Kính nhờ các DĐ và các bằng hữu phổ biến bài dưới đây đến Giáo Viên Việt ngữ và PHHS để giúp quí vị đó cách dạy tiếng Việt & chữ Việt dễ mà học sinh và con em chúng ta mau biết đọc chữ Việt.
Cách Dạy Dễ Mà Học Sinh Mau Đọc Được Chữ Quốc Ngữ
Nguyễn Phước Đáng.
Giáo viên và Phụ Huynh học sinh chắc ai cũng muốn biết cách làm sao dạy dễ mà học sinh và con em của mình mau đọc được chữ quốc ngữ, tức chữ Việt chúng ta đang dùng.
Xin thưa, muốn được vậy thì giáo viên và PHHS phải thấu hiểu cách cấu tạo chữ Việt.
Tôi bỏ ra 6 năm để tìm hiểu, nghiên cứu chữ quốc ngữ theo cách nhìn hoàn toàn Việt Nam. Kết quả có thể tóm gọn một phần trong bài viết nầy:
I.- Vài định nghĩa:
1 - Chữ cái: còn gọi là mẫu tự, ký tự, con chữ, là những ký tự la-tinh a, b, c, d……
2 - Chữ lời, giới ngôn ngữ gọi là từ, là chữ ghi được 1 lời nói. Đó là một hay nhiều chữ cái ráp lại để ghi được 1 lời nói. Chữ Việt (quốc ngữ) có khoảng trên 6,000 từ đơn và 3 – 4 chục nghìn từ kép. Theo nhu cầu phát triển, người ta vẫn tiếp tục tạo thêm từ kép.
3 - Chữ gốc (ngữ căn) của chữ Việt là chữ chưa có dấu giọng. (đề nghị của tôi)
4 - dấu âm là những dấu thêm vào một số chữ cái la-tinh để tạo thêm chữ cái cho chữ cái quốc ngữ, ă, â, ơ, ô, ê, ư, đ.
5 - dấu giọng là những dấu đánh trên hay dưới chữ căn để tạo thêm chữ lời (từ)
6 - chữ ráp thanh là chữ có đánh dấu giọng sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng.
II.- Mẫu tự trong hệ thống chữ Việt.
Chữ Việt là loại chữ ghi âm, mượn mẫu tự la-tinh làm gốc, chế thêm một số chữ cái nữa, rồi thiết lập một bộ mẫu âm, đủ để theo những qui tắc nhất quán mà tạo ra những từ ghi lại tiếng nói của người Việt.
Vậy từ đơn Việt là 1 hoặc một tập hợp chữ cái ghi lại 1 tiếng nói của người Việt. Nhìn 1 từ (chữ lời) Việt người ta phát ra được 1 tiếng đúng với tiếng mà người viết muốn ghi lại.
Mượn mẫu tự la-tinh, nhưng người sáng tạo chữ quốc ngữ không lấy hết, mà bỏ bớt 4 chữ cái f, j, w và z, chỉ lấy 22 chữ cái gồm:
6 chữ cái nguyên âm a, e, i, o, u, y, và
16 chữ cái phụ âm b, c, d, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x.
Như vậy không đủ âm căn bản để ghi hết được tiếng nói Việt Nam.
Người ta bèn tìm cách chế biến thêm các chữ cái khác. Đầu tiên người ta chế biến thêm một chữ cái phụ âm, bằng cách thêm dấu âm, gạt đầu d để có thêm đ, rồi thêm râu, đội mũ cho một số chữ cái để có thêm một số chữ cái chánh âm nữa là: ă, â, ê, ô, ơ, ư.
Như vậy, đếm lại, ta thấy có tất cả 29 chữ cái, gồm:
12 chữ cái chánh âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y, và
17 chữ cái phụ âm: b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x.
