TỪ NHIỀU NĂM,
DOANH NHÂN & TRUYỀN
THÔNG
BÁO ĐỘNG XÂM LĂNG KINH
TẾ TQ
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh
tế
Geneva, 19.07.2011. Cập nhật
13.06.2013
Việc phá sản Kinh tế VN mà các
lãnh đạo đảng CSVN đã phải thú nhận lúc này có hai lý do chính yếu:
*
Lý do nội tại: đó là Mô hình Kinh tế gọi là định hướng XHCN. Khi mà độc
tài Chính trị nắm độc quyền Kinh tế thì tự nó phát sinh và lan tràn THAM NHŨNG,
LÃNG PHÍ ăn ruỗng nền Kinh tế quốc dân.
*
Lý do ngoại tại: đó là việc xâm lăng Kinh tế đến từ Trung Quốc mà CSVN lệ
thuộc về Chính trị, nên rất khó lòng chống lại cuộc xâm lăng này được.
Về lý do nội tại của Mô hình
Kinh tế, chúng tôi đã viết rất nhiều rồi. Bài viết hôm nay cho thấy tầm quan trọng
của cuộc xâm lăng Kinh tế từ Trung quốc mà chúng tôi đã có dịp báo động khẩn cấp
từ năm 2011 và hôm nay chúng tôi cập nhật bài này để cho thấy rằng việc ứ đọng
hàng hóa VN lúc này (2012/2013) là hệ quả trực tiếp của cuộc xâm lăng Kinh tế ấy.
Việt Nam phải đối diện với hai
cuộc Xâm lăng đến từ Trung quốc: (i) Xâm lăng Đất và Biển; (ii) Xâm lăng Kinh tế.
Trong những tháng gần đây, vấn
đề Biển Đông, việc tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa/ Trường Sa làm cho quần chúng
lưu ý đặc biệt và có thể vì đó mà chúng ta quên một phần về cuộc Xâm lăng Kinh
tế cực kỳ nguy hiểm vì nó biến Việt Nam thành một Tỉnh tiêu thụ và tái xuất cảng
cho hàng hóa Trung quốc đang ứ đọng.
Vấn đề Biển Đông có thể chuyển
mình qua những đàm phán đa phương và như vậy Việt Nam có thể đỡ một phần gánh nặng
vì có cả khối ASEAN, Nhật, Nam Hàn, Hoa kỳ và Ấn độ hỗ trợ, thì việc Xâm lăng
Kinh tế từ Trung quốc, Việt Nam phải chịu trận một mình. Quá lệ thuộc quyền
hành vào Trung quốc, CSVN đã theo lệnh của quan thầy để chấp nhận đàm phán song
phương, nghĩa là sang tận Bắc kinh để nhận chỉ thị, ngay cả chỉ thị về Việt
Nam đàn áp tất cả những ai vì lòng yêu nước mà lên tiếng phản đối quan thầy
Trung quốc.
Khi mà CSVN còn cố níu lấy quyền
hành do Trung quốc bảo trợ, thì cuộc Xâm lăng Kinh tế, hiện nay đã lan tràn, sẽ
tiến tới rất nhanh diệt hẳn Kinh tế Việt Nam đang èo ọt tụt dốc.
Viết bài này về Xâm lăng Kinh
tế Trung quốc, chúng tôi muốn nói đến con đường mà CSVN đang đưa Đất Nước đến
tình trạng một Tỉnh tiêu thụ và tái xuất cảng cho Trung quốc.
Chúng tôi đề cập đến những điểm
sau đây trong bài này:
=>
2006: Việt Nam vào WTO / OMC với nguy hiểm bị xâm lăng Kinh tế
=>
2009: Từ huênh hoang Công nghệ hóa đến chấp nhận phân phối hàng hóa TQ
=>
2009 & 2010: Doanh nhân và Truyền thông VN tuyên chiến với hàng hóa
TQ
=>
2011: Xâm lăng Kinh tế TQ thành nguy ngập cho Kinh tế VN
=>
2012 & 2013: Lãnh đạo đảng xác nhận tình trạng phá sản Kinh tế quốc dân
2006:Việt Nam vào
WTO/OMC
với nguy hiểm bị xâm
lăng Kinh tế
Trước khi Việt Nam vào WTO, đài Phát Thanh
RFI (Radio France Internationale) đã phỏng vấn chúng tôi ngày 04.05.2005 nhân
Liên Âu và Hoa ky đưa ra những biện pháp ngăn chặn xâm lăng của Hàng May Dệt
Trung quốc làm thiệt hại cho ngành nghiệp này tại Liên Âu và Hoa kỳ.
Thực vậy, Trung quốc vào WTO từ năm 2001,
tuy nhiên Hoa kỳ và Liên Au vốn giữ vấn đề Quotas đối với Trung Cộng. Nhưng sau
khi vấn đề Quotas được bỏ đi kể từ năm 2005, Trung Cộng đã xuất cảng ào ạt hàng
May Dệt sang Hoa kỳ và Liên Au. Vì quyền lợi của mình, Hoa kỳ và Liên Au đã phản
ứng để ngăn chặn Tsumani hàng May Dệt này ngay trong khuôn khổ của Tự do Mậu dịch
WTO/OMC. Đây là một trong những tỉ dụ mà người ta sẵn sàng vì quyền lợi Quốc
gia mà bỏ những điều đã ký kết. Từ tháng tư 2005, Hoa kỳ và Liên Au phải
lấy những quyết định phản ứng mạnh để ngăn chặn Tsumani này từ Trung Cộng.
Ngành May Dệt tại Hoa kỳ và Liên Âu đã có
truyền thống lâu đời và đã trưởng thành, nhưng trước Tsumani xâm lăng của Trung
quốc, Hoa kỳ và Liên Âu phải đưa ra những Biện pháp giá biểu quan thuế cũng như
không giá biểu để chống lại (Mesures Tarifaire et non-Tarifaire). Đây là cái
quyền tự vệ khi mà mình cảm thấy bị thiệt hại. Tự do Mậu dịch là một lý tưởng nếu
hai phía cùng có sức mạnh tương đương. Việc Bảo vệ Mậu dịch được phép, nhất là
cho những ngành nghiệp mới phát sinh và trên đà phát triển (Protectionnisme des
Industries naissantes).
Việt Nam mới chập chững mở cửa để bắt đầu
hội nhập với Mậu dịch Thế giới. Thất bại về Kinh tế tập quyền chỉ huy (Economie
centralisée et dirigiste), Việt Nam gặp đói nghèo, đành phải mở cửa và chấp nhận
Kinh tế gọi là “Tự do Thị trường định hướng XHCH”, một thứ Kinh tế Tự do Thị
trường tréo cẳng ngỗng, nghĩa là nhà nước độc tài vẫn nắm “chụ đạo“ Kinh tế. Hệ
thống sản xuất và Thương mại vẫn nằm trong tay những Tập đoàn quốc doanh do người
của đảng nắm giữ. Sản xuất còn yếu kém, nhưng đảng CSVN vẫn mơ mộng rằng vào
WTO là đi hốt bạc ngay tức khắc.
Chính việc để tự do mậu dịch này trong
tình trạng mình còn yếu sức sản xuất và cạnh tranh đã làm Việt Nam thành mồi
ngon cho những hàng hóa nước ngoài tràn vào xâm chiếm. Vì còn là đầy tớ của
Trung cộng nữa, nên hàng hóa, thương nhân và công nhân Trung quốc vào Việt Nam
như chỗ không người để cạnh tranh.
2009: Từ huênh hoang
Công nghệ hóa
đến chấp nhận Phân
phối hàng Trung quốc
Chúng tôi đã viết bài về thảm cảnh này
ngày 02.07.2009, nghĩa là 3 năm sau khi Việt Nam vào WTO.
Nhà Nước CSVN vẫn huênh hoang
chương trình vĩ mô Công Nghệ hóa Kinh tế Việt Nam. Dưới chiêu bài này, những Dự
án, những Khu chế xuất có quyền ưu tiên tịch thu đất trồng cấy khiến Nông nghiệp
thiệt hại. Nhà Nước hy sinh Nông nghiệp, một căn bản sẵn có và truyền thống
của đại đa số Dân Việt sinh sống.
Vì quá lệ thuộc vào
Trung quốc để bảo đảm quyền lực Chính trị, đảng CSVN đang biến cái gọi là Công
nghệ hóa thành thảm cảnh tổ chức phân phối cho hàng hóa Trung quốc.
Thực vậy, CSVN để tự do
nhập nội hàng hóa Trung quốc. Tại Thị trường hàng hóa, hai yêu tố cạnh tranh chủ
yếu là GIÁ CẢ và PHẨM CHẤT (Prix et Qualité) của món hàng.
Giá cả hàng Trung quốc
rẻ hơn
Giá bán tùy thuộc vào giá thành sản xuất. Hệ
thống sản xuất công/ kỹ nghệ ngày nay là hệ thống những linh kiện cấu thành món
hàng cuối cùng. Đó là hệ thống liên đới sản xuất những bộ phận cấu thành
(système de sous-traitance des pìeces détachées). Món hàng cuối củng sẵn sàng
cho tiêu thụ chỉ là việc ráp nối (assemblage) những bộ phận. Không một Công ty
nào sản xuất tòan bộ những bộ phận cấu thành món hàng cuối cùng. Đây không phải
là việc bất lực về khả năng, mà là vì giá thành của món hàng cuối cùng sẽ tăng
lên gấp bội.
Khi món hàng cuối củng
được chia ra thành những bộ phân riêng rẽ, thì những bộ phận này sẽ do những xí
nghiệp chuyên môn sản xuất trong hệ thống liên đới. Vì chỉ sản xuất những bộ phận
chuyên môn, nên những Xí nghiệp này có thể tăng lượng sản xuất để triệt tiêu
phí tổn trang bị máy móc sản xuất (Installation des équipements).
Yếu tố khách quan làm
cho những món hàng Trung quốc rẻ hơn hàng Việt Nam, đó là Trung quốc có thể
tăng rất lớn lượng sản xuất những linh kiện. Trung quốc sản xuất từ A tới Z của
một mặt hàng là như vậy.
Cùng sản xuất một mặt
hàng như Trung quốc, nhưng Việt Nam phải mua lại từ Trung quốc những bộ phận cấu
thành mặt hàng cuối cùng. Vì vậy mà mặt hàng Việt Nam bán ở Thị trường không thể
nào rẻ hơn mặt hàng của Trung quốc.
Cũng chính vì điểm này,
mà những Công ty Tây phương đặt mua linh kiện tại Trung quốc.
Phẩm chất của món hàng
Hệ thống sản xuất liên đới những linh kiện
(système de sous-traitance des pìeces détachées) không phải chỉ làm giảm giá
thành sản xuất, mà còn cho phép những Công ty chuyên nghiệp có thời giờ và cô đọng
khả năng vào việc kiện tòan phẩm chất của từng bộ phận, từng linh kiện. Thực vậy,
những Công ty chuyên nghiệp này dành trọn thời giờ cho Nhóm Nghiên cứu (Equipe
de recherche) chuyên tâm vào một linh kiện, một bộ phận. Đây là việc làm tăng
phẩm chất chuyên môn cho sản phẩm. Vấn đề cạnh tranh trên Thị trường không phải
chỉ nguyên giá cả mà trở thành cạnh tranh về phẩm chất chuyên môn, kiện tòan của
từng linh kiện cấu thành. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh được áp dụng triệt để ở
hệ thống sản xuất linh kiện công nghệ và kỹ nghệ hiện nay.
Trung quốc có điều kiện
phát triển hệ thống liên đới sản xuất từ A tới Z và tất nhiên họ có điều kiện
kiện tòan phẩm chất mặt hàng cuối cùng hơn Việt Nam
Chúng tôi rất đau lòng đọc tin sau
đây từ Quốc nội: “(TuanVietNam)- Êm như mưa dầm, ồ ạt như lũ, hàng TQ đổ bộ
vào VN, “quét” sạch hàng nội, moi túi người tiêu dùng. Con số nhập siêu hơn 11
tỷ USD năm qua đủ cho thấy các DN ta đang “thua trắng bụng”. Để không bị làn
sóng này dìm chết, không một ai – từ Chính phủ tới DN và người tiêu dùng – có
thể đứng ngoài cuộc.“
Cán cân Thương Mại giữa
Trung quốc và Việt Nam cho thấy cuộc xâm lăng Kinh tế tại Việt Nam mỗi ngày một
tăng mạnh: “10 năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam đã
tăng 23,25 lần, đạt tới con số 15.652 tỷ USD vào năm ngoái. Cùng trong thời
gian đó, kim ngạch xuất khẩu của ta theo chiều ngược lại tăng vỏn vẹn 6,08 lần,
chỉ đạt 4.536 tỷ USD năm 2008.“
Ong ĐÀO XUÂN ANH, chủ một
Công ty sản xuất, đã kết luận:”Chi phí nhập khẩu (tính cả mua hàng lẫn vận
chuyển) rẻ hơn là tự sản xuất, quy trình làm việc đơn giản và ít phải suy nghĩ
hơn.“
Từ là Doanh nhân sản xuất công nghệ, Ong trở thành một Thương gia phân phối
hàng Trung quốc !
2009 & 2010:
Doanh nhân & Truyền Thông
tuyên chiến với hàng
TQ
Truyền thông Việt Nam và Doanh nhân đã
Tuyên chiến với cuộc tấn công của hàng ngoại chất lượng thấp và yêu cầu Nhà nước
tham gia cuộc chiến (18/06/2009 09:37 (GMT + 7). Tiên khởi cho việc Tuyên chiến
này là Vietnamnet với Thảo Luận “TuanVietNam “. Chúng tôi xin đăng lại nội dung
Thảo Luận.
(TuanVietNam)- "Dù tất
cả đã có nhưng lực lượng hải quan, lực lượng kiểm tra thị trường, nói chính xác
hơn là con người mà bị thủng thì phòng tuyến ngăn chặn hàng giá rẻ, chất lượng
thấp vào thị trường Việt Nam cũng sẽ bị thủng..."- TS. Nguyễn Minh
Phong nói.
Chất lượng công quyền
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Không rõ có
chính xác hay không, nhưng tôi cảm giác Nhà nước mình như một ông chủ đội bóng,
bỏ tiền ra mua đội bóng đó, đầu tư cho đội bóng nhưng lại giữ chân huấn luyện
viên. Theo tôi hiểu, huấn luyện viên là một chuyên môn khác, đẳng cấp khác, còn
việc của người quản lý đương nhiên là một công việc khác hoàn toàn
TS. Nguyễn Minh Phong: Xin được quay trở
lại câu chuyện còn đang dở, chúng ta vừa nói đến hàng may mặc Trung Quốc, nhưng
giờ chúng ta phải nói đến tất cả các hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc, bởi có
những thứ kém chất lượng, độc hại mà cơ quan kiểm định đã công bố, và thế giới
cũng đều biết, đang có mặt nhan nhản ở thị trường Việt Nam.
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều:
Rõ ràng, chúng ta có những phòng tuyến chặn cửa như hải quan, các cơ quan kiểm
thị trường, kiểm dịch, công an, quân đội và cả thuế vụ nữa… nhưng tại sao hàng
ngoại chất lượng thấp lưu hành trên thị trường tiêu dùng vẫn không hề giảm đi,
thậm chí có phần ồ ạt tiến vào vào thị trường Việt Nam. Liệu có hay không phòng
tuyến nào bị hổng, hay tất cả đều bị hổng, thưa TS. Nguyễn Minh Phong?
TS. Nguyễn Minh Phong: Tôi
cho rằng có 3 điểm cần lưu ý. Thứ nhất, chúng ta phải học tập Nhật và Trung Quốc,
nghĩa là hàng tốt của Việt Nam phải bán cho người Việt Nam, chứ không phải hàng
tốt thì mang hết ra nước ngoài, còn hàng bán ở Việt Nam toàn hàng xấu, tự nhiên
người tiêu dùng trong nước bị ấn tượng hàng Việt Nam là hàng xấu.
Thứ hai, những chế
tài và những quy định pháp lý, đặc biệt là những chế tài quy định liên quan đến
hàng rào kỹ thuật cần phải được tăng cường hơn. Lâu nay, chúng ta sử dụng nặng
công cụ thuế, còn công cụ hàng rào kỹ thuật lại xem rất nhẹ, thậm chí còn không
biết làm như thế nào vì tiêu chuẩn chưa định hình, cái đã định hình thường thấp
hơn rất nhiều so với thế giới. Do vậy, những hàng rào kỹ thuật, những tiêu chuẩn
hoá về kỹ thuật cần sớm được quốc tế hoá, được xác lập và triển khai trên thực
tế một cách hiệu quả.
Thứ ba, rất quan trọng.
Dù tất cả những tiêu chuẩn đó đã có nhưng nếu lực lượng hải quan, lực lượng kiểm
tra, hay nói gọn hơn là con người mà bị thủng thì phòng tuyến đương nhiên sẽ bị
thủng... Cái thủng của con người là cái thủng lớn nhất. Chúng ta đã có rất nhiều
bài học như vụ án hàng lậu Tân Thanh. Một khi quan chức liên tỉnh bắt tay dằng
dây sẽ vô hiệu hóa tất cả những hàng rào kĩ thuật khác.
Bà Phạm Chi Lan: Về lỗ thủng chất lượng đội ngũ tôi đồng ý với anh Phong.
Nhưng chúng ta nhìn nó rộng ra hơn một chút là cơ chế
có thể tạo nên những con người như vậy, muốn có đội ngũ công chức thật tốt như
chúng ta mong muốn thì phải có hệ thống cơ chế trong
đó bao gồm cả thể chế cả chính sách, cả tiêu chuẩn cán bộ như thế nào, cách để
chọn vào ra như thế nào, tất cả đều phải nghiêm chứ đừng chỉ đứng hô hào chung
chung.
Bản thân Nhà nước phải rất
nghiêm với chính mình về hàng rào kĩ thuật này, đã đặt ra phải xử lí, chỗ nào
chưa có phải làm. Không phải bây giờ khi cả xã hội kêu lên là hàng chất lượng
thấp thì bộ nọ, bộ kia lại chưa có căn cứ, chưa có tiêu chuẩn để kết luận đó là
xấu, ngăn chặn không cho họ vào hoặc phản ứng lại với họ. Đó là cách trả lời vô
cùng thiếu trách nhiệm. Lỗ thủng về trách nhiệm ở đây cũng là rất lớn, chứ
không phải chỉ là vấn đề về tư cách con người hay về tham
nhũng không thôi.
Chiến lược thực tế
Bà Phạm Chi Lan: Đó là điều rất đáng tiếc
về phía chúng ta. Việc làm sao chống được sự xâm lấn của hàng bên ngoài thì yếu
tố quan trọng hàng đầu vẫn là sức mạnh của chính mình.
Bệnh thành tích
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Những điều
mà bà Phạm Chi Lan nói về chiến lược xuất khẩu ô tô, hoặc chúng ta sản xuất máy
bay đã được thực tế chứng minh về tính khả thi. Dự án ô tô Mê kông là một sự thất
bại to lớn. Lịch sử đã chứng minh người Việt rất cần cù, rất chịu khó, sáng tạo,
khéo tay, quả cảm…, nhưng đôi khi chúng ta cũng rất ảo tưởng.. Với chúng ta,
tôi nghĩ rằng chúng ta đang hão huyền sinh ra bệnh thành tích. Ngày xưa ông cha
ta căn cơ, chính xác, gọn ghẽ đâu ra đấy. Nhưng chủ nghĩa thành tích đã sinh ra
sự hão huyền, chạy theo thành tích sẽ thế này thế kia… chúng ta phải rời bỏ điều
đó, phải trở lại hiện thực và làm một bát phở thật ngon, hãy may một cái áo thật
đẹp…
Đã đến lúc chúng ta phải bỏ qua tất
cả những hình thức phù phiếm, tất cả những khẩu hiệu sáo rỗng, bánh vẽ giá trị ảo
để trở về cuộc sống thực tế, giá trị thực để đáp ứng nhu cầu.
Giải pháp khả thi
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Thưa bà Phạm
Chi Lan cơn lũ hàng nhập ngoại xấu, kém chất lượng, độc hại đang tràn vào Việt
Nam đã lên đỉnh điểm chưa, hay sẽ tiếp tục, hoặc giảm xuống?
Bà Phạm Chi Lan: Nó như thế nào phụ thuộc vào thái độ của chính chúng ta. Nếu
chúng ta bỏ lơ, coi thường chuyện đó, các cơ quan Nhà nước vẫn cảm thấy dửng
dưng không ý thức ngăn chặn, bảo vệ cho đồng bào mình thì làm sao cơn lũ này chấm
dứt được.
Hoặc truyền thông của
chúng ta không dấy lên được tiếng nói mạnh mẽ để cổ động cho hàng Việt Nam, biểu
dương cho những doanh nghiệp hàng tốt như May 10, và rất nhiều những doanh nghiệp
khác, trân trọng người tiêu dùng trong nước thì làm sao ngăn nổi cơn lũ này.
Nếu không cùng nhau
làm việc đó như một tính chất cả hệ thống thì cơn lũ đó chưa tới đỉnh điểm đâu,
sẽ tiếp tục đổ vào, tiếp tục tràn vào dữ dội hơn. Người ta đã có hẳn một kế hoạch
lớn, chiến lược lớn để làm điều đó, họ sẽ không dừng lại trừ khi chúng ta biết
tự vạch hướng đi cho mình, tự bảo vệ cho mình, đẩy làn sóng đó ngược trở lại trả
về phía bên họ.
Quả thực tôi lo lắng cơn
lũ này chưa đến đỉnh điểm, mà còn có thể tệ hại hơn nữa bởi vì chúng ta vẫn
chưa làm được gì nhiều để ngăn chặn.
Tôi nói vui với các doanh nghiệp là bây giờ
biên mậu đã diễn ra ở tận thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải biên mậu ở Lào
Cai, Lạng Sơn nữa.
Thực tế, người ta đã
vào tận thành phố Hồ Chí Minh để làm rồi, gần như tất cả các giao dịch diễn ra
ngay tại đó. Chỉ cần nhấc một cú điện thoại lên thôi là hàng hóa đâu vào đó.
Không khó để bắt gặp từng đoàn xe mang biển số của một quốc gia láng giềng có
thể vào đất Việt Nam đàng hoàng, thậm chí người nước họ cũng ra vào làm việc ở
đây tự do. Nếu chúng ta vẫn dễ dãi như vậy thì cơn lũ hàng giá rẻ, chất lượng
thấp còn tiếp tục dấn tới.
Tôi vừa từ Lục Ngạn (Bắc
Giang) về. Tôi đã chứng kiến một đoàn 65 thương gia Trung Quốc đang ở đó, tại
những cứ điểm để thu mua vải quả, và họ là người quyết định giá cả.
Chúng ta đã để đến mức
như vậy thì việc không tự bảo vệ được mình là do chính mình, mình vừa là nạn
nhân, vừa là tội nhân của việc đó. Mình không biết tự mình bảo vệ mình thì nói
được gì nữa. Nếu ta không có hành động từ cao nhất, làm quyết liệt thì các
doanh nghiệp phần nào phải bó tay.
Những gì được đặt ra tại
bàn tròn hôm nay đã phần nào động chạm tới những điều cơ bản và chi tiết, chúng
ta cũng đã nói ra tất cả những điều mang tính hệ thống, chiến lược. Nếu biết lắng
nghe, biết sửa mình thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn, còn nếu vẫn chỉ là trách nhiệm,
là lợi ích cá nhân thì e rằng 50 năm nữa chúng ta lại ngồi lại đây, nói lại những
điều phiền muộn này. «
(Tuần Việt Nam)
Được báo động về việc
Tuyên chiến này, Đại sứ quán Trung quốc tại Hà Nội, vẫn trịch thượng là quan Thầy,
nên đã cho Tùy viên Thương mại ra chỉ thị cho Truyền Thông và Doanh nhân VN
không được nói giọng tuyên chiến với hàng hóa Trung quốc. Chỉ thị này giống như
chỉ thị từ Bắc kinh ra lệnh cho CSVN phải đàn áp những người yêu nước Biểu tình
chống xâm lăng Hải đảo và Biển ngày nay.
2011: Xâm lăng Kinh
tế TQ
thành nguy ngập cho
Việt Nam
Tình trạng Kinh tế tụt dốc của Việt Nam có
nghĩa là sức kháng cự trở thành hoàn toàn yếu kém trước xâm lăng của Trung quốc.
Những lý do sau đây khiến cuộc Xâm Kinh tế lúc này của Trung quốc càng gia tăng
trước sức chống đối hoàn toàn yếu kém của Kinh tế Việt Nam:
=> Hoa kỳ
và Liên Âu, hai Thị trường lớn cho hàng xuất cảng từ Trung quốc, hiện nay đang
gặp Khủng hoảng về nợ công. Dân chúng thất nghiệp tăng mạnh. Nợ công và Thất
nghiệp tăng có nghĩa là hai Thị trường giảm Mãi lực tiêu thụ. Nhưng việc sản xuất
của Trung quốc vẫn phải giữ để bảo đảm Độ tăng trưởng. Mãi lực nội địa Trung quốc
không những không tăng mà còn phải chịu cảnh Lạm phát lên cao. Thêm vào đó các
Thành phố Trung quốc, vì tham vọng Đô Thị hóa, nên hiện nay mang nợ chất chồng.
Mãi lực dân nội địa yếu kém, các Thành phố lại mang nợ nần, nên việc tiêu thụ nội
địa chắc chắn phải giảm xuống. Khi bí lối tiêu thụ hàng hóa nội địa mà việc sản
xuất vẫn phải giữ để tránh đóng cửa xí nghiệp, thì hàng hóa thặng dư sẽ xì xuống
Việt Nam.
Tác giả ANH VŨ, ngày 15.07.2011, đã viết về
nợ nần của các Thành phố tại Trung quốc như sau:
“Cả thế giới trong lúc này đâu cũng thấy
người ta nói về chuyện nợ nần của các quốc gia. Châu Âu, châu Mỹ đang hoảng loạn
về công nợ lan truyền và cả châu Á với những cường quốc mới nổi lên cũng không
tránh được căn bệnh của sự phát triển, đó là chi tiêu quá khả năng mình có.
Phụ trang Le Figaro đăng các bài dịch từ tờ
báo Mỹ New York Times hôm nay 15/7 có bài viết về chủ đề này với tiêu đề «
Trung Quốc cũng mắc nợ ».
Người ta vẫn nghĩ Trung Quốc là nước có
nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ lên tới 3.000 tỷ đô la thì không lo gì chuyện
vay mượn hay vỡ nợ. Nhưng thực tế bùng nổ kinh tế đang diễn ra ở Trung Quốc cho
thấy nhiều dấu hiệu nước này cũng khó tránh khỏi vòng nợ nần. “
Bài báo đưa độc giả đến với Vũ Hán, thành
phố lớn thứ chín của Trung Quốc. Cả thành phố này là một công trường xây dựng
đang chìm trong bụi mù. Theo tác giả bài báo thì tại Vũ Hán, hiện có tới 5.700
công trình xây dựng đang được triển khai. Trong đó phải kể đến các dự án đô thị
hoá khổng lồ như đường tàu điện ngầm dài hàng trăm kilômét, hai nhà ga sân bay,
trung tâm thương mại, văn hoá và vô số những tòa tháp cao ngất với tổng kinh
phí lên tới 120 tỷ đô la. Nhưng theo tác giả bài báo thì trường hợp Vũ Hán
không phải là cá biệt. Từ nhiều năm nay hàng chục thành phố khác ở Trung Quốc
cũng đang lao vào cuộc chạy đua các dự án xây dựng đầy tham vọng. Kết quả là
ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy các chính quyền địa phương đang đang phải
mắc nợ lớn để chi phí cho tham vọng của mình.”
=> Tình trạng
thiếu vốn vì muốn thắt chặt Tín dụng lưu hành để chống Lạm phát phi mã đang diệt
doanh nghiệp VN và thả lỏng cho xí nghiệp Trung quốc thắng thế. Phóng viên VŨ
HOÀNG, RFA, ngày 15.07.2011, đã cho thấy cuộc xâm lăng Kinh tế Trung quốc đang
diễn ra như sau:
Doanh nghiệp VN bất lợi
trên sân nhà
Lãi suất tiền vay trong nước quá cao đã ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam khi cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Trung Quốc ngay tại
VN.
Thiếu vốn do lãi suất
cao
Báo chí trong nước mấy hôm nay liên tục
đưa tin chuyện các doanh nghiệp Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam thu mua các mặt
hàng nông sản, thuỷ sản, cà phê, hồ tiêu, trái cây, thịt heo… khiến giá các mặt
hàng này tăng vọt, trong khi các ngành hàng trong nước lại thiếu hụt nguyên liệu
trầm trọng. Và nguyên nhân của hiện tượng này được cho là do hậu quả của việc
lãi suất cho vay trong nước quá cao, gây bất lợi cho chính các doanh nghiệp cần
vay vốn.
Chuyện lãi suất quá cao mà hiện tại các
doanh nghiệp đang phải hứng chịu bắt nguồn từ hậu quả của chính sách tài khoá
thắt chặt, nhằm kiểm soát lượng vốn tín dụng bơm vào nền kinh tế.
Trong một lần trao đổi với đài Á Châu Tự
Do cách đây không lâu, T.S Lê Đăng Doanh đã từng nhận định:
"Hiện nay doanh nghiệp rất thiếu vốn
và vì thắt chặt tiền tệ thiếu vốn cho nên các ngân hàng đã đẩy lãi suất tiền gởi
tiết kiệm lên vượt trần của Ngân hàng Nhà nước là 14% mà hiện nay đã lên tới
18%-19%. Vì vậy đã đẩy lãi suất cho vay lên đến 28%-29% là một mức lãi suất quá
sức chịu đựng của doanh nghiệp."
Thực ra vấn đề chi phí cho hoạt động kinh
doanh bị đẩy cao, do lãi suất tăng mạnh cũng đã được đề cập nhiều, nhưng điểm đặc
biệt ở thời điểm này là có thêm sự tranh mua nguyên nhiên liệu từ phía Trung Quốc
do họ có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp Việt Nam về mặt vốn liếng và khả
năng tài chính, vì vậy khiến cho những doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong
lĩnh vực thu mua nguyên liệu gặp khó khăn hơn.
Theo lời bà Trần Thị Miêng, Cục phó Cục chế
biến Nông lâm thủy sản và nghề muối (thuộc Bộ Nông nghiệp và PT Nông thôn) được
báo VNmedia trích lại cho biết việc Trung Quốc ồ ạt thu gom nông sản của Việt
Nam đang là một vấn đề nổi cộm và gây nhiều nhức nhối cho các doanh nghiệp,
trong đó có ngành chế biến nông lâm thủy sản.
Mặc dù mới điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản,
nhưng hiện tại lãi suất cho vay thời hạn một năm tại Trung Quốc cũng chỉ dừng lại
ở mức 6,65%. Trong khi đó, ở Việt Nam, lãi suất cho vay từ các ngân hàng thuơng
mại đã lên đến trên 20%. Rõ ràng với chi phí cao như vậy, các doanh nghiệp
kinh doanh thu mua nông sản, thủy sản của Việt Nam sẽ gặp bất lợi hơn rất nhiều
so với các đối thủ khác từ phía Trung Quốc.
Về vấn đề này, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp
hội Hồ tiêu Việt Nam nhận xét:
"Với lãi suất 20-21%/năm thì kinh
doanh mà nói, khó lòng có một hiệu quả nào mà giá trị hàng hoá cao như vậy.
Trung Quốc khi họ có tiền ứng ra trước thì đương nhiên họ hiệu quả hơn rồi,
mình thì phải cộng lãi suất, còn họ thì mang tiền đâu lấy hàng đó, đương nhiên
là họ lợi thế hơn rồi. Khách hàng Trung Quốc có lợi thế hơn. Về mặt suy luận
thì khách hàng Trung Quốc có lợi thế hơn. Xu hướng chung là các doanh nghiệp Việt
Nam thụt lùi và nhường chân cho họ rồi, họ có thể mua thẳng của người dân, của
những nhà cung ứng nhỏ, thì hiện nay họ đang có lợi thế ấy."
Theo lời ông Trần Văn Lĩnh, tổng giám đốc
công ty Cổ phần thuỷ sản Thuận Phước ở Đà Nẵng, được báo Sài gòn Tiếp thị trích
đăng cho rằng thương nhân Trung Quốc tới tận ao mua tôm, tới tận cảng cá chờ
tàu cập bến và hình như lúc nào họ cũng mua cao hơn một vài giá so với doanh
nghiệp Việt Nam. Vì thế các doanh nghiệp thuỷ sản miền Trung bị thiếu nguyên liệu
trầm trọng do cạnh tranh không lại với thương nhân Trung Quốc.
Không chỉ dừng lại cạnh tranh thu mua
nguyên liệu nhờ lợi thế về giá cả, các doanh nghiệp Trung Quốc còn tận thu cả
nguyên liệu kém chất lượng như tôm tạp chất, về lâu về dài sẽ khiến các doanh
nghiệp xuất khẩu thuỷ sản bị liên luỵ do nhiều sản phẩm thuỷ sản kém chất lượng
như vậy lại có nguồn gốc từ Việt Nam xuất ra khỏi biên giới.
Có lẽ việc doanh nghiệp Trung Quốc tranh
mua nguyên nhiên liệu của Việt Nam chỉ là điểm khởi đầu, điều quan trọng là nằm
ở chỗ trong tương lai, người nông dân Việt Nam sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào các
thương nhân Trung Quốc, khi họ đã chiếm lĩnh thị trường đầu ra cho các sản phẩm
nguyên nhiên liệu.
Một lần nữa, ông Đỗ Hoài Nam lên tiếng cảnh
báo, đến lúc đó Việt Nam sẽ mất tính chủ động trong việc điều phối nguồn hàng
trong tương lai:
"Trước mắt, Trung Quốc họ có vốn thì
họ hỗ trợ cho người nông dân bán được hàng tốt hơn. Nhưng bất lợi là về lâu về
dài, chúng ta sẽ quản lý như thế nào, nếu không có người mua thì các doanh nghiệp
Việt Nam hỗ trợ về giá, nước ngoài họ ép giá, thì mình làm gì có gì để đối trọng,
bằng cách nào để hạn chế bán hay bắt buộc bán cho họ. Nguyên tắc của người nước
ngoài lợi nhuận là trên hết chứ không phải vì lợi ích của cộng đồng."
Nhưng bất lợi là về lâu về dài, nước ngoài
họ ép giá, thì mình làm gì có gì để đối trọng. Nguyên tắc của người nước ngoài
lợi nhuận là trên hết chứ không phải vì lợi ích của cộng đồng.
=> Vì tình
trạng tụt dốc Kinh tế, cạn kiệt ngoại tệ (Đo-la), các Xí nghiệp VN như bó buộc
phải nhập hàng Trung quốc. Phóng viên NAM NGUYÊN, RFA, ngày 22.06.2011, đã nói
lên khía cạnh Nhập siêu và lệ thuộc Trung quốc như sau:
“Tình trạng nhập siêu gây mất ổn định cho
nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt nhập siêu từ Trung Quốc. Nam Nguyên ghi nhận ý
kiến chuyên gia về vấn đề này.
Sập bẫy nhập siêu từ
Trung Quốc
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập
từ Hà Nội phân tích:
- Vấn đề ở đây là cần phân biệt phần nhập
siêu thuần túy thương mại và nhập siêu có liên quan đến đầu tư. Hiện nay do nhiều
lý do, Trung Quốc đang tham dự vào việc đấu thầu và xây dựng theo thể thức EPC
(Engineering procurement and construction) là rất nhiều và Trung Quốc đã nhập cả
trang thiết bị, nguyên vật liệu thậm chí mang cả công nhân có tính chất phổ
thông sang để xây dựng. Phần này chiếm chủ yếu của các vật tư, trang thiết bị
mà Việt Nam nhập từ Trung Quốc và đây là vấn đề rất đáng tranh cãi: tại sao lại
phải nhập nhiều như thế từ Trung Quốc, giao cho nhà thầu Trung Quốc những công
trình có tính cách trọng yếu
Thêm vào đó có một số công trình không có
vốn nên đã vay từ Quĩ hỗ trợ xuất khẩu của Trung Quốc. Vay từ Quĩ này, tự nhiên
sẽ phải chấp nhận mua trang thiết bị của Trung Quốc và để cho nhà thầu Trung Quốc
xây dựng và đấy là điều cần phải rút kinh nghiệm cho tương lai.”
Chuyên gia Huỳnh Bửu Sơn, nguyên thành viên ban tư vấn cải cách kinh tế của thủ
tướng Võ Văn Kiệt vào thời kỳ đầu đổi mới thì nhìn nhận vấn đề theo góc cạnh
khác. Từ TP.HCM ông Sơn phát biểu:
-“Trong quan hệ mua bán với Trung Quốc một
trong những yếu tố khiến Việt nam mua hàng Trung Quốc nhiều là vì hàng Trung Quốc
giá rẻ hơn so với các thị trường khác.
Nếu không nhập từ Trung Quốc thì sẽ nhập từ
các nước khác thôi, cho nên giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt nam là một vấn
đề mang tính cấu trúc của nền kinh tế, nghĩa là phải có cách nào như nhiều
chuyên gia nói rằng cần phải phát triển công nghiệp phụ trợ chẳng hạn thì nó mới
làm giảm bớt vấn đề phụ thuộc vào mua máy móc thiết bị phụ tùng hoặc nguyên liệu
phụ trợ.
Giảm nhập từ Trung Quốc
vấn đề sinh tử
Trong cuộc phỏng vấn của chúng tôi, TS Lê
Đăng Doanh quan ngại khả năng bất ổn nhiều mặt cho nền kinh tế Việt Nam bắt nguồn
từ tình trạng nhập siêu quá lớn từ Trung Quốc. Ông nói:
-“Thực tế là nhập siêu của Trung Quốc chiếm
trên 100% nhập
Lễ ký kết Hợp đồng sau khi Công ty China Huadian Engineering (CHEC) Trung Quốc
trúng thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt điện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, hôm
30-06-2010.
Nhập siêu của cả nước và chính phủ phải
dùng số tiền xuất siêu ở các nơi khác để bù vào số nhập siêu của Trung Quốc. Vì
vậy giải quyết nhập siêu từ thị trường Trung Quốc là một vấn đề sinh tử của nền
kinh tế Việt Nam, nếu không làm được việc đó thì không chỉ phụ thuộc vào thương
mại mà trong tương lai gần đây Trung Quốc sẽ yêu cầu thanh toán bằng đồng nhân
dân tệ và Việt nam không thể dùng đồng đô la Mỹ kiếm được ở thị trường khác để
trang trải và sẽ phải vay nợ đồng nhân dân tệ và lúc đó sẽ bị phụ thuộc vào tài
chính và nguy cơ sẽ còn tăng lên rất nhiều.”
Được biết dệt may và da giày dự kiến tổng
kim ngạch xuất khẩu 18 tỷ USD trong năm nay nhưng là hai ngành phụ thuộc nguyên
phụ liệu và thiết bị máy móc nhập khẩu từ Trung Quốc. Ông Diệp Thành Kiệt Phó
chủ tịch Hiệp hội da giày Việt Nam đồng thời là Phó chủ tịch Hội dệt may thêu
đan TP.HCM nhận định về khả năng Việt Nam và Trung Quốc sử dụng nhân dân tệ
trong thanh toán.
-“Nếu phải nhập bằng đồng nhân dân tệ rồi
sau đó xuất khẩu bằng đồng đô la thì chúng tôi sẽ bị thiệt hại ở chỗ phải mua
giá cao hơn và bán ra giá thấp hơn do tỷ giá hai đồng tiền.
Chúng tôi cho rằng lệ thuộc vào đồng tiền
nước ngoài ngay cả đồng tiền chính là đô la thì cũng vẫn có mặt
Thí dụ đồng tiền Việt Nam mất giá so với đô la thì có lợi cho xuất khẩu nhưng
khi nhập khẩu thì lại có vấn đề. Nếu hai chính phủ thỏa thuận với nhau sử
dụng nhân dân tệ trong thanh toán giữa Việt Nam và Trung Quốc thì tôi nghĩ
chính phủ Việt Nam sẽ có những giải pháp để cân bằng cán cân thanh toán cân bằng
giữa xuất và nhập khẩu không để cho doanh nghiệp Việt Nam chịu thiệt hại lớn
hơn là được lợi.”
Nếu phải nhập bằng đồng nhân dân tệ rồi
sau đó xuất khẩu bằng đồng đô la thì chúng tôi sẽ bị thiệt hại ở chỗ phải mua
giá cao hơn và bán ra giá thấp hơn do tỷ giá hai đồng tiền.
Khi mà hoàn toàn nhập
siêu từ Trung quốc và phải thanh toán bằng đồng Nhân Dân tệ, thì Việt Nam trở
thành như một Tỉnh tiêu tiền Trung quốc.
=> Không những
chỉ có việc xâm lăng Hàng hóa, rồi Tiền tệ, mà việc xâm lăng còn ở việc di Dân
Trung quốc vào Việt Nam để thành lập những Khu Công nghệ và Thương mại Trung quốc
chính trong nội địa Việt Nam. Thực vậy, theo Báo VN: “Thợ TQ Tràn Ngập VN, Trả
Lương Gấp 3 Thợ Việt… “
Nhiều Phố Tàu dựng lên trên đất VN, bảng
hiệu toàn tiếng Hoa ngữ
HAI PHONG (VB) -- Hiện đang có hàng chục
Phố Tàu mọc lên tại Việt Nam, theo một bản tin từ báo Thanh Niên hôm 20-6-2011
cho biết.
Bản tin báo này đã nêu lên một cuộc chiến
biển người kiểu mới tại VN: “Lao động nước ngoài tràn ngập Việt Nam: Tấp nập
lao động phổ thông Trung Quốc.”
Điều bi thảm là trong các Phố Tàu mới mọc
lên tại VN, thí dụ như tại Hải Phòng và Quảng Ninh, nhiều nơi chỉ dựng lên bảng
tiếng Hoa, không sử dụng tiếng Việt, làm người dân Việt tự cảm thấy thân phận
mình y hệt như dân Tây Tạng bị dân Hán tộc vào lấn ép, theo bản tin trên báo
Thanh Niên.
Chưa hết, báo này còn cho biết, nhiều công
trường Trung Quốc trên đất VN sẵn sàng thuê thợ mộc, thợï hồ người Việt nhưng
trả lương chỉ bằng 1/3 lương thợ Trung Quốc, chỉ vì tuy cùng làm một việc nhưng
người kia biết nói tiếng Trung Hoa với các ông chủ mới trên lãnh thôå Việt.
Báo Thanh Niên hôm 20-6-2011 viết:
“Luật không cho phép các doanh nghiệp,
đơn vị, tổ chức sử dụng lao động (LĐ) phổ thông là người nước ngoài. Thế nhưng,
tại nhiều địa phương hiện vẫn tồn tại hàng ngàn LĐ phổ thông nước ngoài, dù từ
năm 2009 Thủ tướng đã yêu cầu các cơ quan chức năng rà soát xử lý số LĐ này...
Phố Trung Quốc bên
hông công trường
Tại Hải Phòng, Quảng Ninh, đi kèm một
nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) do nhà thầu Trung Quốc (TQ) đảm nhận là hàng trăm
công nhân (CN) TQ đổ về. Cứ thế, xung quanh NM những "phố Tàu" cũng
xuất hiện, làm đảo lộn cuộc sống của người dân địa phương.
Chạy dọc con đường nối từ TP Hải
Phòng ra bến phà Rừng, qua xã Ngũ Lão, H.Thủy Nguyên, khách sẽ thấy bất ngờ bởi
nơi đây mọc lên hàng loạt hàng quán với biển hiệu chữ Tàu, đèn lồng treo đỏ rực.
Một bà hàng nước chỉ vào khu nhà dành cho CN TQ: “Hàng trăm CN người Hoa họ ở
trong kia nên ngoài này mới biến thành một góc phố Tàu thế chú ạ”.
Theo số liệu từ Công an xã Ngũ Lão,
hiện trên địa bàn xã có khoảng 300 người TQ đang tạm trú, đại đa số là CN làm
việc tại công trường NMNĐ Hải Phòng II.
Đi dọc con đường nhỏ từ Ngũ Lão hướng
về xã Tam Hưng, những biển hiệu chữ TQ màu đỏ vẫn liên tục mọc lên, từ hàng ăn,
quán massage chân cho đến dịch vụ cà phê, cắt tóc...
Cũng ghép cốt pha,
buộc sắt...
Cách những con "phố Tàu" ở
Hải Phòng vài chục cây số, tại Đông Triều, Quảng Ninh, hơn 700 CN nước ngoài
đang làm xáo trộn cuộc sống của người dân bản địa.
Chúng tôi đến cổng NMNĐ Mạo Khê -
Vinacomin (440 MW) tại xã Bình Khê, H.Đông Triều khi trời đã chập choạng tối.
Trên con đường nhỏ trước cổng NM, vài tốp CN TQ cởi trần đi dàn hàng ngang chiếm
nửa lề đường. Trong quán bia, một nhóm khác oang oang tiếng xì xồ, vài người khạc
nhổ bừa bãi.
Từ đầu năm nay, khi công trường NM
sôi động với lượng CN TQ về nhiều, cuộc sống của dân cư quanh NM đã thay đổi đột
biến. Khi trời tối, ánh đèn điện của biển hiệu chữ Trung lập lòe chi chít, có
những tấm biển đề song ngữ như vịt quay, nhà hàng, có cả biển hiệu toàn chữ
Trung khiến người Việt nhìn vào đành... chào thua.
Hàng trăm CN nước ngoài cũng tạo ra
một số việc làm và thu nhập cho vài hộ gia đình quanh NM qua việc cho thuê chỗ ở,
bán quán..., nhưng họ lại khiến nhiều người dân bản địa mất đi cơ hội có việc
làm và nếu có việc cũng phải chịu thiệt thòi vì không biết ngoại ngữ.
Anh Lê Văn Hưng, nhà ở Bình Khê, người
làm tại công trường đã nửa năm, chỉ sang một người TQ bên cạnh: “Cậu này
cũng làm ghép cốt-pha, buộc sắt như chúng tôi, nhưng lương họ được gấp 3 lần,
khoảng 500.000-600.000 đồng/ngày. Anh ta hưởng lương cao vì anh ta là người TQ,
chủ nói gì là hiểu. Chúng tôi không có phiên dịch nên chỉ làm việc theo bằng
các động tác tay, chân ra hiệu”...”
Như thế, có phải
đây là một cuộc chiến đa diện: tàu chiến TQ lấn biển, chiếm đảo... trong khi cả
biển người TQ tràn sang VN dựng lên các Phố Tàu? (VIETBAO)
2012 & 2013:
Lãnh đạo đảng xác nhận
tình trạng phá sản
Kinh tế quốc dân
Như trong phần mở đầu, chúng tôi đã nói đến
hai lý do chính yếu dẫn đến phá sản Kinh tế: Lý do nội tại thuộc Cơ chế và Lý
do thứ hai ngoại tại là xâm lăng Kinh tế từ Trung quốc. Về lý do nội tại Mô
hình Kinh tế tạo nên và làm lan tràn Tham nhũng, Lãng phí, các nhà đầu tư quốc
tế và Ngân Hàng Thế Giới họp tại Hà Nội năm 2011 đã cảnh báo CSVN. Về Lý do ngoại
tại Xâm lăng Kinh tế từ Trung quốc, giới doanh nhân, các Chuyên gia và
Truyền thông VN đã công khai lên tiếng từ nhiều năm nay. Nhưng lãnh đạo đảng
CSVN bất lực chống lại việc xâm lăng của Trung quốc, không những về lãnh hải,
lãnh thổ, mà còn về sự tràn lan hàng hóa TQ. Sự bất lực này là chỉ vì đảng CSVN
lệ thuộc về Chính trị trước quan thầy Trung quốc.
Ngày nay, tình trạng phá sản Kinh tế đã đến lúc nguy ngập mà chính lãnh đạo đảng
không thể tiếp tục ngụy biện được và đã phải xác nhận. Chúng tôi đăng những lời
xác nhận ấy theo Bản Tin của Báo Tuổi trẻ
Baûn Tin cuûa baùo Tuoåi treû
Tình hình kinh tế gay go lắm rồi!
Tuổi Trẻ – Thứ tư, ngày 15 tháng năm năm 2013
TT - Đó là nhận xét của Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tại phiên họp ngày
14-5 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khi nghe các báo cáo của Chính phủ và Ủy
ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính - ngân sách về tình hình kinh tế - xã hội và thu
ngân sách những tháng đầu năm 2013.
Tiền huy động tăng nhưng dư nợ tín dụng thấp, doanh nghiệp cũng không mặn mà
vay khi hàng hóa tồn kho lớn là những khó khăn lớn của nền kinh tế lúc này
Còn Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng: “Tình hình doanh nghiệp bi
đát, tôi nghĩ có tới 100.000 doanh nghiệp chết chứ không phải chỉ mấy chục
nghìn, tỉ lệ doanh nghiệp lỗ có thể còn hơn 65%”.
Bà Doan đề nghị: “Phải nhìn thẳng vào tình hình khó khăn của đất nước để giải
quyết vấn đề. Nếu kỳ họp Quốc hội này mà không đưa ra được giải pháp đủ mạnh
thì những khó khăn sẽ thêm trầm trọng”.
"Tình hình đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả
lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần
nhìn số lượng hàng chục nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65%
báo lỗ thì biết khả năng phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào"
Ông Nguyễn Xuân Cường (phó trưởng Ban Kinh tế trung ương)
“Dấu hiệu suy giảm kinh tế ngày càng rõ
nét hơn, tổng cầu nền kinh tế sụt giảm mạnh, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn;
nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của
khu vực sản xuất chưa được cải thiện” - Ủy ban Kinh tế đánh giá.
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu, việc thực hiện tái cơ cấu và đổi
mới mô hình tăng trưởng chưa đem lại kết quả rõ rệt, chính sách kích thích tăng
trưởng bị giới hạn bởi thâm hụt ngân sách, trong khi thị trường vốn và tăng dư
nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn ở mức quá thấp.
Ba tháng đầu năm, số lượng doanh nghiệp thành lập mới là 15.700 doanh nghiệp
(giảm 6,8% về số lượng, giảm 16% về vốn so với cùng kỳ năm trước); trong khi đó
số doanh nghiệp ngừng hoạt động, giải thể là 15.300 (tăng 14,6% so với quý
1-2012).
Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - đầu tư Bùi Quang Vinh nhận định: sức
mua của nền kinh tế khó có thể tăng mạnh trở lại trong thời gian ngắn khi việc
làm và thu nhập của người lao động giảm sút, hoạt động sản xuất kinh doanh vẫn
gặp khó khăn, số lượng doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, giải thể và phá sản nhiều,
tồn kho vẫn ở mức cao.
Ông Nguyễn Xuân Cường - phó trưởng Ban Kinh tế trung ương - nói: “Tình hình
đúng là hết sức đáng lo ngại, tăng trưởng sản xuất giảm ở cả lĩnh vực công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ, bức tranh vô cùng ảm đạm. Chỉ cần nhìn số lượng hàng chục
nghìn doanh nghiệp phá sản, phần còn lại thì đến 65% báo lỗ thì biết khả năng
phục hồi kinh tế khó khăn đến mức nào”.
Một số thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ “nghiêm túc và thật
thà” trong các con số báo cáo. “Báo cáo của Chính phủ cho thấy tỉ lệ nghèo vẫn
giảm nhanh. Tại sao kinh tế khó khăn như vậy, doanh nghiệp đình đốn, công nhân
mất việc, sản xuất ra không bán được hàng hóa mà lại giảm nghèo tốt như vậy?
Tôi xuống thực tế thấy nghèo tăng lên chứ không có giảm” - Phó chủ tịch Quốc hội
Huỳnh Ngọc Sơn nói.
Ông Nguyễn Văn Giàu kể thêm: “Hoàn thuế VAT hôm trước nói 20.000 tỉ, mới có vài
ngày mà hôm nay nói là 33.000 tỉ. Không thể tưởng tượng được!”. Chủ tịch Hội đồng
Dân tộc Ksor Phước đề nghị các bộ, ngành hãy nhìn vào khó khăn của đất nước mà
báo cáo đúng tình hình, đừng đưa ra các con số báo cáo “vì cái ghế của mình”.
Bài Báo của Ký giả
Thomas FULLER
Bài Báo đăng trên New York Times ngày
24.04.2013 cũng xác nhận tình trạng phá sản Kinh tế đang là nguồn bất mãn của
quần chúng để sẵn sàng NỔI DẬY.
“Tin New York - Trong một sự kiện khá đặc
biệt, hôm nay nhật báo New York Times đã đăng ngay trang nhất một bài báo về
lòng tin của người dân Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong tình
hình khó khăn hiện nay. Ký giả Thomas Fuller của New York Times đã đến tận
Saigon để nghiên cứu và viết bài này, đã tiếp xúc với nhiều người và cho biết
người dân Việt Nam nay không còn tin vào đảng Cộng sản nữa. Theo tác giả bài
báo thì Đảng Cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của
người dân về sự trượt dốc của nền kinh tế. Bài báo cho rằng giờ đây sự chỉ
trích Đảng đã bùng nổ trên toàn xã hội. Bài báo nhận xét Đảng Cộng sản Việt Nam
đã suy đồi cả về tinh thần lẫn đạo đức. Sự mục nát sẽ dẫn đến chỗ Đảng sụp đổ,
nhưng tương lai e rằng sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với hiện tại. Đặc biệt một
bài nhận định trên trang mạng cho rằng với sự thật về đảng Cộng sản Việt Nam hiện
nay, những người đã từng tham gia vào phong trào phản chiến trong những năm 60
và 70 nên treo cổ trong tủi hổ và nên xin lỗi người dân Việt Nam.
Bài viết này cho rằng nếu đảng Cộng sản
không chiếm được miền nam năm 1975, thì giờ này Việt Nam đã như Nhật Bản, Nam
Hàn, Thái Lan hay Singapore, chắc chắn là không hoàn hảo nhưng sẽ tốt hơn nhiều
và lại không có chết chóc hay tàn phá xảy ra như hiện nay.”
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC LIÊN, Kinh
tế
Geneva, 19.07.2011. Cập nhật
13.06.2013
Web: http://VietTUDAN.net
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment