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) là dòng chữ Ky - Tai (âm tiếng Nga là Trung Quốc), còn sách giáo khoa Địa Lý lớp 9 - 1974 lại viết: “...vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa (TS), Tây Sa (HS) đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành Bồ, Châu Sơn... làm thành bức “Trường Thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc.”. Rẻ rúng đất đai quốc thổ như thế thì thử hỏi người Trung Quốc dại gì mà lại không đi nước cờ cho giàn khoan HD-981 ngang nhiên hạ đặt vào vùng chủ quyền 200 Hải Lý của Việt Nam không chỉ là lúc này, họ cũng có thể làm việc đó vào bất kể lúc nào khác khi họ muốn.

Cột đồng Tập Cận Bình HD-981

- Cho đến những ngày tháng này, vì cố giữ gìn cái “Ý THỨC HỆ...” chung đó một cách mù quáng mà liêm xỉ của nhiều quan chức đã trở nên không bình thường: Giữa lúc HD-981 vẫn còn lù lù giữa nhà mình, giữa lúc ngư dân ra khơi bị Trung Quốc nhục mạ, đánh đập, bắt giữ, giữa lúc TQ vừa ăn cướp vừa la làng vu tiếng xấu cho Việt Nam trên khắp các diễn đàn quốc tế kể cả diễn đàn LHQ, giữa lúc cả thế giới văn minh lên tiếng bênh vực Việt Nam, đặc biệt Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đòi Trung Quốc phải sớm rút giàn khoan ra khỏi Biển Đông, Thượng Viện Hoa Kỳ ra Nghị Quyết về Biển Đông, giữa lúc Nhật Bản, Úc... sẵn sàng đứng bên Việt Nam, người dân trong nước và cả ngoài nước tự phát xuống đường phản đối TQ xâm lược, đề thi tú tài và đại học năm nay như một lời sám hối của lãnh đạo Bộ GD - ĐT khi bắt thí sinh phải có tư duy liên quan đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam... vậy mà vô lý làm sao:

“Biểu tình yêu nước tự phát của nhân dân trong nước bị thẳng tay ném vào cùng một dọ với hành vi của bọn phá hoại, bọn phạm pháp ở Bình Dương. TBT Nguyễn Phú Trọng suốt 2 tháng liền giữ thái độ im lặng đến khó hiểu, Quốc Hội VN không dám ra NQ về Biển Đông, Chính Phủ không dám khởi kiện TQ, Bộ trưởng quốc phòng thì lắp bắp khoe với thế giới về tình cảm ruột thịt trong gia đình giữa VN và TQ... và đương nhiên không quân, hải quân QĐND Việt Nam phải mang tiếng xấu là hèn nhát, chỉ ru rú bám bờ, để mặc trận mạc cho ngư dân, kiểm ngư, cảnh sát biển cùng mấy ông nhà báo ra đánh võ mồm với kẻ thù. Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh dám quắc mắt nhìn Dương Khiết Trì ở Hà Nội... nhưng không được đi Mỹ theo lời mời của Mỹ, lại cho Thứ Trưởng ngoại giao Hồ Xuân Sơn hạ mình triển khai thực hiện nghị quyết của bí thư Quảng Đông, trong đó có việc gấp rút đưa “300 đứa con hoang đàng...” đi học tập chính những quân cướp biển, giết người nước mình. Tiến sĩ Đinh Xuân Thảo - Viện trưởng viện nghiên cứu lập pháp quốc hội Việt Nam vẫn chém gió vun vút với VOA, rằng “Trung Quốc cướp biển đảo của Việt Nam là chưa cụ thể, chưa rõ ràng” (!?). Chủ nhiệm UB kinh tế QH Nguyễn Văn Giầu ngày 16-7-2014 nổ lấy được “Bà con cử tri khen ngợi sự thể hiện bản lĩnh của quốc hội về vấn đề biển Đông”. Đặc biệt làm sao, ngay ngày 16/7 là ngày TQ tuyên bố cho dịch giàn khoan HD-981 ra xa khỏi vùng đang hạ đặt để tránh bão thì Đại sứ Lê Hoài Trung tại LHQ vội níu lại: “Việt Nam sẵn sàng hợp tác với Trung Quốc về thăm dò dầu khí ở Biển Đông”... Thế ra là hơn 2 tháng nay họ phun nước vui đùa với ta ở đó hay sao hở trời?”. Thế mới biết câu “Chọn bạn mà chơi” của tiền nhân chẳng được các quan ta coi ra gì và hội chứng “Khôn nhà dại chợ” của họ là hết thuốc chữa”. 

Chỉ liệt kê ra một phần rất nhỏ những gì đã đến với dân tộc suốt hơn 80 năm qua đã đủ thấy“Cột Đồng Ý Thức Hệ...” mà ông Hồ và những người cộng sản tiền bối Việt Nam mang về mới xứng là một đạo bùa siêu hạng làm khốn khổ cả một giống nòi trên dải đất hình chữ S vốn dĩ đã đầy đau khổ rồi. Cứ nghĩ đến ngày chỉ vì cùng chung “Ý Thức Hệ...” mà chúng ta mất hẳn Biển Đông thì những hậu duệ của cha Rồng và mẹ Tiên, thoắt rơi vào tình cảnh “Rồng sa bãi cát...”và “Hổ lạc đồng bằng...” mà quá đau buồn. Lại nghĩ đến một ngày nào đó, trên khắp các ngả đường của 5 cửa ô tràn ngập là đoàn người lếch thếch, lo âu, dắt díu nhau khẩn cấp rời Hà Nội... theo lệnh của Thiên Triều như ngày nào Khơ Me đỏ vào Nông Pênh... mà buồn đến ngao ngán. Chẳng lẽ “Dòng chẩy lịch sử quật cường 4000 năm của giống nòi” lại bất ngờ cạn khô một cách dễ dàng thế hay sao? Ai đã đầy đoạ dân tộc này? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm về sự tuyệt diệt này?

Hiếm có một dân tộc nào lại có một khởi đầu theo một Mô Típ vừa “Lãng Mạn” vừa “Liêu Trai” như dân tộc Việt Nam. Cuộc “Ly Hôn” đầu tiên trong lịch sử nòi giống để 50 người con theo Mẹ lên núi và 50 người con theo Cha xuống biển... đâu có hoàn toàn là một chia lìa cay đắng. Cuộc chia phôi đó còn gửi đi một thông điệp cho muôn đời hậu thế rằng: Việc “Mẹ đưa con lên núi, Cha đưa con xuống biển” chính là nỗ lực mở mang bờ cõi và gìn giữ cương vực, vì “Nước mất thì nhà cũng tan”. Thông điệp đó đã được các bậc Tiên Đế anh minh giải mã, lập trình suốt 4000 năm trong nỗ lực bảo vệ vẹn toàn quốc thổ. Cuộc chia tay ngay từ buổi bình minh của giống nòi còn làm cho chân lý:

“Không có tình yêu nào là vĩnh viễn.
Không có liên minh nào là vĩnh viễn.
Chỉ có lợi ích là vĩnh viễn”...

... thêm sáng tỏ. Một khi đối tác của Việt Nam lại chủ trương “Mèo trắng, Mèo đen được tất, miễn là bắt được Chuột!” (Đặng Tiểu Bình), thì dương cao ngọn cờ “CÙNG CHUNG Ý THỨC HỆ...” để làm gì nữa? Điều đơn giản đó giờ đây một học sinh Trung Học nào cũng hiểu, chỉ một nhúm người vì lợi ích của họ mà họ cố tình không hiểu. Rất buồn, nhúm người không hiểu đó lại đang chiếm giữ giang sơn, đang định đoạt số phận của cả một giống nòi và chỉ những gì đã diễn ra ngay giữa những ngày tháng đầy biến động này thôi... cũng đủ cho ta thấy:

“Khi Tổ Quốc không còn là trên hết! Khi Hiến Pháp phải nằm dưới NQ Đảng (NPT) thì nhân dân chẳng có chỗ đứng nào hết, chẳng có cơ may nào hết, trong những đường đi nước bước, trong những toan tính được mất nhì nhằng này nọ của họ ”.

Vậy chúng ta sẽ phải làm gì bây giờ? Đâu đó đã vang lên nguyện vọng “Thoát Trung” - “Thoát Hán”. Nhưng... than ôi đó chỉ là khát vọng của đám “Lực Lượng Thù Địch” chứ có “Vua Tập Thể” nào dám nói đến điều đó đâu. Nói “THOÁT TRUNG”, “THOÁT HÁN” mà không dám nói thoát “Ý THỨC HỆ CỘNG SẢN” (THOÁT CỘNG) thì chắc chắn chúng ta sẽ lại chỉ “Bên bờ đại dương ta ngồi ta khóc” mà thôi. Chả lẽ chúng ta chấp nhận sống như thế mãi sao!... Hỡi trời? Hỡi đất? Hỡi người Việt Nam?

Lời Cuối:

Khi khép lại bài viết này, tôi nhận được một Gmail của một nickname lạ vẻn vẹn có mấy dòng:

“Tôi đã đọc được một số bài viết rất dị ứng với ý thức hệ Mác-Lê của ông. Tôi nghĩ rằng, nếu không có Mác-Lê, làm sao có Việt Nam hôm nay! Không thể không công nhận rằng khủng hoảng niềm tin hiện nay là một trong những đe doạ tiềm tàng tới sự tồn vong của chế độ. Nhưng xã hội chúng ta đâu đã hết những người cộng sản chân chính. Khi ông viết bài “Quốc Thổ Trầm Luân...”, ông nghĩ gì về giới trẻ? Ông có đánh giá quá cao vai trò của họ không? Hình như ông cũng muốn được là “ Người Cầm Cờ” của họ thì phải?”.

Tôi không quan tâm lắm tới việc người gửi thư cho tôi là ai, kể cả trường hợp đó là một cách thẩm vấn khéo tôi của một nhân viên an ninh chính trị nào đó đặc trách về tôi. Mình viết bài, người ta đọc rồi lại còn hỏi mình thì bài viết đó có số phận hẳn hoi rồi, việc gì mà phải né tránh. Tôi trả lời ngay, câu trả lời đó xin cũng là lời kết cho bài viết này:

“Thưa ông! Ngay từ những năm tháng tuổi học trò, tôi cũng đã hằng nghĩ Mác - Ăng ghen - Lê Nin là rất vĩ đại... nhưng đến cuối đời tôi lại nghĩ giá như đất nước này đừng có họ thì vẫn là tốt hơn. Theo tôi ở Việt Nam, chẳng có ý thức hệ Mác-Lê... chân chính nào đâu. Ở đó chỉ có những biến tướng méo mó, những bản sao kệch cỡm chứa đầy những thảm hoạ cho dân tộc. Còn ông muốn biết, khi tôi viết bài “QUỐC THỔ TRẦM LUÂN...” tôi nghĩ gì về giới trẻ? Xin thưa: Tôi vừa hy vọng, vừa thất vọng về họ. Nếu kể cả 3 năm tu nghiệp sư phạm (1967-1970) tôi tham gia công việc dậy học tròn 40 năm. Tôi đã nghỉ hưu được 8 năm nay rồi. Những năm tháng đầu đời dậy học, tôi đã từng lâng lâng, ngây ngất trước khẩu hiệu: “Mỗi nhà Trường là một pháo đài của CNXH - Mỗi giáo viên là một chiến sĩ trên mặt trận văn hoá tư tưởng!”. Tuổi trẻ của tôi bùng cháy và cũng lụi tàn nhanh chóng vì những hoang tưởng kỳ vĩ như thế đấy. 


Gần đây tôi chợt thấy chính mình cũng là kẻ có tội. Cùng với những yếu kém của ngành GD-ĐT, tôi cũng đã vô tình mà góp phần tạo nên nhiều thế hệ học trò... trong đó không thiếu người đã rất thành đạt về nhiều phương diện, nhưng đa phần họ sống quá vị kỷ, vô tâm, vô cảm... trước hoạn nạn của cộng đồng. Thất bại lớn nhất trong đời dậy học mà lại là dậy Địa Lý Việt Nam của tôi, với độ dài 40 năm nắm tay hàng nghìn hàng vạn học sinh để giúp họ nắn nót vẽ bản đồ tổ quốc với đường biên giới, hải giới, hải đảo rất rõ ràng... vậy mà nhiều năm qua, tôi không hề thấy bóng một học sinh cũ nào của mình mà trong tay họ là biểu ngữ: “Biển Đông là của Việt Nam” - “Hoàng Sa - Trường Sa là của Việt Nam” -“Phản đối Trung Quốc xâm lược Việt Nam”... như đã từng xuất hiện trong những cuộc biểu tình, mỗi khi nhà nước Trung Quốc có hành vi ngang ngược với đất nước, với người dân chúng ta. 

Tôi đã từng ao ước, nếu tôi có được một học sinh như Nguyễn Phương Uyên, 20 tuổi đầu đã dấn thân với biểu ngữ “Tầu khựa hãy cút khỏi Biển Đông!” và “Đi chết đi ĐCS Việt Nam!”, có được một đồng nghiệp như Thầy giáo dậy Hoá Học Đinh Đăng Định, kiên quyết không lấy việc ép học sinh học thêm làm cứu cánh kinh tế cho mình, chấp nhận nghèo khó chỉ vì nỗi đau Bauxite Tây Nguyên nơi thầy cư trú... tôi sẵn sàng đi tù thay cho họ. Nhưng với đồng nghiệp cùng cơ quan của tôi, tôi là kẻ cô đơn, thất bại... khi sếp của tôi, những đồng nghiệp của tôi ở đó nhận được những bài viết tôi cổ suý cho một nền GD-ĐT lành mạnh, cổ suý cho Dân Chủ, cổ suý cho một thay đổi tích cực sớm đến với dân tộc Việt Nam... họ lặng lẽ mang nộp công an.(!?) 

Nên bài viết vừa rồi của tôi "QUỐC THỔ TRẦM LUÂN DÂN TỘC LUỴ" đăng trên các trang mạng xã hội... là tiếng kêu khẩn thiết của tôi gửi đến lớp trẻ, gửi đến những người thầy…nhắc nhở họ thôi đừng sống vị kỷ, vô tâm, vô cảm nữa, hãy suy nghĩ nhiều hơn về những gì mà ông cha chúng ta đã làm, hãy biết đau nỗi đau vong quốc. Ngoài những trăn trở đó ra, tôi chẳng có một tham vọng gì khác. Tôi đã gia nhập thế hệ: "Tuổi già giọt lệ như sương / Hơi đâu ép lấy 2 hàng chứa chan"

Theo quy luật đào thải, thế hệ đó là thế hệ bỏ đi, nếu có khá lắm thì cũng chỉ là...

Những người giữ “Lửa”...

những viên gạch lót đường cho lứa trẻ băng lên... "Người Cầm Cờ " làm sao lại là những con người quá “Đát” như thế, làm sao có thể là tôi. Ông đã có lời thăm hỏi... thì tôi cũng có lời minh định như thế. Chào ông. Kính Thư”. 

Viết trong nhừng ngày siêu bão Rammasun tràn vào Biển Đông.

Hà Đông những ngày buồn tháng 7-2014

Nguyễn Thượng Long
(Nguyên giáo viên Địa Lý Hoà Bình (1970 – 1977) và Hà Tây
1978 – 2007. Nguyên Thanh Tra giáo dục kiêm nhiệm Hà Tây)



No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

🔥Lisa Pham Khai Dân Trí Ngày-20/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link