[Chú thích:
Tôi không lấy ngữ âm học, xem cách phát âm của chữ cái, để xác định chữ cái nào là chánh âm, chữ cái nào là phụ âm, mà tôi quan sát vai trò chánh/phụ của chữ cái. “Chánh âm là âm phải có trong một chữ ghi được 1 tiếng nói. Có bao nhiêu chữ cái ráp lại mà thiếu một chánh âm thì ‘tổ hợp chữ cái’ đó cũng không tạo thành được 1 chữ, như định nghĩa ‘chữ lời’ nêu trên”. Qua khảo sát chữ quốc ngữ, chúng ta thấy, thiếu 1 trong 12 chữ cái a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y nầy thì có ráp bao nhiêu chữ cái khác vào cũng không tạo ra được 1 chữ viết tiếng Việt. Do đó, tôi gọi a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y là chánh âm. Trước kia gọi là nguyên âm, nay tôi gọi là “chánh âm” để ngược nghĩa với “phụ âm”
17 chữ cái phụ âm còn được gọi là tử âm, vì chúng không phát ra âm khi ráp với chánh âm, dù chính phụ âm định đoạt tiếng phát ra của một chữ. Thí dụ âm của chữ “ta” khác với âm của chữ “cha” là do phụ âm “t” khác phụ âm “ch”, chứ âm chính “a” giống nhau. Giáo sư Phạm Văn Hải còn gọi phụ âm là “âm kề”, ý của ông là phụ âm luôn luôn phải đứng kề chánh âm, hoặc trước hoặc sau, hoặc kề cả trước lẫn sau]
III.- Mẫu Âm (âm căn bản) trong hệ thống chữ Việt.
Trong quốc ngữ có 29 chữ cái, lý ra chỉ có 29 âm căn bản.
Nhưng 29 âm căn bản không đủ, nên người ta đã tìm cách tạo thêm âm mới, đủ để ghi lại lời nói của dân tộc Việt Nam. Người ta dùng đến biện pháp ghép 2 chữ cái lại để có thêm âm mới, ghép iê, uô, ươ để tạo thêm chánh âm (bán nguyên âm kép); ghép ch, gi, ng, nh, ph, qu, th, tr để tạo thêm phụ âm.
Do đó, quốc ngữ có tất cả 39 âm căn bản (q đứng một mình chưa là 1 một âm, không có vai trò gì trong quốc ngữ. Nó phải có u ráp vào mới là phụ âm qu, “quơ”) Phân tích ra như sau:
A.- Chánh âm: Có 15 chánh âm, gồm:
a. 10 nguyên âm: a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y
b. 2 bán nguyên âm đơn: ă, â.
c. 3 bán nguyên âm kép: iê, uô, ươ.
[Chú thích:
1) Gọi là nguyên âm, vì chúng có 4 chức năng tạo chữ: đứng một mình, đứng đầu, đứng giữa và đứng cuối chữ; gọi là bán nguyên âm, vì chúng chỉ có 2 chức năng tạo chữ, đứng đầu và đứng giữa chữ. Ă, â, iê, uô, ươ chỉ có 2 chức năng tạo chữ: ăn chắc, ân hận, uống nước, ước suông, yên tiếng. (chữ yên gốc là iên, nhưng tuân thủ qui tắc “iê đứng đầu chữ thì i đổi thành y”.Tất cả các chữ yểm (trợ), yết (kiến)…đều tuân theo qui tắc nầy).
2) Trước đây, những nhà ngữ học dùng từ “bán nguyên âm” để chỉ cái âm bị mất phân nửa của nguyên âm khi nguyên âm nầy ráp với nguyên âm kia. Thí dụ a ráp với i ra âm ai, người ta dùng ngữ âm học tây phương để phân biệt vai trò của a và của i trong âm ai. Người ta thấy a có đủ âm a, còn i chỉ có ½ âm i trong âm ai mới tạo ra. Thí dụ ngược lại, lấy âm i ráp với âm a, thì i có đủ âm i, còn a chỉ có ½ âm a. Thế là người ta phán “trong tổ hợp có 2 nguyên âm thì nguyên âm sau là bán nguyên âm”. Gặp trường hợp o ráp với a, với e để có âm oa, âm oe hoặc u ráp với ê, với y để có âm uê, âm uy, thì theo ngữ âm học, người ta thấy ngược lại, nguyên âm đầu là bán nguyên âm, nguyên âm sau là nguyên âm (o và u là bán nguyên âm, còn a, e, ê, y là nguyên âm). Những nghiên cứu như vậy làm rối trí mọi người. Cùng 1 chữ cái nguyên âm, mà khi thì là nguyên âm, khi lại là bán nguyên âm. Chỉ khi nó đứng một mình mới chắc nó là nguyên âm. (G/s Phạm Văn Hải còn gọi các bán nguyên âm theo cách nghiên cứu nầy là âm lướt)
3) Xưa kia thầy cô từ bậc tiểu học chỉ dạy tới 12 nguyên âm a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y, khi tôi xem xét lại chữ quốc ngữ, mới đọc thấy một bài của Giáo Sư Nguyễn Đình-Hoà cho biết iê, uô, ươ là nguyên âm kép. Tôi nhận xét thấy đây là một phát kiến mới, rất quan trọng cho việc nghiên cứu chữ quốc ngữ, trong phần cấu tạo của chữ quốc ngữ.]
B.- Phụ âm: Có 24 phụ âm, gồm (k đồng âm với c, nên kể là một. Tôi coi k là biến thể của c. Do vậy, tính theo âm thì mất đi 1 phụ âm, chỉ còn 24 phụ âm)
a. 15 phụ âm đơn: b, c (+k), d, đ, g (+gh), h, l, m, n, p, r, s, t, v, x (không có q)
b. 9 phụ âm kép: ch, gi, kh, ng (ngh), nh, ph, qu, th, tr.
Xét về mặt công dụng (hay chức năng) trong việc thành tạo chữ, thì 25 phụ âm chia làm 3 nhóm:
a. 17 phụ âm đầu, chỉ đứng đầu chữ thôi: b, d, đ, g, gi, h, k, kh, l, ph, qu, r, s, th, tr, v, x.
b. 1 phụ âm cuối, chỉ đứng cuối chữ thôi: p
c. 7 phụ âm lưỡng dụng, có 2 công dụng, đứng đầu và cuối chữ: c, ch, m, n, ng, nh, t .
Một số rất nhiều người không phân biệt được tên của mẫu tự với âm của mẫu tự đó, mà đã được qui ra mẫu âm, nên gây ra ngộ nhận chuyện phát âm theo VNCH hoặc theo VC.
IV.- Bảng đối chiếu tên mẫu tự và mẫu âm
Nhân dịp nầy tôi xin giải toả minh bạch vụ nầy qua bảng đối chiếu sau đây:
Số thứ tự | Chữ cái | Tên Chữ cái | Âm căn bản | Tên âm |
1 | a | A | a | A |
2 | ă | Á | ă | Á |
3 | â | Ớ | â | Ớ |
4 | b | Bê | b | Bơ |
5 | c | Xê | c, k | Cơ |
6 | ch | Xê-Hát | ch | Chơ |
7 | d | Dê | d | Dơ |
8 | đ | Đê | đ | Đơ |
9 | e | E | e | E |
10 | ê | Ê | ê | Ê |
11 | g | Giê | g, (gh) | Gơ |
12 | gi | Giê-I | gi | Giơ |
13 | h | Hát | h | Hơ |
14 | i | I | i | I |
15 | iê | I-ê | iê | I-ê |
16 | kh | Ca-hát | kh | Khơ |
17 | l | En-lờ | l | Lơ |
18 | m | Em-mờ | m | Mơ |
19 | n | En-nờ | n | Nơ |
20 | ng | En-nờ-Giê | ng, (ngh) | Ngơ |
21 | nh | En-nờ-Hát | nh | Nhơ |
22 | o | O | o | O |
23 | ô | Ô | ô | Ô |
24 | ơ | Ơ | ơ | Ơ |
25 | p | Pê | p | Pờ |
26 | ph | Pê- Hát | ph | Phơ |
27 | q | Cu | qu | Quơ |
28 | r | E-rờ | r | Rơ |
29 | s | Ết-sờ | s | Sơ |
30 | t | Tê | t | Tơ |
31 | th | Tê-hát | th | Thơ |
32 | tr | Tê-E-rờ | tr | Trơ |
33 | u | U | u | U |
34 | uô | U-ô | uô | U-ô |
35 | ư | Ư | ư | Ư |
36 | ươ | Ư-ơ | ươ | Ư-ơ |
37 | v | vê | v | Vơ |
38 | x | It-xờ | x | Xơ |
39 | y | Y dài | y | Y |
Chú thích:
1) Tất cả các chữ cái chánh âm tên sao thì âm cũng là vậy. Còn các chữ cái phụ âm có tên khác với âm của chúng
2) Đánh vần chính tả, đọc tên CHỮ CÁI. Đánh vần phát âm, đọc tên ÂM liền nhau để ra tiếng Việt mà chữ ghi lại.
V.- Cách tạo chữ Việt.
Tiếng Việt có trên 6,000 từ đơn (chữ đơn), trong đó có chưa đủ 60 từ do 1 âm tạo thành. Còn lại 6,000 từ đơn khác đều do 2 âm ráp lại.
Do đó nguyên tắc chủ đạo để thành tạo mỗi từ đơn tiếng Việt là HAI ÂM RÁP LẠI TẠO THÀNH MỘT ÂM MỚI. Đây là một nguyên tắc nhất quán, áp dụng để thành tạo cho tất cả từ đơn tiếng Việt, từ chữ đơn giản đến chữ phức tạp nhứt.
Ban đầu, người sáng tạo thiết lập ra 39 âm căn bản, để để dùng từng cập 2 âm ráp lại, mà tạo ra âm mới, tức tạo ra các từ đơn đơn giản, như phụ âm ráp với nguyên âm (ba, má, cô, chú, dì…); như chánh âm ráp với phụ âm (anh, em, ăn, uống…); như nguyên âm ráp với nguyên âm (ai, ia, oi, ôi, ua, uê, uy…)
Khi có một âm mới rồi, người ta có thể lấy một mẫu âm (nguyên âm hoặc phụ âm) ráp với âm mới đó mà tạo ra một âm mới khác, tức một từ mới khác nữa. Thí dụ: Có âm an, lấy phụ âm t ráp với âm an, sẽ có được âm tan, tức chữ (từ) tan = t+an. Có âm anh, lấy nguên âm o ráp với âm anh sẽ có được từ oanh = o+anh. Có âm ai, lấy phụ âm m ráp vào sẽ có từ mai = m+ai, hoặc lấy nguyên âm o ráp vào sẽ có từ oai = m+ai…
Với những từ phức tạp hơn, người ta lấy âm vần xuôi ráp với âm vần ngược sẽ tạo ra một từ mới.
Thí dụ:
Lấy âm vần xuôi kho ráp với âm vần ngược an sẽ có từ mới khoan = kho+an.
Lấy âm vần xuôi ngu ráp với âm vần ngược yên sẽ có từ mới nguyên = ngu+yên….
Cứ 2 âm ráp lại thì sẽ tạo ra một âm mới, tức tạo ra từ mới, chữ mới.
Cứ như vậy mà ta tạo được toàn bộ chữ đơn tiếng Việt.
Theo nghiên cứu của tôi, tôi phân chữ Việt ra làm 3 loại chữ. Có 12 cách tạo ra 3 loại chữ đó, từ đơn giản đến phức tạp, như sau:
1) chữ âm, tức chữ chỉ có một nguyên âm: à. ồ, ò, ó, o, í, ý, u, ù, ừ...
2) chữ vần hay chữ ráp âm, tức chữ do 2 mẫu âm ráp lại, trong đó phải có 1 chánh âm:
an ủi, ăn uống, yên ổn... (uống do bán nguyên âm kép uô ráp với phụ âm kép ng; yên do bán nguyên âm kép yê ráp với phụ âm n)
thủ thỉ, ta và chú, cô, dì,... (thỉ do phụ âm kép th ráp với nguyên âm i; chú do phụ âm kép ch ráp với nguyên âm u)
3) chữ ráp vần, nghĩa là đã có một vần rồi, đem vần đó ráp với một mẫu âm nữa hoặc ráp với một vần khác:
thỉnh thoảng vang lên tiếng chim oanh hót thảnh thót.
Thỉnh: vần inh ráp với phụ âm th phía trước
Thoảng: vần xuôi tho ráp với vần ngược ang (2 vần ráp với nhau)
Tiếng: vần iêng ráp với phụ âm t phía trước.
Oanh: vần anh ráp với nguyên âm o phía trước.
Theo ông Đòan Xuân, từ đơn tiếng Việt có chừng trên 6.000.
Nhiều như vậy, nhưng tất cả trên 6.000 chữ lời đơn tiếng Việt chỉ nằm trong 3 loại chữ đó mà thôi.
VI.- Áp dụng nghiên cứu vào việc dạy vỡ lòng tiếng Việt:
A) Đánh vần: Day tiếng Việt có cần dạy đánh vần không? Xin trả lời ngay là cần.
Có hai cách đánh vần:
1) Đánh vần phát âm dạy trong thời kỳ học sinh học vỡ lòng cho đến khi chúng đọc thông được hết chữ Việt. Từ xưa tới nay có rất nhiều cách đánh vần phát âm. Áp dụng cách nghiên cứu “hai âm ráp lại thành một âm”, như trình bày ở trên, tạo ra cách đánh vần tân tiến nhất và dễ nhất để phát ra âm chuẩn nhất. Đó là ráp 2 âm liền lại với nhau. Nên nhớ phụ âm là tử âm, nghĩa là không phát thành tiếng khi đánh vần, nghĩa là sửa soạn đọc ra âm, nhưng chưa ta tiếng thì ráp ngay chánh âm vào. Thí dụ, đánh vần chữ ba là ngậm miệng lại, chớm phát ra tiếng bơ, nhưng chưa ra tiếng bơ thì ráp ngay âm a vào thì đương nhiên ra ngay chữ tiếng ba. Đánh vần chữ mô là ngậm miệng lại, sửa soạn phát ra tiếng mơ, nhưng chưa ra tiếng mơ thì ráp âm ô vào thì đương nhiên ra tiếng mô. Dạy đánh vần như vậy chừng 5 – 10 chữ vần xuôi, thì học sinh sẽ tự suy ra và đọc được tất cả chữ vần xuôi. Tự nhiên chúng sẽ bỏ đánh vần mà không hay. Tôi cho rằng dạy 1 mà học sinh biết 10 là như vậy. Chúng rất mau đọc được chữ Việt.
Riêng vần ngược thì hơi khó hơn một chút, vì đọc liền nguyên âm với phụ âm (không ra tiếng) có vần đương nhiên ra được tiếng đúng như muốn, nhưng có vần không đương nhiên ra tiếng như mình muốn, mà mình phải áp đặt ra một âm như mình muốn.. Thí dụ, Đánh vần các chữ am, em, om, ôm…(nguyên âm ráp với phụ âm m, n) thì phát âm ra tiếng nguyên âm rồi ráp vào phụ âm (không phát ra tiếng) thì đương nhiên sẽ ra tiếng am, em, om, ôm…(an, en, on, ôn). Đánh vần các chữ ac, ach, ap, anh… phát ra tiếng nguyên âm rồi ráp với tiếng phụ âm dợm phát ra thì không chắc ra đúng âm ac, ach, ap, anh…, mà mình phải buộc học sinh phát ra tiếng mình muốn, ác, ách, áp, anh…
Vần ngược với bán nguyên âm ă, â, nhứt là bán nguyên âm kép iê (yê), uô, ươ càng khó hơn. Đánh vần không đương nhiên ra tiếng mình muốn, mà phải áp đặt ra tiếng mình muốn.
Còn vần hợp âm ai, ia, oi, ơi, ôi, ui, ưi…thì dạy đánh vần là đọc nguyên âm đầu rõ, nguyên âm sau đọc lướt thì gần như đương nhiên ra âm mình uốn. Một số ít vần hoà âm oa, oe, uê, uy, thì ngược lại, đọc lướt nguyên âm đầu rồi đọc rõ nguyên âm sau thì đương nhiên ra âm trộn lộn 2 nguyên âm tạo ra vần đó.
2) Đánh vần chính tả là đọc tên chữ cái từ trái sang phải, để học sinh viết đúng chính tả. Gặp chữ dấu hỏi dấu ngã phải đọc tên dấu giọng nữa. Gặp các phụ âm kép phải đọc rời ra từng chữ cái, gh không đọc gơ, mà đọc rời ra là giê, hát; ngh đọc rời ra en-nơ, giê, hát. Thí dụ. đánh vần chữ nguyễn là đọc ra tên từng chữ cái có trong chữ là en-nơ, giê, u, y dài, ê, en-nơ ngã = N,G,U,Y,Ê,N, ngã.
Áp dụng nghiên cứu “hai âm ráp lại tạo ra âm mới”, thì khỏi dạy theo lối cũ 31 vần xoắn môi chúm miệng sau đây: OAC, OACH, OAI, OAM, OAN, OANG, OANH, OAT, OAY, OĂC, OĂN, OĂNG, OĂT, UÂC, UÂN, UÂNG, UÂT, UÂY, OEC, OEO, OEN, OENG, OET, UÊCH, UÊNH, UYA, UYÊN, UYÊT, UYNH, UYT, UYU.
Những vần nầy rất khó dạy, trẻ con học cũng rất khó, phát âm trật mãi, không chuẩn. Gọi là vần, nhưng thực ra không phải là vần, mà phải chính danh gọi là “chữ ráp vần” (nguyên âm ráp với vần ngược, nguyên âm ráp với vần hợp âm):
OAI = O+AI (OAI do nguyên âm O ráp với vần hợp âm AI);
OAN = O+AN (OAN do nguyên âm O ráp với vần ngược AN);
UYÊN = U+YÊN (UYÊN do nguyên âm U ráp với vần ngược YÊN).
Cứ phân tích như vậy thì ta sẽ xoá hết những vần phức tạp rất khó dạy, mà chỉ cần dạy 4 loại vần rất đơn giản, dễ dạy, dễ học mà thôi. Bốn vần đơn giản trong chữ Việt là: vần xuôi, vần ngược, vần hợp âm, vần hoà âm (như trình bày ở trên).
Học xong 4 loại vần đó rồi, thầy cô giáo chỉ cần chỉ cách cho học trò cắt chia chữ hoà âm (chữ có 2 vần) ra làm 2 phần, rồi đọc vần xuôi liền với vần ngược thì đương nhiên ra tiếng của chữ đó. Thầy cô giáo không cần sửa gì cả. Học sinh không cần uốn vặn đôi môi, mà cũng phát ra được tiếng rất đúng giọng chuẩn. Sau đó, học sinh gặp một chữ lạ, phức tạp tới đâu, chúng cũng phân tích ra được thành 2 âm để đọc ráp 2 âm đó lại để phát ra tiếng của chữ đó, đọc đúng giọng chuẩn và viết đúng chính tả.
Những chữ loại nầy bắt đầu bằng nguyên âm o hay u, hoặc bắt đầu bằng vần xuôi có o hay vần xuôi có u: (Gió) thoảng, thuyền (lướt sóng). Tho+ảng, thu+yền.
Dạy và học theo cách nầy chừng 5 – 7 chữ thì học sinh sẽ tự học được những chữ mà chúng chưa từng được dạy, nghĩa là chúng sẽ đọc được những chữ chưa từng thấy trước đó bao giờ. Tôi gọi là học một biết mười.
Nhẹ dạy phần nầy là rất nhẹ cho giáo viên lớp Một, cũng rất nhẹ cho học sinh trong việc tập đọc đúng giọng chuẩn. Sau nầy chúng lại giỏi chính tả về các chữ phức tạp nầy.
Tôi từng đọc thấy chừng 20 lần nhà văn, nhà báo, vi hữu (netter) viết sai chữ huênh hoang, khuếch đại, rỗng tuếch. Những vị đó viết huyênh hoang, khuyếch đại, rỗng tuyếch. Nếu lúc bé được dạy phân tích chữ 2 vần thì chắc không sai các loại chữ nầy. Chữ Việt không có vần ngược yêch, yênh, mà chỉ có vần ngược êch, ênh. Các vần xuôi có u như hu, khu, tu ráp với vần ngược ếch, ênh sẽ ra hu+ênh = huênh, khu+ếch = khuếch, tu+ếch = tuếch...
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment