MƯỜI
TỘI ÁC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
BẠCH
THƯ
Tố
Cáo Tội Ác của Đảng Cộng Sản
Việt
Nam đối với Dân Tộc
và
Tổ Quốc ta trong gần nửa thế kỷ
cầm
quyền (1945-1992)
Lịch
sử hơn 4.000 năm của Dân Tộc ta chỉ có một chủ đích là giành lại và gìn giữ lấy
quyền sống để làm Người Việt Nam.
Trước
tham vọng xâm lăng và dã tâm thống trị của mọi loại đế quốc, Dân Tộc ta đã phải
kiên cường tranh đấu để được sống-còn-nối-tiếp-tiến-hóa một cách tự chủ, theo
những tiêu chuẩn đạo đức cao đẹp, những khuôn mẫu Người tuyệt vời của Tổ Tiên,
kết tinh thành Lý Tưởng Việt.
Tranh
đấu để Là Người đã khó. Tranh đấu để Làm Người trong điều kiện và hoàn cảnh
Việt Nam lại khó hơn gấp trăm lần!
* * *
Tổ
Quốc ta giầu đẹp với tiền rừng bạc bể.
Đó
là lý do trực tiếp của “một ngàn lẻ năm mươi lăm năm” Dân Tộc
ta đã phải quằn quại dưới gông ách đô hộ diệt chủng của phong kiến phương Bắc,
xuống biển mò ngọc trai, vớt san hô, lên rừng săn sừng tê, kiếm ngà voi.
Tổ
Quốc ta giầu và đẹp với đồng ruộng phì nhiêu, hầm mỏ quí giá.
Đó
cũng là lý do trực tiếp của “chín mươi lăm năm” Dân Tộc ta
phải rên xiết trong ngục tù áp chế bóc lột của thực dân phương Tây và phải
phiêu dạt đi phu trồng đồn điền, làm cu li khai thác mỏ, xa cách quê hương mồ
mả gia tiên.
Ngoài
sự giầu và đẹp, Việt Nam còn là một vị trí chiến lược cực kỳ trọng yếu ở Đông
Nam Á châu mà kẻ nào chiếm được có thể gây ảnh hưởng suốt vùng làm lệch cán cân
quyền lực thế giới. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến được coi là
dài nhất thế kỷ (1945-1975) và khó hiểu vì tính chất phức tạp của những âm mưu
quốc tế tranh giành quyền lợi với những lừa dối, che đậy để biến Việt Nam hết
là Tiền Đồn của Thế Giới Tự Do lại làm Thành Đồng Lũy Thép cho Xã Hội Chủ
Nghĩa. Kết quả là đất nước bị cầy sới tan hoang với 17 triệu tấn bom đạn, dân
tộc bị tổn thất với hơn 17 triệu người, hàng triệu người thương tật, xã hội đảo
điên, gia đình đổ vỡ, nòi giống suy nhược, nhân tâm ly tán.
Lỗi
tại ai?
Tại
những phá hoại thâm độc của địch thù?
Đúng!
Tại
những giúp đỡ thiếu thực tâm của đồng minh?
Đúng!
Nhưng
còn tại những ai nữa, khi qui luật chủ yếu của chính trị khẳng định nguyên tắc: “Ta
là chính. Bạn và Thù đều là tùy phụ”.
Dưới
con mắt công chính xét xử của lịch sử trong việc qui công và hạch tội, giới
lãnh đạo đất nước phải hoàn toàn liên đới chịu trách nhiệm. Trong trường hợp này,
đó là Đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN), đó là những lãnh tụ như Hồ Chí Minh,
Trường Chinh, Lê Duẩn...
* * *
Trên
quan điểm đấu tranh của Mặt Trận Cách Mạng Hưng Phục Việt, cuộc chiến Việt Nam
là sự đụng chạm giữa ba thế lực qua 3 giai đoạn gồm:
–
Những người Quốc Gia chân chính, tôn thờ Lý Tưởng Việt, phục vụ quyền lợi của
nước nòi Việt.
–
Đế quốc thực dân Pháp và sau 1954 là cực quyền Mỹ.
–
Đảng Cộng Sản Việt Nam, công cụ của Đệ Tam Quốc Tế chịu ảnh hưởng của Nga lẫn
Tầu.
1.
Giai Đoạn I (1945-1954): Thân phận cô nghiệt của người Quốc Gia trước thủ đoạn
triệt hạ tàn độc của Cộng Sản
Vì
Lý Tưởng Việt, vì lập trường Dân Tộc, người Quốc Gia đã không chịu thỏa hiệp
nên trở thành kẻ thù chung phải tiêu diệt của cả Thực Dân lẫn Cộng Sản.
Thực
Dân tiêu diệt người Quốc Gia vì lý do trực tiếp phải bảo vệ quyền lợi thuộc địa
để làm giầu mạnh mẫu quốc.
Cộng
Sản tàn sát người Quốc Gia theo sách lược chung của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản để
chuẩn bị cướp chính quyền áp đặt chế độ vô sản chuyên chính.
1.1.
Sự cộng tác giữa Thực Dân và Cộng Sản
Từ
những ngày đầu của thập niên 20, CSVN qua sự móc nối của CS Pháp đã làm việc
cho nhà nước bảo hộ bằng cách mật báo cho bắt bỏ tù hay thủ tiêu những phần tử
trung kiên của các chính đảng Quốc Gia, đối thủ đáng sợ của CS khi thời cơ tới cùng
bước ra tranh thủ lãnh đạo quần chúng.
Vị
lãnh đạo lão thành và khả kính của phong trào Đông Du, Phan Bội Châu đã bị Hồ
Chí Minh bán đứng cho thực dân Pháp lấy mười vạn đồng Đông Dương ở ranh tô giới
Thượng Hải, Trung Hoa vào ngày 10/6/1925.
Vụ
bắn chết tên mộ phu đồn điền Bazin nổi tiếng tàn ác tại Hà Nội vào năm 1929 dẫn
đến sự vỡ lở nhiều cơ sở bí mật của Việt Nam Quốc Dân Đảng và cái chết oanh
liệt của Đảng Trưởng Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí tại Yên Bái ngày
17/6/1930, đều là những sự kiện điển hình về thủ đoạn “mượn địch giết thù”.
Với
mặt nạ “yêu nước thương nòi”, với chiêu bài “diệt phát xít
Nhật, chống thực dân Pháp”, với hành động khôn khéo hô hào “Đại
Đoàn Kết, Đại Thành Công” và việc tự động giải tán Đảng Cộng Sản Đông
Dương vào ngày 11/11/1945, người CS đã nắm vững được chính quyền và lợi dụng
được lòng yêu nước nhiệt thành của nhiều tầng lớp nhân dân đang khao khát Độc
Lập và Tự Do.
Ngày
6/3/1946, chính phủ Hồ Chí Minh ký Hiệp Định Sơ Bộ hợp thức hóa việc trở lại VN
của thực dân bằng sự công nhận quyền đóng quân của Pháp trên toàn lãnh thổ Việt
Nam.
Ngày
15/5/1946, quân Pháp từ Hải Phòng lên, tiến vào Hà Nội, được chính phủ Hồ Chí
Minh long trọng đón tiếp với cờ xí rợp trời, 2 Mặt Trận Cách Mạng Hưng Phục
Việt nhưng lừa bịp nhân dân là mừng sinh nhật Hồ Chủ Tịch (19/5)!
Đêm
14/9/1946, tại tư thất Tổng Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại — tên mới của Bộ Thuộc
Địa — Hồ Chí Minh đã ký Tạm Ước tái cam kết việc tôn trọng quyền lợi của thực
dân qua Hiệp Định Sơ Bộ 6/3/1946.
Biết
được những sự kiện trên, dân chúng đã xôn xao bất mãn, mất tin tưởng vào chính
phủ Hồ Chí Minh. Các chính đảng Quốc Gia đồng loạt đứng lên đả kích và nhớ lại
một cách đầy oán hận cái quá khứ tráo trở của người CS đã cộng tác với thực dân
Pháp để triệt hạ người Quốc Gia:
“Đánh
tan cái lũ bất nhân
Đánh
tan cái lũ rước quân Pháp về
Cùng
nhau hẹn một lời thề
Đã
làm cách mạng chẳng hề sợ chi
Nhớ
lời – mạnh bước ra đi
Diệt
quân Cộng Sản, bõ khi cực lòng!”
1.2.
Công Cuộc Kháng Chiến của Toàn Dân bị đặt dưới sự Lãnh Đạo của Đảng Cộng Sản
Việt Nam
Tuy
nhiên, khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào đêm 19/12/1946, toàn thể Quốc Dân
đã đặt lý tưởng Tổ Quốc Trên Hết để chấp nhận gian khổ đi vào
trường kỳ kháng chiến bằng đại giá của hy sinh: mồ hôi, máu xương và mạng sống
để làm nghĩa vụ yêu nước!
1.2.1.
Chiến Dịch Phản Đế
Với
hào quang thần thánh của kháng chiến, với khẩu hiệu “Cứu Quốc”,
bằng quyền uy lãnh đạo tối cao, đảng CS đề ra phương châm “Phản Đế” – chống đế
quốc thực dân Pháp – nhưng trong thực tế đã dùng chiến tranh như một phương
tiện hữu hiệu để thực hiện mục tiêu chiến thuật: Tiêu diệt mọi chính đảng Quốc
Gia và hoàn tất giai đoạn I của mục tiêu chiến lược: “bần cùng hóa nhân dân” để
chuẩn bị áp đặt chế độ vô sản chuyên chính qua thủ đoạn cưỡng bách di tản để
phá sạch, đốt sạch tạo cảnh vườn hoang, nhà trống.
Vì
thất thế, người Quốc Gia chân chính bị dồn vào một tình thế khó xử.
Nếu
chống cộng để lột mặt nạ giả nhân nghĩa của chúng tất yếu sẽ bị đồng bào trong
khí thế sôi sục căm hờn chống ngoại xâm lên án là “Việt gian” gây chia rẽ làm
lợi cho kẻ thù, những tội danh cực kỳ sỉ nhục đối với những người đã từng lao
vào đấu tranh, dâng hiến đời mình cho lý tưởng Quốc Gia Dân Tộc!
Nếu
chống Pháp để thực hiện ước mơ tự chủ, truyền thống của dân tộc, tất yếu phải
chấp nhận sự lãnh đạo của chính phủ Hồ Chí Minh, và hợp tác với người CS là một
việc cực kỳ nguy hiểm mà giới có kinh nghiệm đấu tranh đã từng nếm trải qua
xương máu hy sinh của các đồng chí hay của chính bản thân.
Liên
hiệp, cộng tác với CS chỉ có 2 điều có thể xẩy ra: một là tự lột xác để hóa thành
đảng viên CS, coi lý tưởng Quốc Gia Dân Tộc như những chiêu bài có tính chất
giai đoạn dùng để thực hiện sách lược bành trướng của Đệ Tam Quốc Tế CS. Hai là
bị lợi dụng một cách tàn nhẫn, làm con chốt thí lót đường, hoặc thâm độc hơn bị
đem ra xét xử trước tòa án nhân dân với những tội danh mơ hồ, ngụy tạo như “Việt
gian”, “gián điệp”, “hủ hoá” để bêu xấu hạ nhục cá nhân và làm mất uy
tín chung của người Quốc Gia rồi có lý do giết đi trừ hậu họa!
Người
Cộng Sản đã giết Đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo.
Người
Cộng Sản đã giết nhà văn Khái Hưng, Đại Việt Dân Chính Đảng.
Người
Cộng Sản đã giết nhà văn Nhượng Tống, Việt Nam Quốc Dân Đảng.
Người
Cộng Sản đã giết Trương Tử Anh, lãnh tụ Đại Việt Đảng.
Người
Cộng Sản đã giết Trương Anh Tự, lãnh tụ Việt Nam Dân Tộc Đảng, và đã giết cả
trăm ngàn đảng viên các chính đảng Quốc Gia dưới nhiều hình thức như ám sát,
bắt bớ, tù đày trong lao động khổ sai, trong đói rét bệnh tật, trong tra khảo
đòn thù... Riêng Việt Nam Dân Tộc Đảng đã bị tàn sát cả vạn người khi CS điều
đại binh triệt hạ vùng hậu cứ an toàn thuộc Thanh Hóa, vì nội vụ quá lớn không
thể bưng bít nên chính phủ Hồ Chí Minh đã phải tổ chức “Toà Án Đặc Biệt” để xét
xử ở 3 nơi thị uy với kết quả: Nông Cống (Thanh Hóa) 14 án tử hình, Phúc Nhạc
(Ninh Bình) 13 án tử hình, Tân Lý (Nam Định) 13 án tử hình.
1.2.2.
Chiến Dịch Phản Phong
Sau
khi Mao Trạch Đông thống nhất Hoa Lục thành lập chế độ Cộng Hòa Nhân Dân vào
ngày 1/10/1949, người CSVN cũng đã vứt bỏ mặt nạ “Quốc Gia Dân Tộc” để lộ chân
tướng Đệ Tam Quốc Tế của mình.
Ngày
3/3/1951, đảng CSVN được chính thức tái lập với danh xưng Đảng Lao Động VN và
công khai phát động chiến dịch học tập đường lối mới qua khẩu hiệu Phản
Phong – chống Phong Kiến – đi đôi với việc cải tổ cơ cấu và thay đổi
nhân sự hành chánh và các cấp chỉ huy trong quân đội. Mục tiêu của Phản Phong
được đề cao hơn cả mục tiêu Phản Đế của những ngày đầuKháng Chiến.
Phản
Phong là xóa bỏ những tàn tích phong kiến, lạc hậu trong đời sống của nhân dân
một cách triệt để trong tư tưởng, trong ngôn từ, trong lề thói sinh hoạt hàng
ngày. Thực chất đây là một cuộc đánh phá có kế hoạch nền tảng văn hóa Việt,
nhằm thay thế bằng một nền văn hóa lai căng phi nhân, chủ trương xóa bỏ những
ràng buộc nhân luân, những khuôn mẫu sống tuyệt vời hòa hài tình nghĩa của
truyền thống dân tộc qua việc quí trọng gia đình, thờ cúng tổ tiên, yêu thương
Tổ Quốc.
Chiến
dịch Phản Phong nhằm thực thi chủ trương “giai cấp đấu tranh” của
Đệ Tam Quốc Tế. Thủ đoạn này cũng tương tự nhưng hiểm độc, hơn xa chính sách “chia
để trị” mà đế quốc thực dân Pháp đã từng áp dụng trong việc phân cắt
Tổ Quốc ta ra làm ba miền với ba chế độ hành chánh và tư pháp khác nhau như
những quốc gia riêng biệt, chia rẽ dân tộc ta thành những giai cấp đối nghịch
nhau vì quyền lợi bất đồng và tương phản. Từ đó đi đến chính kiến bất đồng,
nhân tâm ly tán..., những trở ngại to lớn khó vượt qua để kết lực, thống hợp
sức người, sức của mưu tính đại sự. Chiến dịch Phản Phong gồm 5 giai đoạn:
1.2.2.1.
Thuế Nông Nghiệp
Nhằm
mục đích vét hết tiền bạc dự trữ của nhân dân biến họ thành giai cấp vô sản và
tạo ra một xã hội nghèo, chủ yếu chỉ có những người đem sức lao động ra làm cho
“tập thể”, cho “nhân dân”, cho “hợp tác xã” để ăn công! Đây là thứ thuế lũy
tiến đánh vào số thu hoạch của phần ruộng cầy với tỷ số từ 5% đến 45% và thêm
một loại thuế phụ thu bằng 15% của số thuế nông nghiệp này, và hai thứ gộp lại
đóng một lúc cho chính phủ.
Cái
dã man của người CS là không thể điều tra về thu hoạch lợi tức thực tế để đánh
thuế mà chỉ ước định theo nguyên tắc do đảng đề ra rồi bắt dân chúng “bình”. Và
lợi tức bao giờ cũng phải cao hơn thực tế vì diện tích ruộng được nới rộng hơn
và số thu hoạch cũng được nâng lên cao do sự tố giác của những bà con chòm xóm
hay các tá điền được cán bộ móc nối trước. Và sự cáo gian này được công nhận
với định đề “nhân dân không thể sai lầm”!
Ngoài
ra chiến dịch thâu thuế nông nghiệp và công thương nghiệp còn là một biện pháp
an ninh làm cho người dân thành dễ bảo, dễ sai, không có điều kiện để nổi loạn
vì không có lương thực dự trữ!
1.2.2.2.
Đấu Chính Trị
Đây
là cuộc khủng bố chính trị nhằm thị uy với dân chúng và thanh trừng những phần
tử đã theo kháng chiến chống Pháp nhưng bị tình nghi là không chấp nhận chế độ
CS, hoặc lập trường lưng chừng, không rõ ràng. Với người CS thì “lưng
chừng là phản động”!
Vì
thuế quá cao, dân không đủ khả năng đóng. Người thiếu thuế được mang ra trước
hội nghị để tra khảo hầu tìm ra ai là người xúi họ không đóng thuế cho chính
phủ. Vì bị đánh quá đau, họ đã làm theo ý cán bộ, khai tên những người cán bộ
muốn bắt.
Các
phương pháp tra tấn điển hình thường được áp dụng:
–
Nạn nhân phải quì, hai tay nâng một thúng 4 Mặt Trận Cách Mạng Hưng Phục Việt
đá đội trên đầu.
–
Nạn nhân bị treo ngược đầu, một sợi dây cột hai chân kéo cao qua chiếc xà
ngang, hoặc trói giật hai cánh khủy rồi luồn dây treo lên.
–
Cuốn giẻ tẩm dầu vào hai ngón tay cái rồi đốt.
–
Nạn nhân bị bỏ rọ dìm xuống nước vài phút cho sặc rồi mang lên hỏi tội.
Trung
bình trong vụ đấu chính trị, mỗi xã có từ 3 đến 5 người bị đánh chết hoặc quá
uất ức nên tự tử. Điển hình là Đặng Văn Hướng, một Bộ Trưởng trong chính phủ Hồ
Chí Minh bị đem ra “đấu” khi về thăm nhà. Đặng Văn Hướng bị đánh đau nhưng
người anh bị đánh chết, tuy nhiên vì quá nhục nhã nên hai vợ chồng đã thắt cổ
tự tử. Bộ Trưởng Đặng Văn Hướng còn là phụ thân của đại tá Đặng Văn Việt, người
anh hùng đường số 4, đã thắng quân Pháp ở trận Cao Bằng - Lạng Sơn.
Vì
tính chất tàn bạo của cuộc đấu chính trị do đảng phát động đã gây kinh hoàng
trong dân chúng, tuy chiến dịch chỉ kéo dài có nửa tháng mà đã tạo ra biết bao
tang tóc đau thương và những ảnh hưởng không tốt, đến nỗi Hồ Chí Minh phải đích
thân viết thư xin lỗi đồng bào.
Tuy
nhiên, một tháng sau khi Hồ Chí Minh khóc và xin lỗi đồng bào, đảng CS vẫn tiếp
tục gửi đoàn cán bộ đặc biệt vào Liên Khu V để tiếp tục kế hoạch đã định với sự
hỗ trợ của đoàn cố vấn Trung Cộng. Và mỗi tỉnh đều thành lập một toà án quân sự
để xét xử những người bị tố là “phản động”, “Việt gian” qua vụ
đấu chính trị và phải gửi lên trung ương một danh sách những tên tội phạm. Mỗi
danh sách đều có những thành phần điển hình: một địa chủ giầu nhất vùng, một
Thượng Tọa hay Đại Đức, một nhà Nho hay xuất thân khoa cử, một cựu quan lại,
một nhà tư sản mại bản, thương gia.
1.2.2.3.
Chiến Dịch Giảm Tô
Đảng
cho cán bộ sống theo chính sách “tam cùng”, cùng làm, cùng ở, cùng
ăn với một bần cố nông được chọn lựa trước để mua chuộc và huấn luyện anh ta
làm theo đường lối được chỉ định là tố cáo địa chủ đã gian ác không chịu giảm
tô 25% theo lịnh của chính phủ ban hành. Thực sự, việc tố cáo của tá điền chỉ
là cái cớ để cán bộ có thể qui định số nợ mà địa chủ phải trả lại, thường là
trên giá trị của toàn thể tài sản với mục đích, cướp sạch, vét sạch làm cho
giới địa chủ trắng tay. Để thực hiện được mục đích trên, đảng đã dùng đủ mọi
thủ đoạn tàn nhẫn đấu tố địa chủ và hành hạ cả những người liên hệ như vợ con,
dù là trẻ thơ còn bú mẹ để mẹ bị đau vì vú căng sữa, con bị khát vì đói sữa
trong chính sách cô lập địa chủ!
Cũng
như các chiến dịch khác, số án tử hình đã được ấn định trước cho từng xã nên
tiêu chuẩn qui định địa chủ rất là co dãn tùy địa phương mà cán bộ có thể nâng
lên hay hạ xuống trong mục đích tiêu diệt giai cấp địa chủ!
Tuy
mục đích của chiến dịch Giảm Tô chỉ là đợt thử thách chuẩn bị cho chiến dịch kế
tiếp, nhưng mức độ tàn bạo đã đạt tới mức kinh hoàng!
1.2.2.4.
Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất Đợt I
Nếu
chiến dịch Giảm Tô chỉ nhằm tiêu diệt một thiểu số những người giầu nhất và
phản động nhất trong giới địa chủ thì chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất nhằm tiêu
diệt toàn thể giai cấp địa chủ, kẻ thù số một của chế độ. Do đó mức độ kinh
hoàng của nó đã vượt xa chiến dịch Giảm Tô, với số án tử hình được qui định tối
thiểu là 5 mạng cho một xã! Và số người đi tù cũng năm lần nhiều hơn.
Với
chiến dịch này, đảng CS đã dứt khoát gạt bỏ những đồng minh giai đoạn, kể cả
những đảng viên trung kiên đã theo mình từ những ngày đầu khi cướp được chính
quyền nhưng vì thuộc thành phần giai cấp phú nông, địa chủ không được đảng tín
nhiệm như các đảng viên thuộc giai cấp bần cố nông, mới được kết nạp qua các
chiến dịch đảng đã đề ra, theo đúng lập trường vô sản của đấu tranh giai cấp mà
người CS chủ trương.
Tuy
nhiên, đảng CS đã ra lệnh tạm ngưng chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất vào lúc Hiệp
Định Genève được ký kết chia đôi VN tại vĩ tuyến 17 và có cuộc di cư vĩ đại của
gần một triệu người từ miền Bắc vào Nam trong thời hạn 300 ngày.
Lý
do tạm ngưng thi hành chiến dịch này để có đủ nhân sự canh chừng và ngăn cản
lớp sóng người bỏ tất cả chạy lấy thân ra khỏi vòng kiềm toả của CS vào sống
trong chế độ Tự Do ở miền Nam. Vì thờ ơ, vì thiên vị, vì thiếu nhân sự..., ủy
Hội Quốc Tế đã không làm tròn nhiệm vụ giúp người dân miền Bắc chọn lựa chế độ.
Số người này có thể kể là hàng triệu, nhất là sau khi đã trải qua những kinh
nghiệm hãi hùng của những buổi đấu tố, kiểm thảo. Họ đã lỡ một cơ hội và mất
trọn một cuộc đời và đành coi đó là định mệnh:
Khi
số phận buộc ai là kẻ sống
Ở
cái phần chó má của quê hương
Thì
thủy chung duy chỉ gã bạn đường
Là
bóng tối lao tù theo kẻ ấy.
(Khi
Số Phận..., 1962, trích trong Tiếng Vọng
Từ Đáy Vực, Vô Danh)
1.2.2.5.
Giết Thương Phế Binh
Hiệp
Định Genève là kết quả trực tiếp của trận Điện Biên Phủ sau khi quân Pháp đồn
trú tại đây đã đầu hàng ngày 7/5/1954. Nhưng để thắng địch trên bàn hội nghị
thì số lượng máu người Việt đổ ra trên khắp các chiến trường không phải là nhỏ.
Biết được đại giá của máu là thành công, khả năng của máu là vô biên, có thể
san bằng những ưu thế của địch trên mọi lãnh vực thiên thời, địa lợi, nhân hòa,
nên người CS thường phung phí máu xương của nhân dân, của chiến sĩ, của đảng
viên, đồng chí. Đẫm máu là đặc tính của CS trong chiến thuật biển người, trong
phương pháp đấu tranh bạo động, trong những cuộc thanh trừng nội bộ. Võ Nguyên
Giáp đã từng tuyên bố: “Nếu phải hy sinh 2/3 dân số để giành lại Tổ
Quốc trong tay ngoại bang thì ta cũng làm!” và Võ Nguyên Giáp đã thành
danh sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Nhưng các anh hùng thương phế binh đã được
đãi ngộ ra sao? Với tấm thân tàn ma dại, mắt mù, tay cụt, chân què, họ sẽ làm
gì để sống?! Để trốn trách nhiệm, đảng đã bí mật quyết định thủ tiêu các thương
binh có mức độ tàn phế cao bằng cách mang ra biển đổ và giam giữ số còn lại với
mức độ tàn phế thấp tại các trại an dưỡng được thiết lập ở những vùng rừng
thiêng nước độc để họ chết dần mòn trong bệnh tật, đói rét xa khuất loài người.
2.
Giai Đoạn II (1954-1975): Sự đối lực giữa đế quốc Cộng Sản và cực quyền Mỹ tại
haimiền Bắc và Nam ViệtNam
Với
Hiệp Định Genève, Việt Nam bị chia đôi và trở thành hai quốc gia với hai chế độ
khác biệt. Miền Bắc, thể chế Dân Chủ Cộng Hòa làm thành đồng lũy thép cho khối
CS và miền Nam, thể chế Cộng Hòa, làm tiền đồn chống cộng cho thế giới Tự Do.
2.1.
Miền Bắc
Sau
khi kỳ hạn 300 ngày chấm dứt, chuyến tầu di cư cuối cùng rời Hải Phòng cũng là
lúc chính quyền Hà Nội thay đổi thái độ đối với nhân dân bằng cách cho tiếp tục
chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất vì nay đảng đã quay được tấm lưới thép chặn mọi
lối thoát của những người muốn trốn chạy chế độ.
2.1.1.
Chiến Dịch Cải Cách Ruộng Đất Đợt II
Riêng
tại vùng đồng bằng sông Nhị, nhữngvùng thuộc sự kiểm soát của “địch” trước
1954, cả hai chiến dịch Giảm Tô và Cải Cách Ruộng Đất được nhập một để theo kịp
các nơi khác, do đó sự tàn bạo, khủng khiếp phải gấp hai lần hơn. Mọi người đều
phải học tập cách phân định nhân dân trong làng mình thành nhiều giai cấp chiếu
theo “bản điều lệ phân định thành phần giai cấp ở nông thôn” được
chính phủ ban hành bằng một nghị định, đồng thời đảng cũng đưa ra một khẩu hiệu “dựa
hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông
để tiêu diệt địa chủ” để làm phương châm chỉ đạo! Và mọi người đều
phải tham dự tích cực vào cuộc đấu tố địa chủ để tỏ ra là đã thông suốt đường
lối 6 Mặt Trận Cách Mạng Hưng Phục Việt do đảng đề ra và có lập trường giai cấp
rõ ràng. Cuộc đấu tố địa chủ được kết thúc bằng một cuộc biểu tình xem xử bắn
địa chủ. Những tiếng vỗ tay, những tiếng hoan hô, đả đảo vang lên theo hiệu của
cán bộ khi nạn nhân gục chết trước những lằn đạn thù, chết bởi tay những người
đã từng chung sống một cách thân thương trong một làng, dưới một mái nhà và đôi
khi, cùng mang một giòng máu!
Địa
chủ bị xử bắn hoặc đi tù, còn gia đình cha mẹ vợ con thì bị cô lập không cho ra
khỏi nhà, không cho ai giao thiệp thăm nom. Với chính sách cô lập địa chủ này,
đảng đã tiêu diệt cho tuyệt “giống” bóc lột ở nông thôn bằng cách làm cho họ
chết đói.
Cho
tới nay, ngoại trừ các nhân vật cao cấp trong đảng, chưa ai có được con số
chính xác về tổn thất nhân mạng qua hai đợt đấu tố. Người ta ước đoán có khoảng
hơn 500 ngàn người chết, vì khắp vùng nông thôn Bắc Việt, nhân dân mang toàn
khăn tang trắng. Con số này bao gồm số người bị Toà Án Nhân Dân lên án tử hình
và hành quyết công khai, những người chết trong các nhà tù, trại giam, những
người tự tử vì quá uất ức và những thân nhân như cha mẹ già, vợ con của địa chủ
bị chết đói vì chính sách bao vây kinh tế và chết bịnh vì không được chữa trị!
Thi
hành chính sách Cải Cách Ruộng Đất, đảng CS đã nhằm nhiều mục đích:
–
Tập thể hoá ruộng đất vào tay chính phủ, do đó phải đả phá tư tưởng tư hữu
trong tiềm thức cá nhân, kể cả bần cố nông. Chính sách dùng máu để gây kinh
hoàng đã đưa đến những quyết định đưa ra con số tử hình tối thiểu cho từng xã
với phương châm: “thà chết mười người còn hơn bỏ sót một địch”. Ý
nghĩa tối hậu của việc tập thể hoá ruộng đất vào tay chính phủ là kiểm soát
được nhân dân bằng cách nắm hết lương thực rồi phân phát ra như ban ân huệ và
ngăn ngừa được những cuộc nổi loạn chống lại chế độ áp chế, do đó đảng CS sẽ
tồn tại vĩnh viễn trong ngôi vị lãnh đạo.
–
Giai cấp đấu tranh, thực sự chỉ là một thủ đoạn “mượn và khích” trong
sách lược “chia để trị” và tất cả, kể luôn giai cấp vô sản đều
bị lợi dụng để tuyệt đối trung thành với Đoàn, Đảng và lãnh tụ, “giai cấp mới”
được ưu đãi của chế độ. Lập trường hận thù giai cấp làm cho đại khối nhân dân
nghi kỵ xa cách nhau, không thể nhìn nhau, do đó không thể cùng nhìn chung về
một hướng để kết lực, tạo thế, chờ thời!...
–
Để đề phòng việc miền Nam tiến công giải phóng miền Bắc với sự hỗ trợ của Hoa
Kỳ, đảng đưa ra thủ đoạn “đóng dấu nhân dân” bằng máu của tội
ác. Với bàn tay vấy máu và một mặc cảm tội lỗi, họ buộc phải theo đảng CS tới
cùng như những kẻ tòng phạm chạy trốn lưới pháp luật vì sợ bị trả thù, bị truy
tố. Trong hoàn cảnh này họ phải dứt khoát lập trường tư tưởng với phía Quốc
Gia, kẻ thù của đảng CS.
2.1.2.
Chiến Dịch Sửa Sai
Sau
khi thực hiện chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất và thiết lập chế độ vô sản chuyên
chính xuống đến tận cùng cấp xã, đảng đột nhiên cho phát động chiến dịch sửa
sai, công nhận đã phạm nhiều lầm lẫn nghiêm trọng làm tổn thương uy tín lãnh
đạo và đời sống nhân dân và thay thế hai nhân vật bị qui trách nhiệm là Tổng Bí
Thư Trường Chinh và Hồ Viết Thắng, Thứ Trưởng phụ tá Cải Cách Ruộng Đất.
Võ
Nguyên Giáp, phát ngôn viên của đảng đưa ra 7 lỗi lầm chính:
–
Đã phủ nhận thành tích của cuộc đấu tranh Phản Đế, nhiều người có công trong
kháng chiến chống đế quốc Pháp đã bị mang ra đấu tố, giết chết hoặc tù đày.
–
Đã phân định thành phần sai, coi phú nông như địa chủ.
–
Đả kích tràn lan, không phân biệt địa chủ có công với cách mạng, có con đi bộ
đội, lầm cán bộ với địa chủ phản động.
–
Không tiên liệu những biện pháp đề phòng sự quá độ trong việc “phóng tay phát
động chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất” để xử trí oan người ngay và dùng “biện pháp
trấn áp” một cách phổ biến.
–
Làm sai chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng của nhân dân ở
vùng có nhiều “đồng bào tôn giáo”.
–
Không tôn trọng, thậm chí xâm phạm đến phong tục tập quán địa phương ở vùng có
nhiều “đồng bào thiểu số”.
–
Trong công tác chỉnh đốn đảng đã không nắm vững tiêu chuẩn chính trị mà lại
phạm vào chủ nghĩa thành phần, không dùng phương châm lấy giáo dục làm chính mà
đơn thuần dùng biện pháp tổ chức: kỷ luật, xử trí, giải tán các tổ chức, thậm
chí dùng phương pháp truy bức để làm công tác chỉnh đốn!...
Hiểu
được qui luật của khoa học đấu tranh, người CS bao giờ cũng tôn vinh lãnh tụ
như thần thánh và đề cao đảng với khả năng lãnh đạo không thể sai lầm! Phải mất
biết bao thời gian và công sức thực hiện những chiến dịch đẫm máu, đảng mới
điều kiện hóa được nhân dân nói câu nói cửa miệng: “Nhờ ơn Bác và
Đảng!”... mà tại sao nay lại công khai tự nhận lỗi, làm giảm uy tín lãnh
đạo!?
Thực
chất, chiến dịch sửa sai chỉ là chiến dịch thanh trừng nội bộ giữa hai phe: phe
Hồ Chí Minh loại phe Trường Chinh trong tiến trình hình thành và hủy thể của
đảng CSVN.
Đảng
CSVN được hình thành là do công của Nguyễn Thế Mỹ, con của Nguyễn Thế Dục,
người làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Từ Pháp về, Mỹ hoạt
động tổ chức đảng, bị Pháp bắt giam 3 năm rồi bị lao phổi. Trước khi chết, Mỹ
bàn giao Tổ Đảng lại cho Trường Chinh Đặng Xuân Khu là bà con. Có sẵn cơ sở
nhân sự, Trường Chinh với sự cộng tác của Đặng Xuân Thiều và Phạm Văn Đồng đã
tích cực phát triển Tổ Đảng ra khắp vùng. Cũng như Mao Trạch Đông, Đặng Xuân Khu
không xuất ngoại nghiên cứu chủ nghĩa CS; trái lại Hồ Chí Minh tương tự như Lưu
Thiếu Kỳ, đã từng được huấn luyện tại Mạc Tư Khoa và chịu ảnh hưởng của Đệ Tam
Quốc Tế.
Việc
thống nhất ba đảng CS tại Hồng Kông (1930) dưới danh xưng Đảng Cộng Sản Đông
Dương và chỉ định Trần Phú làm Tổng Bí Thư đầu tiên là sự áp đặt của Đệ Tam
Quốc Tế qua đại diện Hồ Chí Minh mà Trường Chinh buộc lòng phải chấp nhận.
Việc
tổ chức cướp biểu tình để biến thành cuộc cướp chính quyền ngày 19/8/1945 là
công của phe Trường Chinh. Võ Nguyên Giáp trong “Những Chặng Đường Lịch
Sử” được tái bản lần thứ tư có ghi lại một đoạn đối thoại giữa Võ và
Hồ trong những năm sống ở hang Pắc Bó (1944-1945) cả hai đều xác quyết “Nhất
định đảng ta có cơ sở nhân sự tại miền xuôi, ta phải cố tâm liên lạc cho bằng
được!”. Đó cũng là lý do tại sao phải đợi mãi tới gần hai tuần sau, ngày 2
tháng 9, Hồ Chí Minh mới xuất hiện ở trấn Ba Đình đọc diễn văn tuyên bố: Việt
Nam Độc Lập!
Sau
khi Mao thống nhất Hoa Lục, đảng Lao Động VN được thành lập, Trường Chinh đương
nhiên làm Tổng Bí Thư và bài hát “Anh Cả Trường Chinh” được phổ biến trong nội
bộ đảng.
Là
người kinh lịch, Hồ Chí Minh hiểu được địa vị bấp bênh của mình trong đảng nên
đã triệt để lợi dụng uy tín của chức vị Chủ Tịch Nhà Nước để làm thăng bằng cán
cân quyền lực với Trường Chinh và dùng mọi thủ đoạn để mua chuộc, lôi kéo, chia
rẽ những người trong đảng theo về phe mình.
Chiến
dịch Cải Cách Ruộng Đất là một cơ hội đặc biệt để phe Hồ triệt hạ phe Trường
Chinh. Các đảng viên “mới” được kết nạp qua các đợt đấu tố của chiến dịch Phản
Phong đã giúp phe Hồ loại bỏ được một số lực lượng khá lớn đảng viên “cũ” thuộc
ảnh hưởng của Trường Chinh với những tội danh như địa chủ, cường hào, phản
động... Ngoài một số bị hành quyết sau khi chịu đấu tố, số người chết trong tù
trong khi giam cứu, số đảng viên được tha trong vụ sửa sai, theo báo Nhân Dân,
là 12 ngàn người! Họ thoát chết trở về nhưng không còn địa vị xưa, nhà cửa nay
người khác đã 8 Mặt Trận Cách Mạng Hưng Phục Việt chiếm cứ và gia đình cũng đã
phiêu tán, con cái lang thang, vợ bỏ đi lấy chồng khác!
Hồ
Chí Minh tuy đưa được Lê Duẩn lên thế Trường Chinh nhưng phe phái của Trường
Chinh vẫn còn giăng mắc khắp nơi trong quân đội và trong hệ thống đảng. Do đó
Lê Duẩn chỉ ở chức vụ Bí Thư Thứ Nhất (1956). Vì đảng đã trở thành nơi tranh
giành quyền lực của các phe phái, nên giới thư lại phải tìm thế đứng quanh
những người có quyền để bảo vệ lợi, danh và vị cho cá nhân chứ không còn lý
tưởng như xưa, và đây là giai đoạn I trong tiến trình hủy thể của đảng CSVN
được gọi là “Thư Lại Kết Đoàn”.
2.1.3.
Nông Dân nổi loạn
Khốn
khổ về chế độ hà khắc và uất hận vềchính sách tàn độc của đảng, nông dân nhiều
nơi đã nổi dậy như ở Bắc Ninh, Nam Định, nhưng đảng đã thẳng tay dùng quân đội
đàn áp!
Tháng
11/1956, nông dân 5 xã thuộc huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) đã vùng lên làm một cuộc
khởi nghĩa có võ trang bằng gậy gộc. Đảng cũng đã thẳng tay đàn áp bằng cách
điều động cả một sư đoàn đến bao vây tiêu diệt. Số phận của hơn 20 ngàn nông
dân này ra sao, không ai biết rõ! Nhưng chắc chắn là ngoài một số đáng kể được
may mắn chết nhanh gọn dưới lằn đạn thị uy, số còn lại đã bị chết mòn mỏi trong
hệ thống nhà tù, trại giam với đủ thứ cực hình, khảo tra, cùm kẹp, đói, rét và
bệnh tật!...
2.1.4.
Trí Thức nổi loạn
Đầu
năm 1956, Nikata Khrushchev phát động chiến dịch hạ bệ Stalin, chống tư tưởng
tôn sùng cá nhân thì Mao Trạch Đông cũng cho khai mở phong trào “Trăm
Hoa Đua Nở”.
Ở
VN, sau đó ít tháng, đảng cũng đã đưa ra chính sách sửa sai, dành nhiều dễ dãi
cho giới trí thức văn nghệ sĩ viết và lách. Trong chin năm Kháng Chiến chống
Pháp và hai năm sống ở thủ đô Hà Nội, họ đã phải chịu nhiều thiếu thốn vật chất
lẫn tinh thần, sinh hoạt phí chỉ đủ mua vài chục ký gạo nuôi gia đình, trong
khi đó những tên nịnh hót đảng được cất nhắc lên làm “cai văn nghệ”, được hưởng
một đời sống xa hoa, phè phỡn... Do đó nhiều người đã tham dự viết bài đả kích
những sai lầm của chế độ. TờNhân Vănđược ra đời làm cơ quan ngôn luận
của nhóm trí thức văn nghệ sĩ với Nguyễn Hữu Đang làm chủ bút. Đang là một đảng
viên kỳ cựu đã từng làm Bộ Trưởng Văn Hóa từ thời 1945.
Đa
số giới trí thức văn nghệ sĩ đi kháng chiến đều có tinh thần dân tộc, tư tưởng
quốc gia, nhưng vì hoàn cảnh đành phải chấp nhận chế độ CS. Người CS biết rõ
điều này nên cũng tạm chấp nhận họ để có người tô son trát phấn cho chế độ. Nay
kháng chiến đã thành công, đã áp đặt xong nền chuyên chính vô sản và chuẩn bị
xây dựng xã hội chủ nghĩa thì việc thanh trừng giới văn nghệ sĩ là điều cần
thiết. Sự dễ dãi trong chiến dịch sửa sai chỉ là một cơ hội được đảng tạo ra để
xúi trí thức, văn nghệ sĩ phạm lỗi, và tờ Nhân Văn chỉ là cái
bẫy sập mà đảng giương sẵn để bắt trọn ổ.
Phong
trào Nhân Văn – Giai Phẩm chỉ kéo dài có 3 tháng, thời gian đủ
dài để đảng nhận diện và qui định thành phần kẻ thù để xử trị qua chiến dịch
“cải tạo tư tưởng” cho toàn thể trí thức dù trong hay ngoài đảng. Trí thức văn
nghệ sĩ thân đảng được gửi đi học các khóa cải tạo tại các thành phố lớn, được
hưởng đủ tiện nghi. Trái lại, trí thức văn nghệ sĩ chống đảng bị đưa lên vùng
thượng du, học tập lao động dưới sự quản giáo của các cán bộ dân tộc thiểu số.
Người CS luôn nói đến khoan hồng và nhân đạo nhưng thật ra họ tàn nhẫn dã man
hơn ai hết để bắt kẻ thù phải sống cái chết mòn mỏi, kéo dài với sự hành hạ của
đói rét và sự gậm nhấm của đớn đau bệnh tật. Đó là những cái chết khủng khiếp
so với cái chết bất ngờ, nhanh, gọn gây ra bởi một viên đạn. Đa số trí thức văn
nghệ sĩ đối lập đi cải tạo không thấy trở về, không ai biết họ ở đâu, ngoại trừ
môt số nhỏ trở về với gia đình đã từ bỏ nghề cầm bút và dạy học để chấp nhận
lao động chân tay. Họ chọn lựa sự im lặng trong một chế độ “bỏ tù tiếng nói”.
2.1.5.
Chính sách thủ tiêu người Tập Kết
Song
hành với phong trào di cư vào Nam của gần một triệu người Bắc di cư, phong trào
“tập kết” cũng đưa về phía bên kia vĩ tuyến 17 hơn 300 ngàn người miền Nam. Đa
số là những gia đình có tham gia kháng chiến chống Pháp. Họ là người có đầu óc
dân tộc và lòng yêu nước cao độ nay thấy Tổ Quốc được độc lập, muốn về góp phần
xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc rồi chuẩn bị trở về giải phóng miền Nam
trong tương lai. Ước mơ cao đẹp, đơn sơ và tưởng chừng như sẽ được hiện thực
một cách dễ dàng nhưng thực tế thấp hèn và phức tạp đã làm cho họ bàng hoàng
tỉnh mộng khi được học tập: yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa và
phải có lập trường giai cấp ngay trong cả quan hệ luyến ái vợ chồng!
Sự
thực, đảng không muốn mang họ ra Bắc, nơi đảng đã phải quyết liệt dùng tới
những biện pháp bạo lực đẫm máu để ngăn đe, thúc đẩy nhân dân đi vào khuôn khổ
sinh hoạt mà đảng đã vạch ra, vì xét trên bản chất, họ là những người quen sống
một đời sống dễ dãi từ vật chất đến tinh thần tại miền Nam trù phú với mưa
thuận gió hòa để chỉ cần làm một vụ mùa rồi ca hát ăn nhậu quanh năm, và đảng
cũng biết trước là họ sớm muộn gì cũng trở thành những kẻ bất mãn chế độ. Do
đó, ngoại trừ một số nhỏ thuộc thành phần đảng viên nòng cốt là được ưu đãi cho
định cư sống gần Hà Nội, còn tất cả đều bị phân tán đi các vùng kinh tế mới,
khu sản xuất đuợc mở ra tại những vùng đèo heo hút gió rừng thẳm âm u... Đảng
không tự tay giết họ nhưng đã giao họ cho tử thần mặc tình hành hạ họ bằng đói
rét, bệnh tật và nỗi cô đơn của kiếp sống khổ sai chung thân.
Theo
thống kê của Việt Nam Cộng Hòa (1973), sau 20 năm, số người di cư vào Nam là
850 ngàn đã tăng nhanh thành 3 triệu 200 ngàn. Vậy số hơn 300 ngàn “tập kết” ra
Bắc nay còn lại được bao nhiêu? Họ ở đâu? Đảng đã đãi ngộ họ như thế nào?
2.2.
Miền Nam
Sau
5 năm giúp Pháp làm chiến tranh chống cộng và sau khi Pháp thua trận Điện Biên
Phủ thì Hoa Kỳ gạt Pháp ra và trực tiếp đảm nhận vấn đề Đông Dương. Tuy là đồng
minh trong khối Tự Do nhưng Hoa Kỳ và Pháp lại chống đối nhau gay gắt vì những
xung đột quyền lợi quốc tế. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ chủ trương chính sách
giải thực giúp các thuộc địa đạt được độc lập nhưng Pháp vẫn đeo đuổi đường lối
thực dân cũ bằng một danh xưng mới: Liên Hiệp Pháp.
Giải
pháp Quốc Gia đã được chính giới Pháp đề cập tới từ lâu nhưng chỉ hình thành
vào ngày 5/6/1948 với khuôn mặt Bảo Đại. Tuy nhiên người Pháp không thực lòng
trong việc thực hiện giải pháp Quốc Gia. Bằng chứng là De Gaulle đã rút khỏi
chính trường để trốn việc thực hiện những gì đã hứa với các thuộc địa khi họ
đóng góp nhân vật lực để giúp giải phóng “mẫu quốc”; và khi có những khuynh
hướng cấp tiến trong chính giới muốn Pháp bắt chước Anh thực tâm trao trả độc
lập cho các thuộc địa thì chính De Gaulle lại ra một thong cáo nghiêm khắc cảnh
cáo: “Người Pháp nào làm cho nước Pháp mất đi một phần lãnh thổ trong
Pháp Quốc Hải Ngoại thì sớm muộn cũng bị xét xử trước tòa án tối cao”. Việc
này đã làm cho những người Quốc Gia chân chính càng xa lánh chính quyền vì
không muốn hợp tác với tư cách tay sai trong một chính phủ bù nhìn và cũng đã
nâng cao uy thế của người CS trong nhiệm vụ lãnh đạo công cuộc kháng chiến
giành Độc Lập cho Tổ Quốc.
2.2.1.
Đệ Nhất Cộng Hòa
Ngày
7/7/1954, Ngô Đình Diệm với sự thỏa thuận của Pháp và Bảo Đại, được Hoa Kỳ đưa
về làm Thủ Tướng chính phủ miền Nam. Đây là lần đầu tiên phía Quốc Gia được đủ
cả 3 điều kiện: Thiên Thời, Địa Lợi và Nhân Hòa.
Thiên
Thời: Hiệp Định Genève đã qui định 2 nước Việt Nam với 2 chế độ khác
nhau. Miền Bắc chịu ảnh hưởng của khối CS và miền Nam nằm trong quĩ đạo của
khối Tự Do, và chiến tuyến Quốc-Cộng nay đã rõ ràng.
Địa Lợi: Miền Nam có cả một lãnh thổ đủ để làm chiến tranh trong thế công
cũng như trong thế phòng vệ và đủ cả khả năng làm kinh tế để trở nên thịnh
vượng, tuy nhiên vì“bán tại sơn hà, bán tại nhân” nên khai thác
được khả năng của đất đai nhiều ít là tùy tài năng giới lãnh đạo!
Nhân
Hòa: Miền Nam được sự hỗ trợ toàn vẹn của Hoa Kỳ và thế giới Tự Do
cũng như được sự tín nhiệm của lực lượng quân đội và khối di cư làm nòng cốt để
đi những bước vững chắc xây dựng chế độ.
Tuy
người Pháp đã cố tình gây ra những khó khăn cho chính phủ như xúi Bình Xuyên
nổi loạn, nhưng có đầy đủ 3 yếu tố nói trên nên Ngô Đình Diệm đã thành công
trong việc ổn định miền Nam và được đề cao như một chính khách lỗi lạc. Nhưng
miền Nam chỉ được hưởng một giai đoạn hòa bình và thịnh vượng ngắn ngủi rồi bắt
đầu đi vào suy thoái với chính sách “gia đình trị” và “đảng phiệt” Cần
Lao Nhân Vị. Yếu tố Nhân Hòa bị suy yếu kéo theo yếu tố Địa Lợi cũng mất
theo và như thế mất dân thì làm sao giữ đất?
Ngô
Đình Diệm có thể là một nhà hành chánh giỏi, có đạo đức nhưng không phải là một
chính khách tài ba, vì họ Ngô đã không nhìn được thế giao lưu của những quyền
lực quốc tế giăng mắc, do đó đã không phát hiện được những âm mưu quốc tế để
tuỳ nghi theo hoặc chống và cuối cùng bị lôi cuốn theo những xung đột quốc tế
đang ảnh hưởng vào VN một cách tích cực. Vụ Phật Giáo (1963) chỉ là một cái cớ,
một giọt nước cuối cùng để làm tràn ly nước đã đầy sẵn gây ra sự sụp đổ của Đệ
Nhất Cộng Hòa.
2.2.2.
Giai Đoạn Chuyển Tiếp
Miền
Nam sống trong sự bất ổn chính trị với những âm mưu đảo chính, chỉnh lý như
sau: Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị quân đội đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh bị
Tướng Khánh chỉnh lý, tướng Khánh bị Tướng Kỳ giải nhiệm, Tướng Kỳ lên làm Chủ
Tịch ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, v.v...
Sự
loại bỏ các Tướng “gốc” Pháp như Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, và
việc cho về hưu non một số tướng lãnh già không phải chỉ đơn thuần mang tính
chất thanh trừng nội bộ quân đội. Nó còn mối tương quan biện chứng với việc
Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson quyết định đổ quân ào ạt vào VN, và chứng tỏ
mối xung đột quyền lợi quốc tế ở Đông Dương đang ở mức độ gay gắt mà tâm bão là
Việt Nam.
Nhìn
xa và kiểm lại những sự kiện tất sẽ thấy âm mưu quốc tế với những cách lập thế,
cài lực nhằm đẩy Hoa Kỳ ra khỏi Đông Nam Á:
–
Charles de Gaulle sau một thời gian ẩn tích, đã trở lại chính quyền với chức vụ
Tổng Thống (1959-1969). Nước Pháp dưới sự lãnh đạo của de Gaulle đã thi hành
một chính sách kịch liệt chống phá Hoa Kỳ ở Âu châu và cả ở Á Đông với chủ
trương trung lập, tách các quốc gia Đông Dương khỏi ảnh hưởng của Hoa Kỳ!
–
Mao Trạch Đông với chủ thuyết Mao đã tách Nga để tạo một thế đứng riêng trong
thế giới lưỡng cực, thế “chân vạc”:Ngụy–Thục–Ngô của thời Tam Quốc.
Vì có những quyền lợi tương đồng nên de Gaulle và Mao đã có những chủ trương
giống nhau.
–
Năm 1959, Hà Nội họp Chính Trị Bộ quyết định giải phóng miền Nam bằng võ lực.
–
Năm 1960, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTGPMN) được thành lập với
Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ Tịch, với sự tham gia của một số đông các nhân
sĩ miền Nam, những người có khuynh hướng chủ trương đường lối trung lập.
–
Thái Tử Sihanouk, người công khai tuyên bố “Tôi theo de Gaulle”, đã
vì những hứa hẹn của các quyền lực quốc tế mà để cho MTGPMN xử dụng hải cảng
Kampong Som để tiếp nhận quân trang, quân dụng vũ khí đạn dược cũng như để cho
MT này đóng quân trên đất Miên làm nơi tập trung quân xuất phát tiến đánh miền
Nam.
Để
chống lại cuộc chiến tranh toàn diện do Hà Nội đảm nhiệm nhưng lại do các thế
lực quốc tế chủ trương, Hoa Kỳ chỉ phản ứng lại bằng sức mạnh của kỹ thuật cơ
giới với tiêu chuẩn “một tấn đạn cho một tên thù” trong một
trận chiến không có mục tiêu. Hà Nội làm chiến tranh càng lúc càng mạnh, chi
viện quốc tế đổ vào dùng không hết, và mức sống người dân được coi là khá hơn thời
bình vì đảng cũng nới tay trong chính sách kiểm soát dạ dầy, một nghệ thuật cai
trị, mở xả nút để tránh cảnh tức nước vỡ bờ.
Trên
mặt trận ngoại giao, Hoa Kỳ cũng vấp phải nhiều trở ngại, uy tín chính trị cao
vút của thời thập niên 50, sau Đệ Nhị Thế Chiến, sa sút một cách đáng kể trước
phong trào “Phản Chiến” do trí thức Âu châu đứng ra tổ chức để chống Mỹ, đề cao
Hà Nội, tâng bốc Hồ Chí Minh, đã làm Hoa Kỳ mất uy tín quốc tế và khơi động
phong trào chống đối trong nước.
Ngay
khi nhận định được VN là vũng lầy được che đậy bằng những âm mưu quốc tế, Hoa
Kỳ đã nhanh chóng và khôn khéo đổi chiến thuật, chấp nhận hòa đàm Ba Lê (1968)
ngồi ngang với Hà Nội trong phái đoàn 4 bên: Hoa Kỳ, Sài Gòn, Hà Nội và MTGPMN,
với thủ đoạn ngoại giao đi đêm với thật nhiều hứa hẹn dành cho Hà Nội và tạo ly
gián giữa các thế lực quốc tế đang chống mình.
2.2.3.
Đệ Nhị Cộng Hòa
Nền
Đệ Nhị Cộng Hòa được long trọng khai mạc với sự đắc cử Tổng Thống của Trung
Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, và Phó Tổng Thống là
Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương.
Ngay
trong nhiệm kỳ đầu có 2 sự kiện đáng kể:
–
Tổng Thống Lyndon Johnson tuyên bố không tái ứng cử nhiệm kỳ II vì thất bại ở
VN.
–
Vụ Tết Mậu Thân (1968): Nhân dịp Tết Âm lịch, nhân dân miền Nam đang vui mừng
xuân thì MTGPMN phát động “Tổng Công Kích” khắp các đô thị, tỉnh trên toàn miền
Nam gây nhiều thiệt hại vật chất và nhân mạng cho nhân dân. Riêng tại Huế, CS
đã tàn sát hàng ngàn đồng bào bằng cách bắn tập thể, đập đầu bằng chày vồ và
chôn sống.
Những
thảm cảnh đó tố cáo chính sách dã man tàn bạo của CS, dù với nhân dân vô tội
hay với kẻ thù cũng như với ngay đồng chí cũng chỉ là một!
Sự
dũng cảm của quân đội VNCH trong việc chống giữ và ngăn chặn để rồi tiêu diệt
trọn bộ lực lượng quân sự của MTGPMN không được báo chí quốc tế và Hoa Kỳ đề
cập. Đó là một sự bất công trong việc truyền thông nhưng hàm chứa một dụng ý.
Thực
chất của cuộc “Tổng Công Kích” Mậu Thân chỉ là sự tái diễn thủ đoạn tàn độc của
người CS đã từng áp dụng khi xưa đối với những người Quốc Gia theo kháng chiến
chống Pháp “mượn địch giết thù”. Tham dự trong âm mưu quốc tế để xẻ
thịt “con voi Mỹ”, Hà nội biết chắc là mình sẽ thắng. Vấn đề chỉ còn là thời
gian nên đã quyết định thủ tiêu bộ phận quân sự chủ lực của MTGPMN gồm những
người đi tập kết khi xưa để trừ hậu họa khi tiếp thu miền Nam, thống nhất đất
nước, đưa toàn dân tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa!
Nhiệm vụ làm tiền đạo dẫn đường và tiên phong của MT này đã chấm dứt!
Những
người tập kết ra Bắc đã phạm vào một tội không thể tha thứ: biết rõ bản chất
tàn độc của Hà Nội và thực tế của thiên đường xã hội chủ nghĩa miền Bắc! Ngoài
ra họ còn bị nghi ngờ vì bản chất lè phè, thích hưởng thụ của người miền Nam
nên dễ bị hủ hoá khi tiếp xúc với miền Nam phồn vinh giả tạo, với văn minh cơ
kỹ Tây phương.
Loại
được bộ phận quân sự chủ lực của MTGPMN, Hà Nội đã đưa đại quân của mình vào
thay thế và kiềm chế chính phủ “lâm thời miền Nam” đang có khuynh hướng tách
rời trung ương Hà Nội để chịu ảnh hưởng của Trung Cộng và Pháp. Đứng trên
phương diện lãnh đạo Hà Nội tỏ ra khá giỏi để tạo thế, cài 12 Mặt Trận Cách
Mạng Hưng Phục Việt lực ngăn ngừa những bất trắc có hại cho mình, nhưng đồng
thời cũng gây khó khăn là không ai dám tin và ít ai dám gần vì bản chất phản
trắc và lật lọng với cả đồng chí chứ đừng nói gì đến bạn bè, đồng minh.
Bài
học cay đắng của người Quốc Gia chân chính trong thân phận cô nghiệt, chết đứng
giữa hai lằn đạn thù CS và thực dân thời kháng chiến 1945-1954 đã không được
những người tập kết biết đến, học và hiểu! Và “chính trị của ngày qua” vẫn
còn nối tiếp nhau làm nên lịch sử, những trang sử đau thương không riêng cho
miền Nam mà chung cho cả hai miền, cho toàn thể dân tộc Việt!
–
1969, Richard Nixon đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ với lời hứa giải quyết vấn đề VN
trong danh dự. Nhưng làm sao mang được toàn bộ đại quân về. Cái khó nhất của kẻ
làm tướng là lúc triệt thoái bảo tồn được lực lượng trong một hoàn cảnh thua
kém mọi mặt và kẻ thù vây quanh chờ xẻ thịt. Do đó giải pháp tốt nhất là bàn
hội nghị, tuy có phải hạ mình, khẩn cầu nhục nhã, nhưng với nghệ thuật đi đêm
có bóng tối đồng lõa thì mọi chuyện đều ổn thoả.
–
1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ứng cử “độc diễn” nhiệm kỳ II, đắc cử với 99%
số phiếu!
–
27/1/73, Hiệp Định Ba Lê được ký kết giữa bốn bên.
Nhưng
cũng trong năm 1973, T.T. Nixon bắt đầu nhiệm kỳ II được ít tháng thì vụ án
“Watergate” xẩy ra. Báo chí tấn công tới tấp, quần chúng bất mãn và cuối cùng
Nixon phải từ nhiệm trong uất ức, đớn đau! Năm 1974, Phó Tổng Thống Ford lên
thay. ở VN, T.T. Thiệu bắt đầu gặp những khó khăn với những chống đối của quần
chúng: Phong Trào Luật Sư Tranh Đấu, Phong Trào Chống Tham Nhũng, v.v... Một
phái đoàn Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ sang Sài Gòn tham quan tình hình cứu xét vấn đề
viện trợ VN và tiếp xúc với các nhóm chống đối. Một trong những đề nghị của
nhóm này là chấm dứt ủng hộ Thiệu và cắt viện trợ cho chính phủ Thiệu. Yêu cầu
này được Thượng Viện Mỹ quyết định nhanh chóng. Vì chống đối từ nhiều phía nên
Thiệu phải từ chức.
Rồi
Phước Long mất. Quân Đoàn I di tản. 10/3/75, trận đánh Ban Mê Thuột bắt đầu.
14/3/75, Quân Đoàn II rút trong biển máu đầy kinh hoàng...
Và
những gì đến phải đến, đúng như dự tính của những người hoạch định chương
trình. Tổng Thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân đội CS Bắc Việt. Những
tin về giải pháp 3 thành phần, về sự can thiệp của người Pháp, v.v... đã không
xẩy ra! Tất cả đã bị lừa! Hoa Kỳ đã bàn giao miền Nam cho Bắc Việt trước kỳ
hạn!
Cũng
như Pháp, Hoa Kỳ đã thua ở Việt Nam và phải ký Hiệp Định Ba Lê để rút quân an
toàn. Với những cái nhìn cục bộ ở tầm mức chiến thuật, nhiều người đã suy luận
là trên cương vị siêu cường Hoa Kỳ không thể thua CS Bắc Việt. Sự kiện Hoa Kỳ
bỏ miền Nam chỉ là sự đổi chác lấy một quyền lợi nào đó với Nga hoặc Trung
Cộng.
Tuy
nhiên, nếu xét trên chính lược thì sẽ thấy khác: Hoa Kỳ đã thua! Thua vì đã
nhận định sai lầm về Bạn và Thù, về Ta và Địch, về bản chất và mục đích của
chiến tranh để thiết kế một chính lược làm trục cho nhiều chu kỳ chính trị liên
tiếp, tạo thuận lợi cho việc xây dựng “một trật tự mới cho toàn thế
giới” ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến. Do đó người Mỹ đã chới với trước sự
cạnh tranh công khai và ngấm ngầm của những quyền lực đang hồi phục ngay trong
khối Tự Do. Những yếu tố không được tiên liệu này đã làm cho cuộc chiến VN kéo
dài hơn thời gian hoạch định, phải đổ vào VN một số quân lớn hơn dự trù, phải
chi tiêu một ngân khoản vượt ngoài khả năng. Kết quả là sự suy giảm kinh tế đưa
đến sự chia rẽ nội bộ. Để tự cứu, Hoa Kỳ đã phải cắn răng, muối mặt làm một
việc tổn thương đến uy tín siêu cường lãnh đạo khối Tự Do: thi hành một chính
sách ngoại giao đi đêm, bàn giao miền Nam, một quốc gia đồng minh, tiền đồn của
thế giới Tự Do đã được nhiều Tổng Thống cam kết bảo vệ, với toàn vẹn những cơ
sở quân sự vũ khí của một quân đội tan rã. Thêm vào đó là lời hứa tái thiết Bắc
Việt bằng một ngân khoản nhiều tỷ Mỹ kim và những trợ giúp kỹ thuật căn bản để
giúp phát triển kinh tế.
Giai
đoạn II của cuộc chiến Đông Dương với 21 năm trợ giúp của Hoa Kỳ được nhiều
người coi là cơ hội tốt nhất của người Việt Quốc Gia chân chính để chống cộng
và giải phóng miền Bắc, thống nhất đất nước và xây dựng lại theo đường lối dân
chủ, tự do mà họ đã để lỡ. Đây là một nhận định sai lầm, không sát thực tế! Hoa
Kỳ vào VN với một chính lược rõ rệt, chỉ đạo cho một chiến lược chống cộng đã
vạch sẵn. Người Việt Quốc Gia chân chính vẫn không trực diện chống cộng với một
sách lược của riêng mình. Đó là lý do đúng nhất để giải thích tại sao miền Nam
thiếu những chính khách lãnh đạo có tầm vóc quốc tế. Tại sao miền Nam chỉ có
những chính phủ chuyên viên thừa hành làm những việc theo chương trình ngắn
hạn? Tại sao miền Nam thiếu những tướng lãnh chiến lược?
Ngô
Đình Diệm bị Hoa Kỳ lật đổ. Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ đã bị Hoa Kỳ tố là
tham nhũng, buôn bạch phiến. Tuy nhiên, họ đã làm xong vai trò mà Hoa Kỳ muốn!
3.
Giai Đoạn III (1975-1999): Sự Phản Tỉnh của một Dân Tộc trước kẻ thù Cộng Sản:
Thế Địch Hòa
Nhờ
nhiều yếu tố thuận lợi, đảng CSVN đã nắm được cơ hội làm lịch sử, và đã thành
công hoàn toàn trong hai giai đoạn chiến tranh liên tiếp:
–
Giai đoạn I (1945-1954) thắng được thực dân Pháp bằng chiêu bài “Kháng
Chiến” làm chủ được miền Bắc.
–
Giai đoạn II (1954-1975) thắng được cực quyền Mỹ bằng chiêu bài “Giải
Phóng” tiếp thu miền Nam và thống nhất đất nước.
Lý
do chính của sự thành công này là đảng CSVN đã độc quyền dùng được chiêu bài “Cứu
Quốc” và đeo được mặt nạ “Dân Tộc” để tuyên truyền lừa gạt được lòng
yêu nước nhiệt thành của người dân trong việc hy sinh tất cả cho đại nghĩa
chống ngoại xâm. Nhưng chiêu bài và thực chất là hai điều khác biệt, rất dễ
dàng được phân định bởi thời gian và chứng minh qua hành động trong thực tế.
Vậy, người CS có yêu nước không? Họ đã làm những gì cho Tổ Quốc và Dân Tộc?
Đảng CSVN là công đảng phục vụ cho quyền lợi nước nòi hay đã
làm công cụ đảng của ngoại bang để thực hiện những âm mưu quốc tế theo lệnh ủy
nhiệm và đang biến hình để trở thành tư đảng của bè lũ Tư Bản Đỏ?! Đó là những
câu hỏi có tính cách tra vấn mà người CS và đảng CSVN phải trả lời trước toà án
lịch sử và lương tâm của dân tộc về vô số tội ác họ đã phạm trong suốt gần nửa
thế kỷ qua với tư cách lãnh đạo đất nước.
Sau
khi tiếp thu miền Nam, câu đầu tiên người CS nói với nhân dân là “ở
miền Nam, kể cả con bướm nhởn nhơ cũng có tội với Cách Mạng!”. Do đó những
biện pháp trấn áp của CS đối với tập thể quân dân miền Nam chỉ là vấn đề thời
gian sớm muộn.
3.1.
Tù “Cải Tạo”
Hàng
trăm ngàn quân nhân quân lực VNCH gồm đủ các cấp từ hàng binh tới cấp tướng và
viên chức chính phủ, từ trung ương tới xã thôn đã bị tập trung trong các trại
tù với danh xưng là “trại cải tạo lao động sản xuất” khắp từ
Nam ra Bắc.
Người
CS vẫn rêu rao là thi hành một chính sách khoan hồng nhân đạo, nặng về giáo dục
và nhẹ về trừng phạt. Nhưng tất cả những gì xẩy ra trong thực tế đã chứng minh
bản chất thâm độc của họ, họ đã bắt “ngụy quân, ngụy quyền” làm
những việc như tháo gỡ bãi mìn phòng thủ các căn cứ cũ bằng cách xếp hàng ngang
tiến đều dùng que tre xâm và tay moi mìn lên. Đó là một việc cực kỳ nguy hiểm
mà chuyên viên tháo gỡ chất nổ có thể giải quyết dễ dàng bằng phương tiện cơ
giới và dây nổ chuyền! Người CS thừa biết điều đó 14 Mặt Trận Cách Mạng Hưng
Phục Việt và cũng có thừa phương tiện để làm như thế, nhưng họ đã nghĩ khác. Đó
là một cách giết người dưới một hình thức tai nạn tập thể, có lợi nhiều mặt, và
đã có cả trăm người chết, hang ngàn người mang thương tật, cụt tay, què chân,
mù mắt vì những lệnh giết người đó!
Người
CS vẫn đề cao “người là vốn quí” và tầm mức quan trọng của
kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại trong lao động sản xuất, trong việc quản
lý nhân lực, nhưng họ đã làm khác: bác sĩ, kỹ sư, chuyên gia đều xếp hàng ngang
cuốc đất trồng khoai, mì, ngô, sắn...
Thực
chất trại cải tạo chỉ là một hình thức kinh tế sản xuất của người CS, một hình
thức bóc lột sức lao động của những người bị kết án khổ sai mà không xét xử,
không kỳ hạn ở tù. Họ làm ra của cải để làm giầu cho đảng như một thứ nông nô
thời Trung Cổ ở Âu Tây, không được hưởng gì ngoài khẩu phần lương thực “tí hon”
gồm toàn gạo ẩm, bo bo, ngô sắn không đủ làm ấm bao tử!
Nếu
không có những đợt thăm nuôi của gia đình gồm thực phẩm để bồi dưỡng cơ thể và
thuốc men để chữa trị bệnh tật thì số tử vong sẽ lên rất cao ở các trại tù “cải
tạo”. Thực chất chế độ thăm nuôi cũng là một thủ đoạn tàn độc của đảng dùng để
vô sản hóa nhân dân miền Nam một cách nhanh chóng trong cái thời gạo châu củi
quế để buộc họ phải bán đi những tư trang vàng bạc mà họ cất dấu được sau những
đợt vơ vét của đảng như đánh tư sản mại bản, kiểm kê các tiệm buôn, cơ sở
thương mại, kỹ nghệ để mua lương thực, thuốc men do đảng độc quyền quản lý để
tiếp tế cho cha, cho chồng, cho con đang đi tù “cải tạo”, và cán bộ quản giáo
cũng lợi dụng chế độ thăm nuôi như một ân huệ ban phát cho các tù nhân được gọi
một cách hoa mỹ là “cải tạo viên”: phải lao động sản xuất tốt mới
được viết thư về thăm gia đình, được gặp gia đình trong những kỳ thăm nuôi.
Học
tập “tốt” là yêu cầu của trại tù và là điều kiện để được tha về đoàn tụ với gia
đình. Nhưng thế nào là “tốt”?! Nó cũng co dãn như “tiêu chuẩn phân định
thành phần giai cấp” trong hồi Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc (1954) và
quân dân miền Nam cũng đã được đảng “chiếu cố” một cách tận tình, như xưa đảng
đã đối xử với giai cấp địa chủ trong tinh thần giai cấp đấu tranh, chỉ khác là
bây giờ là giai cấp “Bắc” chống giai cấp “Nam” trong tinh thần thù hận ganh tị
ti tiện của nhân tính, ghét kẻ may mắn hơn mình!
3.2.
Chiến Dịch “Hoa Nở Về Đêm”
Gia
đình là đơn vị nền tảng của xã hội, là mối khởi đoan của Ngũ Luân, năm giềng
mối căn bản để ràng buộc con người vào xã hội: tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa
cha con, anh chị em, thầy trò và tình nghĩa vua tôi, tức mối liên hệ song
phương nhân dân với chính quyền.
Mục
đích cao cả và thiêng liêng của đạo vợ chồng là tạo dựng người cho những thế hệ
kế tiếp, làm đông đúc dòng họ, làm hưng thịnh giống nòi. Không có sự kết hợp vợ
chồng trên một nền tảng vững chắc tất không có cha con, không có anh chị em,
không có thầy trò, không có nước nòi và không có xã hội loài người.
Lịch
sử tranh đấu của dân tộc ta cũng đặt khởi đoan trên nền đạo thống vợ-chồng với
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống Bắc xâm giành độc lập. Tiêu chuẩn “Trai
trung hiếu, gái trinh hạnh” đã đưa đến những khuôn mẫu tuyệt vời “chàng
đi theo nước, thiếp theo chàng” và nối tiếp trong tiến trình sống tiến
hóa là những thế hệ “Hiếu tử, trung thần” mang xác thân bao
che cho Tổ Quốc, chìa vai đỡ gánh nặng non sông. Nhiều sử gia trên thế giới khi
nghiên cứu về VN, như Joseph Buttinger, trongThe Smaller Dragon, đã đặt
câu hỏi là: “Tại sao trong hàng ngàn năm đô hộ mà dân tộc Việt Nam vẫn
không bị đồng hóa và Việt Nam vẫn còn là một quốc gia biệt lập?”
Câu
trả lời đúng căn cứ trên yếu tố văn hóa là vì Việt Nam là quê hương của
nòi tình!
Với
chiến dịch “Hoa Nở Về Đêm”, đảng CSVN đã ra mật lịnh cho các cán bộ
CS phá nền tảng gia đình trong xã hội miền Nam. Họ đã tạo ra những cơ hội dễ sa
ngã cho người phụ nữ sống trong một hoàn cảnh khó khăn về cả vật chất lẫn tinh
thần. Các cán bộ CS đã được mặc sức dùng quyền để o ép, dùng danh vị để câu nhử
và dùng tiền bạc thu vét được để mua chuộc người đàn bà. Đã có bao cảnh nát
long vì bị bao vây kinh tế, không kiếm được việc làm, không có vốn buôn bán,
khiến vợ của những “ngụy quân, ngụy quyền” đã phải bán mình nuôi thân, nuôi
con, nuôi chồng đang tù cải tạo. Đã có biết bao cảnh thương tâm, vợ, con gái
của các “ngụy quân, ngụy quyền” bị các cán bộ CS đòi hối lộ bằng trinh tiết để
lo được cho chồng, cho cha sớm ra tù hay một cái giấy nhập hộ khẩu.
Đảng
đã đạt được nhiều mục đích qua chiến dịch trên:
–
Dùng để đãi ngộ các cán bộ miền Bắc, sau một thời gian dài gian khổ theo đảng
mà chưa được tưởng thưởng. Tuy nhiên đây cũng là một sự đóng dấu bằng tội ác
làm cho họ bắt buộc phải bám vào đảng để tồn tại, để tiếp tục hưởng thụ, tương
tự như những bần cố nông đã bị đóng dấu bằng máu địa chủ trong chiến dịch đấu
tố ở miền Bắc (1953-1956).
–
Cô lập ngụy quân, ngụy quyền: Khi họ được tha về sẽ không có nơi nương tựa, bị
biến thành một giai cấp cùng khốn và tuyệt vọng nhất của xã hội, vì bị đày đọa
bởi chính quyền, bị ruồng bỏ bởi cả vợ con thân yêu, những người một thời đã
từng “đầu gối tay ấp” thề hứa cùng nhau đi xa hơn cả cuộc đời!
–
Phá vỡ truyền thống ngàn năm của văn hóa Việt đặt nền tảng trên đạo thống gia
đình, tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa anh chị em, tình nghĩa làng xóm và tình
nghĩa đồng bào một nước. Trên ý nghĩa và hậu quả, chiến dịch “Hoa Nở Về
Đêm” mang những nét tương đồng của chiến dịch Phản Phong, chống tư
tưởng lề thói phong kiến, đã được thực hiện ở miền Bắc (1953-1956). Trong chiến
dịch này, đảng cũng đã thanh trừng một số lớn đảng viên kỳ cựu thuộc phe Trường
Chinh bằng cách qui vào giai cấp địa chủ để tố khổ, bắn giết và đi tù, vợ của
các đảng viên bị thanh trừng này cũng bị o ép mua chuộc bằng quyền và lợi để
lấy các cán bộ đương nhiệm. Sự kiện này đã chứng minh bản chất phi nhân, vô
luân của nền văn hóa vô sản mang nặng tính Đảng tàn bạo thường được mệnh danh
là nền văn hóa tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tổ tiên.
3.3.
Triệt hạ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (MTGPMNVN)
Ngay
sau khi tiếp thu xong miền Nam, Hà Nội bắt đầu công cuộc triệt hạ các nhân vật
trong MTGPMNVN; những nhân sĩ miền Nam như Nguyễn Long, Phùng Văn Cung... đều
bị canh chừng. Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn Thị Bình lộ diện chỉ là bù nhìn, bảo sao
làm vậy. Nhóm miền Nam tuy bất mãn nhưng vô lực. Hà Nội đã tính trước từ lâu
nên lực lượng quân sự chủ lực của MTGPMN đã bị Hà Nội mượn tay Quân Lực VNCH và
bom đạn đồng minh giết sạch từ vụ Tết Mậu Thân 1968.
Tất
cả biểu tượng còn lại của MTGPMNVN chỉ là cây cờ Xanh Đỏ Sao Vàng tung
bay trên nóc dinh Độc Lập cũ. Hơn một năm sau, khi quyết định thống nhất Bắc
Namđược thi hành để đưa cả nước tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa thì
lá cờ này cũng được hạ xuống và vứt bỏ!
Xét
trên tiến trình hình thành và hủy thể của đảng CSVN, đây là giai đoạn II được
gọi là “công thần chủ nghĩa”. Phe Lê Duẩn và Lê Đức Thọ sau khi
thắng được cực quyền Mỹ và tiếp thu miền Nam, uy thế cá nhân và phe nhóm lên
rất cao trong đảng nên đã toàn quyền trong việc cắt đặt người vào tiếp quản
miền Nam. Miền Nam đã trở thành miền đất mơ ước của cán bộ CS và người miền
Bắc, tuy miền Nam bị kết tội là đồi trụy và phồn vinh giả tạo nhưng qua câu
nói: “Ba tháng đi Nga không bằng ba tuần đi Đông Đức và ba tuần đi Đông
Đức không bằng 10 ngày chơi Sài Gòn” đã cực tả điều trên. Giấc mơ xã
hội chủ nghĩa kéo dài một đời của người cán bộ CS là làm sao có được một chiếc
đồng hồ đeo tay, một 16 Mặt Trận Cách Mạng Hưng Phục Việt chiếc đài (radio),
một chiếc xe đạp thì nay đã trở nên quá dễ dàng nếu được đề cử vào Nam làm
việc. Do đó đã có những vụ chạy chọt mua chỗ, giành chỗ với giá cao hơn để thực
hiện 4 Đ: “Đổng, Đài, Đạp và...Đĩ”!
3.4.
Đào mồ quật mả Tử Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
Hành
hạ kẻ thất thế đã là điều đáng xấu hổ trên phương diện tư cách cá nhân, huống
hồ đây lại là một chính sách có mục đích trả thù kẻ đã chết. Những nghĩa trang
quân đội ở Biên Hòa, Tân Sơn Nhất đều bị phá hoại, đào bới, san bằng. Nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi cũng bị chung số phận. Dù biện minh bằng lý do gì chăng nữa,
người CS cũng không thể che dấu được cái tâm địa hẹp hòi ti tiện, thiếu văn minh
trước sự phê phán của quốc tế và vô luân bất nhân dưới quan điểm của dân tộc.
“Mồ
mả gia tiên” là một phần trong tôn giáo thờ cúng tổ
tiên của Dân Tộc ta. Hàng năm vào tiết Thanh Minh của mùa Xuân, người Việt Nam
vẫn thường có tục lệ đi tảo mộ, đốt hương khấn vái vong linh người thân thuộc.
Tục lệ đón “ông bà ông vải” về ăn Tết vào ngày 23 tháng chạp
cũng là một nghi thức tôn giáo. Ngay trong thời quân chủ, độc tài và chuyên
chế, người dân bị cấm đoán nhiều điều, mà người chết còn được hưởng đặc quyền
chôn bằng quan tài sơn son thếp vàng, những biểu tượng chỉ dành riêng cho hang
vương giả của triều đình. Việc đào mồ quật mả kẻ thù, tuy có xẩy ra trong lịch
sử giữa vua Gia Long đối với vua Quang Trung nhưng cũng chỉ hạn chế ở mức độ cá
nhân và going họ, và hành động của vua Gia Long cũng bị lịch sử phê phán là
thiếu tác phong lãnh đạo. Việc đào mồ quật mả còn bị coi là một trọng tội thuộc
hình luật mà kẻ vi phạm bị xử trị nghiêm khắc không những ở nước ta thời phong
kiến mà còn là điều phổ biến trên thế giới văn minh ngày nay.
Chính,
Tà tuy xung khắc nhau như nước với lửa nhưng lại rất khó phân. Người Cộng Sản
chủ trương vô Tổ Quốc, vô gia đình, vô tôn giáo nhưng lại gian lận tự nhận là
kẻ chính thống kế thừa truyền thống dân tộc. “Nhầm, thua; vô ý, mất
tiền” đó là một thực tế lịch sử mà người Việt phải chấp nhận trong hối
tiếc vô cùng!
3.5.
Đuổi Thương Binh ra khỏi Bệnh Viện, Phế Binh ra khỏi Khu An Dưỡng
Ngay
sau 30/4/1975, người CS đã tiếp thu các bệnh viện quân đội và đã đuổi các
thương binh đang điều trị ra khỏi bệnh viện và các phế binh ra khỏi các khu an
dưỡng. Đây là những người đau khổ nhất của một chế độ đã tan rã. Họ bị bỏ rơi
không có nơi nương tựa, không có người săn sóc thuốc men. Nhiều người đã đi đến
quyết định tự tử để tự giải thoát khỏi đau đớn, tủi nhục. Nhiều người đã chết
vì thiếu săn sóc thuốc men và thiếu ăn, một số đông đã kiếm sống bằng nghề ăn
xin, hát dạo nơi bến xe, nơi họp chợ. Họ sống được là nhờ sự san xẻ của những
người cùng chung một số phận “ngụy” của miền Nam đang lao đao trước những chính
sách hà khắc bóc lột của người CS Bắc Việt.
Nhìn
những thương phế binh dắt díu nhau đi lang thang trên hè phố, kẻ què đỡ kẻ cụt,
dẫn kẻ mù, xốc xếch trong bộ đồ tác chiến rách tả tơi của mọi binh chủng mới
thông cảm được nỗi đau nhục của kẻ chiến bại. Họ là hình ảnh trung thực nhất
của một quân đội anh hùng, đã làm trọn nhiệm vụ của người lính chiến gìn giữ đất
nước, ngăn chống địch thù nhưng đã bị cấp chỉ huy bất xứng, giới lãnh đạo bất
tài phản bội, Đồng Minh bỏ rơi. Dư luận quốc tế thường nhân danh lương tâm của
loài người để giúp đỡ CS Bắc Việt trong cuộc chiến Nam Bắc. Nay họ nghĩ gì về
những thảm cảnh xã hội đang xẩy ra ở VN, nạn nhân của một sự thiên vị, bất
công, bắt nguồn từ mặc cảm tự tôn bị tổn thương sau Đệ Nhị Thế Chiến của các
quốc gia tự nhận là văn minh.
Nhìn
những thương phế binh của Quân Lực VNCH nay đã tan rã, đang sống lây lất bên lề
xã hội, người chiến binh CS nghĩ gì về họ, về mình, về thân phận chung của
những người cầm súng bảo vệ một chế độ, phục vụ một lý tưởng?! Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã nổi tiếng về những kế hoạch dự phòng để làm “một cuộc chiến
không thương binh” mà người chiến binh CS thì quá trẻ và đơn sơ để suy
nghĩ sâu xa!...
3.6.
Đánh Tư Sản Mại Bản
Chiến
dịch này được thực hiện sau khi thống nhất Nam Bắc và đảng quyết định đưa cả
nước đi thẳng lên xã hội chủ nghĩa không kinh qua giai đoạn chuyển tiếp. Trước
đó đảng đã cho thi hành nhiều đợt vơ vét tài sản nhân dân bằng lệnh đổi tiền
mới với một gía cao hơn trước và một mãi lực thấp hơn trước. Mức tiền đổi đã
được hoạch định trước cho từng cá nhân, từng hộ khẩu với nhân số ước lượng. Số
tiền dư phải nộp cho chính phủ để lấy biên nhận!
Đối
tượng chính của chiến dịch này là các nhà buôn bán lớn, các nhà tư sản mại bản,
các nhà tư sản dân tộc làm chủ các xí nghiệp sản xuất. Tất cả đều phải nộp cho
chính phủ để rồi hoạt động dưới hình thức tổ hợp hay quốc doanh. Với chiến dịch
này đảng đã thu được rất nhiều tiền, ngoại tệ và vàng bạc, trị giá nhiều chục
tỷ Mỹ kim. Đây là một mối lợi lớn mà đảng đã nhắm trước và chuẩn bị cho mọi
biện pháp để sang đoạt. Đây cũng là một rẽ ngoặt trong tiến trình hình thành và
hủy thể của đảng CSVN đi từ“công thần chủ nghĩa” sang giai đoạn
chót “ly trung tự hoại”. Vì danh vị, vì quyền lợi cá nhân mà phe đã
phân hoá ra thành nhóm và kình chống nhau. Tiêu chuẩn phân nhiệm, phân công, và
phân lợi đã bị vi phạm trầm trọng. Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân là
một nguyên tắc được đưa ra nhưng không được thi hành. Nay đảng vượt qua nhiệm
vụ lãnh đạo để lấn sang lãnh vực quản lý và đảm nhiệm luôn việc làm chủ các cơ
sở xí nghiệp, vấn đề không phải chỉ là “hồng hơn chuyên” như
trước đây mà là con ông cháu cha và gốc lớn. “Nhất thế nhì thân” đã
tạo thành một hệ thống đảng tham nhũng có đường lối, có sách lược!
3.7.
Đuổi dân thành phố đi vùng Kinh Tế Mới
Để
thực hiện kế hoạch di dân từ miền Bắc vào Nam, cũng như để có chỗ cư trú cho
một số lượng lớn nhân viên nhà nước được gửi từ Bắc vào làm việc, đảng đã áp
dụng chính sách lùa dân đi vùng kinh tế mới.
Qua
hệ thống công an phường khóm, đa số gia đình “ngụy quân ngụy quyền” đã được chỉ
định đi vùng kinh tế mới được mở ra những vùng hoang vu, rừng rậm đầy muỗi vắt
và bệnh tật. Người dân thành phố được tập trung rồi chở đi bằng xe đò bỏ tại đó
rồi để mặc tình tự mưu sinh thoát hiểm bằng phương tiện cá nhân. Đã có rất
nhiều người chết vì bệnh tật, vì đói, khoai sắn trồng chưa thu hoạch được thì
đã hết lương dự trữ. Nhiều người đã phải bỏ trốn về thành phố sống chui rúc ở
chân cầu, hè phố, làm đủ nghề để độ nhật. Đôi khi ở ngay hè căn nhà xưa mình
làm chủ, nay đã có người từ Bắc vào chiếm hữu! Thành phố nay có hai loại dân,
loại dân cũ gốc “ngụy” bị chèn ép đủ điều, và loại dân mới thuộc gốc “đảng”
đang làm cán bộ, công nhân viên nhà nước ở các ty sở đầy uy quyền thuộc giai
cấp ưu đãi của chế độ.
3.8.
Kế hoạch xuất cảng người
Dù
đã nhiều đợt thu vét tài sản của nhân dân miền Nam nhưng đảng tin rằng nhân dân
vẫn còn cất dấu một số lượng lớn tư trang, vàng bạc. Để tận thu số vàng này,
đảng cho người móc nối tổ chức những vụ xuất cảng người chính thức lẫn bán chính
thức.
Đợt
đi chính thức dành cho người Việt gốc Hoa, và những đợt đi bán chính thức dưới
dạng đi chui được Hải Quan và công an tỉnh bao che bán bãi. Trung bình mỗi
người phải mất từ 5 tới 10 cây vàng để ra đi, và trước khi ra đi họ phải thanh
toán nhiều thứ thuế do nhà nước đặt ra. Với những người đi chui, công an cho
theo dõi điều tra về khả năng tài chính. Và rất ít người ra đi một lần mà
thoát, thường bị bắt nhiều lần, mỗi lần bị bắt lại phải chạy vài cây vàng để
được tha về. Tất cả chỉ nhằm mục đích lấy hết vàng của lớp người ra đi.
Thực
chất của cuộc xuất cảng người là đảng nhằm vào các mục đích:
–
Vét hết số vàng trong dân để dân không còn phương tiện chống đối, mua trữ lương
thực, võ khí hoặc mua chuộc hủ hóa cán bộ qua mặt chính quyền.
–
Tống khứ được một số lượng người bất mãn khá lớn để làm giảm áp lực chống đối
trong nước, đỡ phải dùng công an canh chừng thường xuyên.
–
Riêng đối với Hoa kiều ở Chợ Lớn, đảng triệt hạ được mối nguy đạo quân thứ 5
trước khi có sự đụng độ chính thức về quân sự giữa VN và Khmer Đỏ (1978), VN và
Trung Cộng (1979).
Nhưng
cũng chính vì chính sách xuất cảng người đem lại một số lợi quá lớn nên các phe
nhóm đua nhau tổ chức vượt biên bán bãi để thu lợi riêng cho mình. Sự tự ý kinh
tài này đã đưa đến những đụng chạm phe nhóm gây cảnh phe làm phe phá, gài bẫy
giết hại nhau và đi đến việc chia vùng ảnh hưởng để làm ăn không lý gì đến luật
lệ quốc gia, đường lối của trung ương. Mỗi phe phái hùng cứ một địa phương với
đủ quyền sinh sát như một sứ quân.
Đã
có hơn 1 triệu 500 ngàn người vượt biên và đến được bến bờ Tự Do, được định cư
ở các quốc gia trên khắp thế giới. Nhưng cũng đã có gần một triệu người chết vì
vượt biên. Họ chết vì hải tặc cướp của, hãm hiếp rồi thủ tiêu. Họ chết vì bão
tố trên đại dương. Họ chết vì đói khát, vì trôi dạt vào hoang đảo... Lý do của
những người bỏ nước ra đi thường được phân làm hai loại: vì chính trị và vì
kinh tế. Tuy nhiên hãy nhìn vào thực tế để tìm hiểu tại sao họ ra đi. Ra đi vì
họ không có những điều kiện căn bản tối thiểu để sống như Con Người theo tiêu
chuẩn qui định của thời đại. Trước hết chúng ta phải Là Người, có bản chất
Người mới có thể Làm Người để Thành Người. Súc vật dù sống vạn triệu tỷ năm
cũng không thể Thành Người. Dưới sự lãnh đạo của đảng CSVN, con người bị dìm
xuống ngang hang súc vật để làm súc vật và thành súc vật. Chế độ phi nhân và vô
luân này có thể tồn tại được trên quê hương VN chúng ta là vì có sự tiếp tay
của những ác thế lực quốc tế, là vì sự ấu trĩ, thờ ơ, u tối của những người có
trách nhiệm ở tầm mức quốc gia cũng như trên bình diện quốc tế. Dân tộc Pháp
hãnh diện về một nền văn hóa nhân bản mà điểm sáng chói là cuộc Cách Mạng Dân
Quyền 1789. Nhưng chính quyền Pháp lại là chính phủ đã trợ giúp kéo dài sự tồn
tại của chế độ độc tài ở VN. Nhân dân Hoa Kỳ tự hào về một nền văn hóa khai
phóng nhân chủ xây dựng trên cuộc Cách Mạng Nhân Quyền 1862 làm khuôn mẫu cho
toàn thế giới nhưng chính phủ Hoa Kỳ cũng lại là chính phủ có trách nhiệm nhiều
nhất về sự thống khổ triền miên của dân tộc Việt Nam.
Tự
Do, Bình Đẳng, Bác Ái, Công Lý, và Lương Tâm Nhân Loại được nói tới như một
chiêu bài để thực hiện thủ đoạn chính trị hay được giương cao như một đuốc
thiêng lý tưởng để hòa hợp loài người trong tiến trình thống nhất thế giới?!
Nếu là chiêu bài thì chẳng có gì đáng nói. Nhưng nếu là lý tưởng thì cần phải
được chứng minh bằng những hành động cụ thể và thiết thực hơn nữa!
3.9.
Nạn Mãi Dâm và việc xuất cảng phụ nữ
Người
CS đã tố cáo miền Nam là một xã hội phồn vinh giả tạo dựng trên nền văn hóa lai
căng đồi trụy, đầy dẫy những tệ trạng xì ke ma tuý, trộm cướp, đĩ điếm, tham
nhũng. Đó là một nhận xét đúng về một xã hội đang tan rã. Nhưng sau khi tiếp
quản miền Nam họ đã làm gì để giáo dục quần chúng, cải tạo con người và xã
hội?!
Những
trại cải tạo sản xuất dành cho những người xì ke ma túy, những trung tâm Phục
Hồi Nhân Phẩm dành cho gái mãi dâm được mở ra dưới dạng thức nông trường tập
thể đã không giải quyết được vấn đề, cho nên tuy miền Nam nghèo đi, xơ xác hơn
xưa nhiều, nhưng tại các đô thị, tỉnh, những tệ trạng của thời “Mỹ Ngụy” vẫn
tồn tại và còn gia tăng hơn xưa! Sài Gòn đã bị người CS gọi là “động
điếm lớn của miền Nam” với “500 ngàn gái mãi dâm để phục vụ
đội quân Mỹ và lính đánh thuê ngụy quân ngụy quyền” thì nay “Mỹ
đã cút, Ngụy đã nhào” nhưng sao số lượng gái mãi dâm vẫn như xưa và
còn hơn xưa vì nhu cầu ăn chơi của đảng, nhà nước CS được đưa thành quốc sách.
Tại Sài Gòn, số lượng khách sạn và vũ trường đã vượt xa chế độ cũ và còn đang
được dự trù xây thêm nữa để phù hợp với nhu cầu và tiêu chuẩn của nền “kinh tế
thị trường CS”, để chuẩn bị tiếp đón người ngoại quốc vào đầu tư kinh doanh.
Mãi dâm đã trở thành chủ điểm của quốc sách du lịch do đảng đề ra và tự tay
thực hiện qua những người thân tín, và VN đã nổi tiếng là nơi ăn chơi rẻ nhất
thế giới với thức ăn ngon lại với gái trẻ đẹp! Song song với hệ thống nhà hàng,
khách sạn được xây cất rầm rộ từ Bắc vào Nam là một hệ thống mãi dâm chằng chịt
do những tổ chức buôn bán phụ nữ điều hành với sự bao che của trung ương đảng
CS và địa phương. Việc xuất cảng hàng chục ngàn thiếu nữ qua các quốc gia Nhật,
Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Thái... là một dịch vụ tất nhiên, là hậu quả
của quốc sách “du lịch” do bọn “Tư Bản Đỏ” ngồi ở chính trị bộ hoạch định!
Hồ
Chí Minh từng tuyên bố: “Đánh thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng lại đất nước
mười phần to đẹp hơn, đàng hoàng hơn”để trấn an nhân dân về hậu quả khốc
liệt của chiến tranh và củng cố niềm tin của nhân dân vào đảng CS.
Nhưng
sau 17 năm làm chủ đất nước (1975- 1992), đảng đã thi hành nhiều chương trình,
nhiều đợt sửa sai mà quê hương vẫn tan hoang, đồng bào vẫn nghèo đói. Giặc đói,
giặc dốt, giặc bệnh tật càng ngày càng bành trướng, dân trí thêm u tối, dân
tình thêm ly tán và VN đã trở thành một trong mười quốc gia nghèo đói lạc hậu
nhất thế giới dù có đủ những điều kiện thuận lợi về đất đai, ruộng vườn phì
nhiêu, hầm mỏ quí, về dân số với hơn 60 triệu người lao động cần cù.
Người
CS đã thành công trong chiến tranh nhưng đã thất bại trong hòa bình! Bản chất
của chiến tranh là phá hoại bằng bạo lực, là chết chóc, tổn hao xương máu chiến
sĩ và đồng bào. Nhưng mục đích tối hậu của chiến tranh là cực độ của nhân ái để
xây dựng lại Tổ Quốc, gây dựng lại giống nòi theo những khuôn mẫu tuyệt hảo
trong điều kiện lý tưởng của hoà bình!
Thất
bại trong hòa bình là dấu hiệu rõ rệt nhất tố cáo sự bất tài của giới lãnh đạo
và sự tồn tại lỗi thời của đảng CS trong một hoàn cảnh đã đổi thay với những
nhiệm vụ lịch sử nặng, khó hơn trước. Người Quốc Gia đã mất một cơ hội làm lịch
sử từ 1945 đến nay nhưng người CS cũng đã thất bại trong việc chứng tỏ tài năng
từ 1975 đến nay.
Để
bào chữa, người CS thường tố cáo sự phá hoại của địch ngoài, thù trong, chính
sách cấm vận của Hoa Kỳ và sự chống đối của “tàn dư Mỹ-Ngụy”. Điều đó không
đúng. Với chính sách “bắt lầm hơn bỏ sót”, với hệ thống trại tù,
trại lao động sản xuất, khu kinh tế mới, với hệ thống công an quyền uy tuyệt
đối, không một sự chống đối nào có thể tồn tại nếu không có sự tiếp tay của
chính những người CS. Với sự tan rã của khối CS Đông Âu, Liên Sô, sự lỗi thời
của chủ thuyết Marx, sự hạ bệ các lãnh tụ thần tượng cũ, kể cả Lenin... đã làm
cho chính người CSVN bừng tỉnh, bàng hoàng. Sự phản tỉnh của toàn dân và các
cấp thừa hành trong quân đội cũng như trong đảng đã tạo ra thế Địch Hòa: chán
đảng, khinh lãnh đạo và chờ đợi một sự đổi thay! Còn sự cấm vận của Hoa Kỳ thì
tuy có trên hình thức nhưng không hữu hiệu, bằng chứng là đã có nhiều quốc gia
đồng minh của Hoa Kỳ vi phạm lệnh cấm vận để đầu tư vào VN kiếm lời! Trong
chính trị không có tình cảm, đồng minh hay kẻ thù, mà chỉ có quyền lợi!
Thất
bại trong hòa bình còn tố cáo đảng CSVN là công cụ của Đệ Tam Quốc Tế CS và các
lãnh tụ CSVN là tay sai ngoại bang được ủy nhiệm để thi hành “nghĩa vụ quốc
tế”, đã đưa dân tộc vào vòng sát hủy của bom đạn để giải quyết những xung đột
quyền lợi của các 20 Mặt Trận Cách Mạng Hưng Phục Việt ác thế lực quốc tế. Họ
chỉ biết đến quyền của cá nhân, đến lợi của giòng họ và phe nhóm trong đảng
miễn sao họ được hống hách, ănngon mặc đẹp, còn để cả một dân tộc tàn lụi trôi
dạt tới bờ vực thẳm của diệt vong! Đó là lý do giải thích sự hủy thể của đảng
CSVN, để đi từ vị trí công đảng, đấu tranh vì quyền lợi của Nước
Nòi, sang công cụ đảng làm công tác ủy nhiệm của Đệ Tam Quốc
Tế và biến thành tư đảng của bè lũ Tư Bản Đỏ trong bộ chính
trị, một loại băng đảng tội ác, cướp của giết người, vơ vét tài sản của quốc
gia và nhân dân!
3.10.
Phong Trào Bán Nhà Bán Đất cho ngoại quốc
Thấy
được sự lỗi thời của chủ thuyết Marx, nhìn rõ sự đổ vỡ của Liên Sô và CS Đông
Âu, người CSVN với đặc tính cuồng tín và giáođiều đã tự hủ hóa để trở thành bọn
cơ hội chủ nghĩa trong thực tế xã hội VN. Nhìn được ngày tàn của chế độ, các Tư
Bản Đỏ trong chính trị bộ tính chuyện tháo thân, bảo toàn lấy người và của.
“Dân Chủ Đa Nguyên” chỉ là một thủ đoạn của những ác thế lực quốc tế muốn giúp
Hà Nội chuyển quyền một cách êm thắm dưới ảnh hưởng của các thế lực chống Mỹ.
Đảng CSVN đã quyết định bán nhà cửa đất đai ở các thành phố lớn, Hà Nội, Sài
Gòn, Vũng Tầu và nhiều khu đất, khu mỏ trên khắp nước cho các công ty ngoại
quốc để lấy những số tiền lớn chia chác nhau.
Sự
kiện này có một toan tính rõ rệt: đặt chế độ chuyển tiếp trước một sự kiện đã
rồi không thể lật ngược lại; sự thống trị kinh tế của các thế lực quốc tế qua
hệ thống cơ xưởng sản xuất kỹ nghệ, thương mại trên nước ta sẽ biến VN thành
“tô giới” – một hình thức thuộc địa – của các quốc gia tư bản. Và xin hãy nhớ,
sự nô lệ trên phương diện kinh tế nguy hiểm thập phần hơn sự lệ thuộc chính
trị. Với số tiền vơ vét của nhân dân được chuyển ra cất dấu tại các quốc gia tự
do trên khắp thế giới, Tư Bản Đỏ sẽ bỏ tiền ra mua lại các cổ phần của các cơ
xưởng ngoại bang với giá cao hơn xưa để trở lại VN lũng đoạn đất nước dân tộc
một lần nữa dưới hình thức tài phiệt. Đây là hình thức “giặt tiền” money
laundering của các tổ chức tội ác trên thế giới thường dùng!
Bọn
Tư Bản Đỏ và bè lũ thân tín mưu tính tồn tại và hưởng thụ, các thế lực quốc tế
mưu tính để thủ lợi. Nhưng dân tộc Việt Nam cũng mưu tính để làm một cuộc đại
Cách Mạng giải quyết một cách triệt để, toàn diện và hướng thượng mọi vấn đề
liên quan tới các mặt Dân Tộc, Dân Quyền và Dân Sinh.
3.11.
Tiến trình Phản Tỉnh của Dân Tộc Việt Nam về kẻ thù Cộng Sản
Chủ
thuyết Marxist-Leninist là một tà thuyết nhằm phục vụ cho âm mưu thành lập Đế
Quốc Nga dưới một hình thức mới để thống trị và bóc lột các quốc gia nhỏ yếu
trên thế giới. Lý tưởng đấu tranh cho giới vô sản nghèo đói trên thế giới chỉ
là một chiêu bài được dùng để lừa gạt những nạn nhân đang bị đế quốc thực dân
bóc lột. Vì lòng căm thù cao độ đối với kẻ thù trước mặt mà nhiều người đã liều
lĩnh chấp nhận cả việc bán linh hồn cho quỉ đỏ, để rồi lỡ bước sa chân, ôm hận
suốt đời với cảnh “tái nô dịch chủ” tiếp tục kiếp ngựa trâu
dưới quyền ông chủ mới, tàn ác keo bẩn hơn chủ cũ gấp bội phần. Đó là cái lầm
to của thế kỷ!
Khởi
điểm của đoạn đường bi thảm mà dân tộc ta đang thoát vượt đã nằm trong quá khứ
xa vời của thời Đông Du ở đầu thế kỷ này. Ngày Hồ Chí Minh, lúc đó mang tên
Nguyễn Ái Quốc, khi “giác ngộ” chủ nghĩa CS đã la lớn trong đêm vắng: “Đây
rồi con đường giải phóng dân tộc (sic)” cũng là thời điểm báo hiệu một
chu kỳ đau thương sẽ đến và kéo dài trên quê hương chúng ta. Hồ Chí Minh không
phải là người đầu tiên ăn phải... cháo lú để quên nước nòi, trở thành đảng viên
CS phục vụ cho Đệ Tam Quốc Tế, nhưng lại là phần tử trung kiên và có công nhất
với tổ chức này khi thành công đưa cả một dân tộc vào quĩ đạo CS, phục vụ quyền
lợi đế quốc Nga dưới một chiêu bài hào nhoáng: làm nghĩa vụ quốc tế.
Người
đầu tiên trong giới đấu tranh của phong trào Đông Du nhìn được âm mưu của các
thế lực đế quốc chèn ép nhau qua chiêu bài chủ thuyết là nhà cách mạng lão
thành Sào Nam Phan Bội Châu. Để cảnh tỉnh các đồng chí về hiểm họa vong thân,
Cụ Phan đã nói một câu đơn giản mà sâu sắc: “Dân chẳng duy tâm, dân
chẳng duy vật, dân chỉ duy dân”. Nhưng cũng chỉ vì lời nói chí tình phản
ảnh truyền thống nhân bản dân tộc mà Cụ bị phản bội bán đứng cho mật thám Tây!
Do
đó những người phản tỉnh sớm nhất về CS là các thành phần đảng phái đã từng có
kinh nghiệm đớn đau về kẻ thù. Ngoài ra tất cả đều mù mờ về bản chất của chủ
thuyết lẫn tâm địa của bọn lãnh tụ qua lý luận ấu trĩ “cộng sản thì
cũng yêu nước chống thực dân vậy”!
Thành
thật luận xét, ngay trong hàng ngũ đấu tranh của phía Quốc Gia gồm cả lãnh tụ
chính đảng, chính khách, nhân sĩ cũng chưa triệt để phản tỉnh về kẻ thù CS. Họ
vẫn còn lấn cấn tình cảm, không dứt khoát lập trường để nhìn xa trông rộng,
thẳng tay tiêu diệt kẻ thù. Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Cách (Việt Nam Cách
Mệnh Đồng Minh Hội) đã đứng ra bảo lãnh cho Hồ Chí Minh khi Hồ bị Quốc Dân Đảng
Trung Hoa bắt giam. Trần Trọng Kim, Thủ Tướng chính phủ, đã đứng ra vận động
Nhật để xin tha cho các cán bộ CS bị Nhật bắt giữ. Bà Cả Tề, một nhân sĩ Bắc
Hà, đã từng lặn lội đi thăm nuôi các đảng viên CS cao cấp bị Pháp bắt giam ở
các trại tù mạn ngược. Họ không nghĩ rằng đó là hành động “dưỡng hổ di
họa”, nuôi cọp để bị cọp vồ.
Năm
1954, gần 1 triệu người bỏ miền Bắc vào Nam để chọn tự do. Nhưng ngược lại miền
Nam cũng có gần 400 ngàn người ra Bắc tập kết. Đó là chưa kể con số ở lại nằm
vùng phá hoại và một đại khối có cảm tình với kẻ thù CS vì sự ngộ nhận người CS
là những người yêu nước.
Người
dân miền Bắc chỉ thực sự phản tỉnh khi sống dưới chế độ CS. Nhưng mọi hình thức
chống đối đều bị đàn áp không nương tay. Vụ Nhân Văn – Giai Phẩm của
giới văn nghệ sĩ kháng chiến, vụ Quỳnh Lưu khởi nghĩa của nông
dân đều được giải quyết nhanh gọn bằng súng đạn và sau đó bằng những bản án tù
đầy.
Người
dân miền Nam cũng chỉ thực sự phản tỉnh sau khi họ sống dưới chế độ CS. Tất cả
đều bị lừa dối bằng một âm mưu thâm độc có lớp lang hẳn hòi. Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam, công cụ xâm lược miền Nam của Hà Nội cũng bị giải tán và lãng
quên như những con múa rối, sau buổi trình diễn bị ném vào xó tối. Những trại
tù cải tạo, những vùng kinh tế mới và một đời sống cơ cực tủi hờn là giá phải
trả của một dân tộc vì sự ấu trĩ, thờ ơ, u tối đã không nhìn ra bản chất thực
của kẻ thù.
Tuy
nhiên nếu quan niệm kinh nghiệm bản thân là điều kiện cần thiết để giác ngộ thì
cả một dân tộc đã có điều kiện để phản tỉnh một cách toàn diện và triệt để về
kẻ thù CS để quyết định phải làm một cái gì trước khi quá muộn.
4.
Sự Phục Hoạt của nòi Việt trong một cuộc Cách Mạng Triệt Để, Toàn Diện và Hướng
Thượng
Phải
mất gần một thế kỷ để dân tộc ta phản tỉnh một cách triệt để và toàn diện về
Bạn, về Thù, và về chính Ta để nhận ra nguyên tắc chỉ đạo trong chính trị: Ta
là chính, Bạn và Thù đều là tùy phụ! Ta chính là khởi điểm của đấu
tranh để sống, còn, nối, tiếp, tiến, hóa và Ta cũng là đích điểm của đấu tranh
trong tiến trình Là Người, Làm Người, Thành Người! Để đạt đích điểm này, Tổ
Tiên Việt cũng đã để lại những phương thức mà sự quan trọng chủ yếu nằm trong
chữ Tự Lực để Tự Thắng rồi Tự Cườngđể đạt Tự Dotrong
tinh thần Tự Chủ!
Huyền
thoại “tình hữu nghị xã hội chủ nghĩa” đã đổ vỡ khi chiến
tranh xẩy ra giữa những nước anh em như CSVN và CS Tầu (1979).
Huyền
thoại “đồng minh trong khối tự do” cũng đã tan biến khi miền
Nam bị Hoa Kỳ bỏ rơi, bàn giao cho Hà Nội, với thân phận của một con chốt thí
(1975).
Nhờ
có phản tỉnh, do những đớn đau, bẽ bàng, tủi nhục, ê chề kích thích mà người
Việt đã trở về với bản vị nước nòi, làm một lựa chọn đúng đắn: “Tắm ở
ao nhà!”
Trước
hiện tình của Dân Tộc và Tổ Quốc, cách mạng nhất định phải xẩy ra như một tất
yếu lịch sử, bằng sức mạnh của đại khối dân tộc 98% tạo ra sóng đáy để
phá vỡ những đê bờ ngăn chặn và cuốn trôi đi những rác rến bẩn thỉu thống trị
trên mặt tầng ở đó có tập đoàn CS nay đã trở thành những tay Tư Bản Đỏ và những
tên thời cơ chủ nghĩa, hoạt đầu, sẵn sàng làm tay sai cho ngoại bang, cho kẻ
thù. Cách mạng phải được hướng dẫn bằng những tư tưởng cao đẹp, những khuôn mẫu
trọn hảo của một nền văn hóa có ảnh hưởng trong sự kết buộc đại khối quần chúng
thành một lực, thống nhất dưới một ngọn cờ, một lãnh đạo. Và ở trường hợp VN này,
nền văn hóa truyền thống của dân tộc hòa hài tình nghĩa để chính đáng yêu mình,
độ lượng yêu người cộng với tinh thần khoa học, khai phóng của thời đại, sẽ là
nền tảng vững chắc của một lập trường Việt làm trục cho những dự kế trong cả
hai tầng phá và xây theo đúng ba phẩm tính toàn diện, triệt để và hướng thượng
của một cuộc cách mạng bao gồm mọi vấn đề Dân Tộc, Dân Sinh và Dân Quyền.
Tầng
phá sẽ gồm có phá địch ngoài, phá thù trong, phá những tồn tại lỗi thời của xã
hội đã qua, phá những hận thù làm chia ly dân tộc, phá những ngộ nhận làm xa cách
anh em, phá những mặc cảm thấp hèn, thua kém ở lòng ta, phá những cố chấp tự
tôn, ngạo mạn ở long người, và xây đắp những khuôn mẫu tuyệt vời không những
cho Ta mà còn chung cho cả loài người yếu, ở đủ mọi tầng cấp: Dân – Nước, Cá
Nhân – Nhân Loại.
—
Lý Tưởng cao đẹp của Nhân Loại là Thống Nhất trong Bình Đẳng.
—
Mục đích thực tế của Quốc Gia Dân Tộc là Độc Lập trong Thịnh Vượng.
—
Mơ ước bình thường của con người là Tự Do và Hạnh Phúc.
Đó
phải là những gì chúng ta phải xây đắp với tư cách là dân của nước Việt Nam, là
con của một nòi tình có một trái tim vĩ đại biết yêu thương, biết uất hận nhưng
cũng biết dung thứ trước những hối cải ăn năn của thù xưa, của bạn cũ và của
rất nhiều những phản bội không tên đã được ngụy trang chôn dấu trên con đường
tiến hóa mà dân tộc ta đi, trong đời sống cá nhân mà chúng ta sống.
Và
đó là những gì mà chúng ta phải xây đắp bằng rất nhiều máu, máu của hy sinh
dâng hiến và rất nhiều nước mắt, nước mắt của yêu thương, tình nghĩa, chứ không
phải chỉ bằng bạo lực của bom đạn vô hồn.
Hoa Kỳ, tháng 6/1992
Mặt Trận Cách Mạng Hưng
Phục Việt
10
toi ac cua dang cong san viet nam - Ten Commentaries on Communist Pa
http://www.youtube.com/watch?v=auX6h2kZg3U
Tội Ác Của Hồ
Chí Minh & Đảng Cộng Sản Việt Nam
1949-1956 :
Năm đợt Cài Cách Ruộng Đất : 500 ngàn nạn nhân ;
1954 : Gần 1 Triệu người đã bỏ Tất Cả để vào Nam tìm Tự Do ;
1958 : Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng gởi công hàm thừa nhận yêu sách của TC về Biển Đông và 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa ;
1968 : Tấn công Tết Mậu Thân. Hơn 14000 nạn nhân dân sự, trong số hơn 2000 người bị chôn sống ;
1974 : Với sự đồng loã của nhà cầm quyền Hà Nội, TC cưỡng chiếm Hoàng Sa của VNCH ;
1975 : - Cưỡng chiếm Miền Nam, 2 năm sau khi đã ký Hiệp Định Hoà Binh Paris,
- Trại Tù « Cải Tạo », nửa triệu tù nhân khổ sai, hàng chục ngàn thiệt mạng ;
1975-1985 : Hơn 1 triệu 750 người trốn khỏi Việt Nam (3, 4 trăm ngàn tử nạn) ;
1979 : Chiến tranh giữa Việt Nam và TC, hàng chục ngàn dân Việt mạng vong ;
1999-2000 : Hai Hiệp Ước, ký lén lút, nhượng Đất Biển của Tổ Quốc cho TC (vùng biên giới và hầu như toàn bộ Biển Đông, với 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa) ; Đến ngày hôm nay, vẫn chưa có Hiệp Ước hoặc bản đồ nào được công bố ...
1954 : Gần 1 Triệu người đã bỏ Tất Cả để vào Nam tìm Tự Do ;
1958 : Theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng gởi công hàm thừa nhận yêu sách của TC về Biển Đông và 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa ;
1968 : Tấn công Tết Mậu Thân. Hơn 14000 nạn nhân dân sự, trong số hơn 2000 người bị chôn sống ;
1974 : Với sự đồng loã của nhà cầm quyền Hà Nội, TC cưỡng chiếm Hoàng Sa của VNCH ;
1975 : - Cưỡng chiếm Miền Nam, 2 năm sau khi đã ký Hiệp Định Hoà Binh Paris,
- Trại Tù « Cải Tạo », nửa triệu tù nhân khổ sai, hàng chục ngàn thiệt mạng ;
1975-1985 : Hơn 1 triệu 750 người trốn khỏi Việt Nam (3, 4 trăm ngàn tử nạn) ;
1979 : Chiến tranh giữa Việt Nam và TC, hàng chục ngàn dân Việt mạng vong ;
1999-2000 : Hai Hiệp Ước, ký lén lút, nhượng Đất Biển của Tổ Quốc cho TC (vùng biên giới và hầu như toàn bộ Biển Đông, với 2 Quần Đảo Hoàng Sa & Trường Sa) ; Đến ngày hôm nay, vẫn chưa có Hiệp Ước hoặc bản đồ nào được công bố ...
Tóm lại, kể từ
1945, « chiến tranh giải phóng » của HCM và đảng CSVN đã sát hại hơn
3 triệu (*) người Việt Nam (*) Pierre Darcourt, Ed Albatros, Paris, 1976 : Viet
Nam, Qu'as-tu fait de tes Fils ? Việt Nam, nguơi đã làm gì với đàn con ?).
Dẫn tới tình
trạng hiện tại :
- Mất hầu như
toàn bộ Biển Đông, và một phần khu biên giới phía Bắc ;
- Đại đa số dân chúng sống nghèo khổ mặc dù đã 35 năm hoà bình thống nhứt ;
- Ngư phủ Việt Nam bị TC khủng bố trắng trợn, đàn áp thẳng tay, thậm chí sát hại trong khu vực đánh cá truyền thống tổ tiên, trước sự im lặng dửng dưng của nhà cầm quyền ;
- Đàn áp thô bạo người bất đồng chính kiến, tín đồ tôn giáo không « quốc doanh » ;
- Về tự do biểu lộ tư tưởng, năm 2009, « Phóng Viên Không Biên Giới »
đã xếp Việt Nam vào hạng thứ 166 trong số 175 quốc gia trên thế giới ;
- Buôn bán trẻ em, buôn bán phụ nữ để làm nô lệ tình dục ;
- Xuất cảng lao động rẻ tiền (thực chất là nô lệ) khắp thế giới ;
- Cho TC (kẻ thù truyền kiếp) « thuê » nhiều vùng đất đai chiến lược của Tổ Quốc ; để khai thác bauxite (vô cùng ô nhiễm), với nhân công TC nhập cảnh tự do ...
- Cán bộ đảng CSVN trở thành triệu triệu phú USD, với 1 số không nhỏ là tỷ phú ;
- Văn Hoá sa sút, Tàu hoá ; Xã Hội đồi truỵ, chạy theo vật chất bằng mọi giá ...
- Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo khổ nhất thế giới, vẫn van xin quốc tế trợ giúp ...
- Đại đa số dân chúng sống nghèo khổ mặc dù đã 35 năm hoà bình thống nhứt ;
- Ngư phủ Việt Nam bị TC khủng bố trắng trợn, đàn áp thẳng tay, thậm chí sát hại trong khu vực đánh cá truyền thống tổ tiên, trước sự im lặng dửng dưng của nhà cầm quyền ;
- Đàn áp thô bạo người bất đồng chính kiến, tín đồ tôn giáo không « quốc doanh » ;
- Về tự do biểu lộ tư tưởng, năm 2009, « Phóng Viên Không Biên Giới »
đã xếp Việt Nam vào hạng thứ 166 trong số 175 quốc gia trên thế giới ;
- Buôn bán trẻ em, buôn bán phụ nữ để làm nô lệ tình dục ;
- Xuất cảng lao động rẻ tiền (thực chất là nô lệ) khắp thế giới ;
- Cho TC (kẻ thù truyền kiếp) « thuê » nhiều vùng đất đai chiến lược của Tổ Quốc ; để khai thác bauxite (vô cùng ô nhiễm), với nhân công TC nhập cảnh tự do ...
- Cán bộ đảng CSVN trở thành triệu triệu phú USD, với 1 số không nhỏ là tỷ phú ;
- Văn Hoá sa sút, Tàu hoá ; Xã Hội đồi truỵ, chạy theo vật chất bằng mọi giá ...
- Việt Nam vẫn thuộc những nước nghèo khổ nhất thế giới, vẫn van xin quốc tế trợ giúp ...
* * * * *
Les Crimes De
Ho Chi Minh & De Son Parti Communiste
1949-1956 : Cinq
vagues de Réforme Agraire – 500 000 victimes
1954 : Près d’un million de Nord Vietnamiens ont tout quitté pour La Liberté dans le Sud ;
1958 : Lettre Officielle de Pham Van Dông, sous la houlette de Hô Chi Minh, approuvant les revendications de la Chine sur la Mer de L’Est avec les Iles Paracel et Spratley ;
1968 : Offensive du Têt – Plus de 14000 victimes civiles dont plus de 2000 enterrés vivants à Huê ;
1974 : avec la complicité du gouvernement de HaNoi, la Chine envahit l’archipel Paracel de la République du Sud Viet Nam ;
1975 : - Invasion du Sud VN 2 ans après le Traité de Paix de Paris ;
- Camps de concentration : 1/2 million de prisonniers, des dizaines de milliers de morts …
1975-1985 : Plus de 1,7 million ont réussi à fuir le VN (3 ou 4 cent mille ont péri) ;
1979 : guerre entre 2 régimes communistes (Le VN et la Chine) - des dizaines de milliers de victimes ;
1999 et 2000 : traités, signés en secret, cédant du territoire national à la Chine, (des zones frontalières du Nord, la quasi-totalité de la Mer de l’Est avec les archipels Paracel, Spratley) ; A cette date, aucun traité n’est divulgué, aucune carte n’est publiée …
1954 : Près d’un million de Nord Vietnamiens ont tout quitté pour La Liberté dans le Sud ;
1958 : Lettre Officielle de Pham Van Dông, sous la houlette de Hô Chi Minh, approuvant les revendications de la Chine sur la Mer de L’Est avec les Iles Paracel et Spratley ;
1968 : Offensive du Têt – Plus de 14000 victimes civiles dont plus de 2000 enterrés vivants à Huê ;
1974 : avec la complicité du gouvernement de HaNoi, la Chine envahit l’archipel Paracel de la République du Sud Viet Nam ;
1975 : - Invasion du Sud VN 2 ans après le Traité de Paix de Paris ;
- Camps de concentration : 1/2 million de prisonniers, des dizaines de milliers de morts …
1975-1985 : Plus de 1,7 million ont réussi à fuir le VN (3 ou 4 cent mille ont péri) ;
1979 : guerre entre 2 régimes communistes (Le VN et la Chine) - des dizaines de milliers de victimes ;
1999 et 2000 : traités, signés en secret, cédant du territoire national à la Chine, (des zones frontalières du Nord, la quasi-totalité de la Mer de l’Est avec les archipels Paracel, Spratley) ; A cette date, aucun traité n’est divulgué, aucune carte n’est publiée …
Pour résumer,
depuis 1945, la « guerre de libération » de HCM et de son PCV a fait plus
de 3 millions (*) de victimes parmi la population vietnamienne
(*) Pierre Darcourt, Edition Albatros Paris 1976 : VietNam Qu’As-Tu Fait De Tes Fils ?
(*) Pierre Darcourt, Edition Albatros Paris 1976 : VietNam Qu’As-Tu Fait De Tes Fils ?
Pour arriver
à la situation actuelle :
- Perte de la
quasi-totalité de la Mer De L’Est et d’une partie de la zone frontalière ;
- La grande majorité de la population vit dans la pauvreté malgré 35 ans de paix absolue ;
- Des pêcheurs vietnamiens sont ouvertement terrorisés et même tués par l’armée chinoise, dans leurs zones de pêche ancestrales, sans aucune réaction de la part du VN ;
- Répression brutale des dissidents et des religieux n’appartenant pas aux organisations d’Etat (le VN est classé, en liberté d’expression, 166/175 par RSF en 2009) ;
- Traffic d’enfants, traffic de femmes pour l’esclavage sexuel ;
- Traffic de « main d’œuvre bon marché » (en réalité des esclaves) pour le monde entier ;
- « Location » des zones hautement stratégiques du Territoire National à la Chine (notre ennemi ancestral), qui exploite la bauxite (tragiquement polluante) avec sa propre main d’œuvre venue de Chine, librement …
- La grande majorité de la population vit dans la pauvreté malgré 35 ans de paix absolue ;
- Des pêcheurs vietnamiens sont ouvertement terrorisés et même tués par l’armée chinoise, dans leurs zones de pêche ancestrales, sans aucune réaction de la part du VN ;
- Répression brutale des dissidents et des religieux n’appartenant pas aux organisations d’Etat (le VN est classé, en liberté d’expression, 166/175 par RSF en 2009) ;
- Traffic d’enfants, traffic de femmes pour l’esclavage sexuel ;
- Traffic de « main d’œuvre bon marché » (en réalité des esclaves) pour le monde entier ;
- « Location » des zones hautement stratégiques du Territoire National à la Chine (notre ennemi ancestral), qui exploite la bauxite (tragiquement polluante) avec sa propre main d’œuvre venue de Chine, librement …
- Les cadres
du PCV sont devenus des multi-millionnaires en USD ;
- Déchéance sociale, décadence culturelle …
. Le ViêtNam est encore parmi les plus pauvres du monde, toujours mendiant l’assistance internationale …
- Déchéance sociale, décadence culturelle …
. Le ViêtNam est encore parmi les plus pauvres du monde, toujours mendiant l’assistance internationale …
* * * *
*
Crimes Committed By Ho Chi Minh & The Vietnamese Communist Party
Crimes Committed By Ho Chi Minh & The Vietnamese Communist Party
1949-1956 : Five
waves of agrarian reforms : 500000 victims ;
1954 : Almost 1 million people left Everything for Freedom in the South VietNam ;
1958 : Obeying Ho Chi Minh's decision, Pham Van Dong sent a letter officially approving the claims China made to the sea area in the East, including the islands Paracel and Spratley ;
1968 : Tet Offensive, more than 14000 civilians killed, and more than 2000 among them buried alive.
1974 : Acting in collusion with the Government of Hanoi, China invades
the archipelago Paracel belonging to the Republic of Viet Nam.
1975 : - Invasion of South Viet Nam two years after signing the Peace Treaty of Paris ;
- Concentration Camps, half a million prisoners, thousands and thousands died ;
1975-1985 : More than 1,7 million Vietnamese escaped out of their country (about 3 to 4 hundred thousand died in the sea, maybe more)
1979 : War between 2 communist regimes (VN and China), thousands and thousands lost their lives ;
1999-2000 : Treaties, signed secretly, yielding national territories to China (the frontier regions in the North, the quasi totality of the sea in the East including the archipelagos Paracel and Spratley. By then, not a treaty revealed, not a map published …
1954 : Almost 1 million people left Everything for Freedom in the South VietNam ;
1958 : Obeying Ho Chi Minh's decision, Pham Van Dong sent a letter officially approving the claims China made to the sea area in the East, including the islands Paracel and Spratley ;
1968 : Tet Offensive, more than 14000 civilians killed, and more than 2000 among them buried alive.
1974 : Acting in collusion with the Government of Hanoi, China invades
the archipelago Paracel belonging to the Republic of Viet Nam.
1975 : - Invasion of South Viet Nam two years after signing the Peace Treaty of Paris ;
- Concentration Camps, half a million prisoners, thousands and thousands died ;
1975-1985 : More than 1,7 million Vietnamese escaped out of their country (about 3 to 4 hundred thousand died in the sea, maybe more)
1979 : War between 2 communist regimes (VN and China), thousands and thousands lost their lives ;
1999-2000 : Treaties, signed secretly, yielding national territories to China (the frontier regions in the North, the quasi totality of the sea in the East including the archipelagos Paracel and Spratley. By then, not a treaty revealed, not a map published …
To sum up,
since 1945, “the war of liberation" carried out by Ho Chi
Minh and the Communist Party has created 3 M (*) victims cut off from the
whole population (Pierre Darcourt, Ed Albatros, Paris, 1976 ;
(*) Viet Nam, Qu'as-tu fait de tes fils ? (Viet Nam, What Have You Done to Your Sons ?)
(*) Viet Nam, Qu'as-tu fait de tes fils ? (Viet Nam, What Have You Done to Your Sons ?)
Leading to
the actual situation :
- Loss of
quasi totality of the sea region in the East and one part of the frontier
region ;
- The majority of the people live in poverty despite 35 years of absolute peace ;
- Vietnamese fishermen are openly maltreated, avowedly terrorized, and even killed by Chinese forces in the traditional fishing regions, Viet Nam kept quiet, showing no reaction ;
- Brutal repression to the political dissidents and religious believers, not belonging to the state’s organisations ;
- In its 2009 classification in regard to liberty of expression, RWF ranked VN166 among 175 nations in the world.
- Children trade, women trade for sexual slavery.
- Trade 'labourer cheap price' (in reality selling slaves) all over the world.
- “Leasing” entire strategical zones of the fatherland to China (our perennial enemies ), which is exploiting bauxite (very pollutant), with its own workers from the mainland, freely …
- The majority of the people live in poverty despite 35 years of absolute peace ;
- Vietnamese fishermen are openly maltreated, avowedly terrorized, and even killed by Chinese forces in the traditional fishing regions, Viet Nam kept quiet, showing no reaction ;
- Brutal repression to the political dissidents and religious believers, not belonging to the state’s organisations ;
- In its 2009 classification in regard to liberty of expression, RWF ranked VN166 among 175 nations in the world.
- Children trade, women trade for sexual slavery.
- Trade 'labourer cheap price' (in reality selling slaves) all over the world.
- “Leasing” entire strategical zones of the fatherland to China (our perennial enemies ), which is exploiting bauxite (very pollutant), with its own workers from the mainland, freely …
- The cadres
in the Communist Party become multi-millionaires in USD ;
- VN is still among the poorest countries in the world, always begging for international aid …
- VN is still among the poorest countries in the world, always begging for international aid …
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment