Tưởng
Năng Tiến - Thứ tư, 08.5.2013
"Khi đất nuớc tôi không còn chiến tranh, trẻ
thơ đi hát đồng dao ngoài đường." - T.C. S
Hơn bốn
mươi năm trước, khi cuộc chiến ở Việt Nam còn đang ở giai đoạn khốc liệt, nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn đã mường tượng ra một viễn ảnh thanh bình làm say đắm lòng
nguời: "Khi đất nuớc tôi không còn chiến tranh, trẻ thơ đi hát đồng dao
ngoài đường."
Sau cuộc chiến, quả nhiên, trẻ con có la cà và tụm năm tụm ba hơi
nhiều trên đường phố. Chỉ có điều là tuyệt nhiên không nghe một đứa nào hát đồng
dao; đã thế, phần lớn tụi nhỏ đều tham dự tích cực vào nhiều sinh hoạt không
thích hợp cho lắm với tuổi thơ: bới rác, móc túi, ăn mày, bán cần sa, và nài nỉ
mời khách mua... dâm – với một thứ ngôn ngữ sỗ sàng và sống sượng đến độ có thể
làm đỏ mặt một người da đen hay da đỏ: “Chú ơi, chú chơi cháu đi…” (Hoàng Hữu
Quýnh– Tôi Bỏ Đảng, Tập I: Bản Cáo Trạng Chế Độ Hà Nội, trang 140, 1989, trích
từ Phản Tỉnh Phản Kháng Thực Hay Hư của Minh Võ, Thông Vũ xuất bản năm 1999).
Đó là
những chuyện chỉ có tính cách “hiện tượng,’’ xẩy ra mấy thập niên về trước, khi
hòa bình mới đuợc vãn hồi, và xã hội còn nhiều tệ đoan do tàn tích của chiến
tranh và xã hội cũ để lại. Với thời gian, bản chất của chế độ cộng sản Việt Nam
mỗi lúc được nhận biết rõ ràng hơn.
Từ Hà
Nội, ký giả Huw Watkin tường thuật rằng “cứ năm đứa bé đang lê trên vỉa hè của
ba mươi sáu phố phường là có một đứa... ăn xin. Bốn đứa còn lại, xem chừng, cũng
bận: đánh giầy, năn nỉ người đi đường mua vé số, dắt mối, bán ma
túy...”(“VIETNAM: CHILDREN SOLD INTO BEGGING, PIMPING AND DRUG DEALING”).
Cũng
vẫn theo y như lời Huw Watkin thì lực lượng trẻ con đi ăn mày, làm ma cô và bán
ma túy... ở Việt Nam đang dần được đưa vào tổ chức (“... recent media reports
that children are being increasingly used by organized begging gangs, pimps and
drug dealers”).
Chuyện
này thì thằng chả nói hơi... thừa! Ở một xứ sở mà nhà nước bao biện mọi chuyện,
và lãnh đạo khắp nơi – kể cả chùa chiền, giáo đuờng hay thánh thất... – làm sao
để cho trẻ em (những mầm non tương lai của tổ quốc) sống vô tổ chức được, cha nội?
Trong
tương lai gần, lũ trẻ thơ bụi đời ở Việt Nam (dám) sẽ được đoàn ngũ hoá – và
cho thắt khăn quàng có màu sắc khác nhau – để dễ điều phối. Đại loại như, khăn
quàng xanh: đánh giầy; khăn quàng tím: dắt mối; khăn quàng trắng: ma túy; khăn
quàng hồng: mãi dâm; khăn quàng nâu: ăn mày; khăn quàng đỏ: thu thuế và theo
dõi hoạt động, cũng như tư tưởng, của những loại khăn quàng khác!
Chiến
tranh Việt Nam kết thúc cũng chấm dứt luôn sự chia cách giữa hai miền Nam - Bắc.
Viễn tượng thống nhất (cũng) đã được hình dung bởi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trước
đó, và cũng là một hình ảnh khiến cho không ít kẻ phải ước mơ: “Một đoàn tầu đi
tỏa khói trắng hai bên đường...’’
Một lần
nữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lại đúng, dù vẫn chưa đúng hết. Sau cuộc chiến, quả
nhiên là có đoàn tầu Thống Nhất xuôi ngược Bắc - Nam. Điều đáng tiếc là hành
khách lại luôn luôn ở tâm trạng bất an. Kẻ lo bị móc túi, nếu có tí tiền. Người
lo bị công an xét hỏi và tịch thu hàng hoá, nếu là dân buôn lậu. Và tất cả đều
lo sợ bị ném đá vỡ đầu. Những hòn đá xanh, to bằng nắm tay, được trẻ con dọc
hai bên đuờng – đợi xe lửa đi qua – thi nhau ném vun vút vào cửa sổ!
Do vậy,
tầu Thống Nhất được “cải tiến” bằng cách rào kín mọi khung cửa bởi dây kẽm theo
hình mắt cáo. Từ đó, nó trông y như những toa xe dùng để chở tù. Những đoàn tầu
như thế mà đi phom phom, hớn hở hú còi, và hân hoan thơ thới, sung sướng ’’toả
khói trắng hai bên đuờng’’ thì trông (e) hơi mỉa mai và (có phần) lố bịch!
Trịnh
Công Sơn chỉ gần hoàn toàn đúng khi mô tả thảm cảnh sau đây: “Khi đất nước tôi
không còn chiến tranh, mẹ già lên núi tìm xương con mình...’’ Nói là “chỉ gần
hoàn toàn đúng” vì cuộc chiến đã tàn từ lâu. Thế hệ của những “mẹ già lên núi
tìm xương’’ đã qua nhưng chuyện đào bới hài cốt vẫn được tiếp tục bởi anh chị
em, hay bạn đồng đội của những người đã khuất – theo như tường thuật của
Rajiv Chandrasekaran, trên The Washington Post: ’’Vietnamese Families Seek
Their MIAs.”
Tổ Quốc Ghi Công. Nguồn ảnh: tranhung09
Bài
báo mở đầu bằng một câu chuyện thương tâm. Ông Nguyễn Dinh Duy tử trận ngày 29
tháng 3 năm 1975. Suốt mấy mươi năm qua, chị của ông ta (Bà Thắm) vẫn không ngừng
đi tìm kiếm xác em trong... vô vọng. Ông Duy chỉ là một trong 300.000 lính Bắc
Việt chết trận mất xác – và kể như là mất luôn (Duy is one of about 300,000
North Vietnamese soldiers killed in the war whose remains have not been located
- and likely never will be).
Tiếp theo là một câu chuyện cảm động về tình đồng đội: “Mỗi tuần một lần, ông Ban thức dậy lúc 5 giờ sáng, leo lên chiếc xe gắn máy màu xanh lá cây đã cũ, đi đến những nơi mà ông còn nhớ khi còn là một y tá trong quân đội. Trí nhớ của ông quả tốt; mười năm qua, ông tuyên bố, đã đào được 2.000 xác chết và đã nhận diện được một nửa trong số này...’’ Vẫn theo lời ông Ban: “Là kẻ sống sót, tôi tự thấy mình phải có bổn phận với những nguời đã chết (Being still alive, I feel responsible for the dead people).
Quan
niệm sống của ông Ban, tiếc thay, không được chia sẻ bởi những người hiện đang
nắm quyền bính ở Việt Nam – dù họ đều là những kẻ sống sót sau cuộc chiến vừa rồi.
Khi bị chất vấn về thái độ vô trách nhiệm này, giới chức có thẩm quyền của Hà Nội,
ông tướng Trần Bạch Đằng nào đó đã giải thích với phóng viên Rajiv Chandrasekaran
như sau: ’’...tìm kiếm những binh sĩ quá tốn kém mà tiền thì phải dùng vào việc
chăm lo cho cho những kẻ còn sống sót.’’(Dang said the cost of searching for
missing soldiers must be weighed against the need to care for the survivors of
the war).
Vì đảng viên Cộng Sản Việt Nam là những nguời theo chủ thuyết duy vật nên không quan tâm đến những việc làm có tính cách duy tâm chăng? Nói vậy e không được ổn. Nhìn cái cách họ ’’thờ’’ ông Hồ Chí Minh thì biết. Họ có cả một Bộ Tư Lệnh để bảo vệ lăng ông ta mà. Họ đâu phải là những kẻ vô tâm và lo tốn kém.
Họ ướp
xác ông Hồ và bảo trì cũng như bảo vệ nó tới cùng chỉ vì nó có giá trị như một
thứ môn bài (patent) cho phép họ tiếp tục hành nghề cách mạng – hay ít nhất
thì họ cũng tưởng hoặc mong như thế; còn 300.000 ngàn bộ xuơng của đám binh sĩ
chết dấm chết dúi đâu đó, trong cuộc chiến vừa rồi, đâu còn một chút giá trị thực
tiễn nào nữa khiến họ phải quan tâm.
Rõ
ràng họ không phải là những người duy vật, cũng không phải là những kẻ duy tâm
mà là những tên duy... lợi ! Hãy nhìn vào thực tế, xem cô nhi quả phụ hay bố mẹ
của những kẻ đã hy sinh được “chăm lo’’ ra sao – từ nửa thế kỷ qua ?
‘’Lúc ấy người ta sợ nhất là nhìn thấy người
phát thơ. Hàng ngày hàng trăm cái thơ báo tử để trong xắc cốt nguời cán bộ xã.
Anh ta đi đến nhà nào là mang đau thương tang tóc đến nhà đó... họ sợ nhất là
sau cái ’lễ truy điệu trọng thể để ’Tổ Quốc ghi công’ là họ bị đẩy ra lề xã hội,
không ai nuôi dưỡng.’’ (sđd trang 136 -138).
“’Lúc ấy’’, qua đoạn văn vừa dẫn, là hình ảnh
của xã hội miền Bắc vào thập niên 60 và đầu 70 - khi mà Đảng Cộng Sản Việt Nam
còn cần động viên xương máu người dân cho chinh chiến. Cuộc chiến đã tàn. Bây
giờ thì họ còn cần gì đến ai nữa? (Nói chi đến mộ phần của những tên “lính ngụy”
ở Nghĩa Trang Quân Đội!)
Phế binh: Nguồn ảnh: tranhung09
Do
đó, khi thấy một phế nhân lê la xin ăn trên hè phố Sài Gòn hôm nay đừng vội nghĩ
đó là thương binh của quân đội miền Nam. Không nhất thiết như thế đâu. Bây giờ
ăn mày là một cơ hội đồng đều (equal opportunity), không phân biệt tuổi tác, giới
tính hay thành phần xã hội.
Ranh
giới giữa kẻ thắng và người bại đã bị xoá nhòa từ lâu ở đất nước này. Nơi đây –
trước đói rách, khủng bố và mọi bất công xã hội – tất cả đều bình đẳng. Việt
Nam hôm nay chỉ còn một nhóm người thu tóm hết quyền bính, đất đai, cũng như sở
hữu mọi tài sản xã hội, và cả một dân tộc bị trị vì đã bị lừa gạt trắng trợn -
thế thôi.
Bài
báo của Rajiv Chandrasekaran kết thúc bằng một tâm sự não lòng: “Tháng 4 năm
nay khi cả nước đang chuẩn bị kỷ niệm 25 năm sau ngày ’giải phóng miền Nam’ và
thống nhất đất nước nhiều gia đình đã đến nghĩa trang để thăm mộ thân nhân.
Riêng bà Thắm thì có cảm tưởng mình bị bỏ rơi. Theo bà ta thì ’em tôi đáng lẽ
phải nằm trong nghĩa trang liệt sĩ chứ đâu phải ở rừng sâu.’(My brother belongs
in the Martyrs’ Cementery,’’ Tham said, ’’not out in the jungle’’).
Người
ta có thể hiểu được tình thương yêu vô hạn của bà Thắm đối với người em vắn số
nhưng thực khó mà chia sẻ với bà ta cái ảo tưởng rằng ông Nguyễn Dinh Duy là liệt
sĩ. Cùng với hàng triệu người khác nữa, sự hy sinh của ông Duy – chung cuộc –
chỉ đẩy cả một dân tộc vào cảnh lầm than và băng hoại.
Bà Thắm
vẫn chưa nhận ra được rằng cái được mệnh danh là cuộc chiến “chống xâm lược’’
và “giải phóng miền Nam’’ vừa qua chỉ là những canh bạc bịp. Nhờ vào gian
manh, thủ đoạn và tất cả những mánh khoé lường gạt cần thiết nên Đảng Cộng Sản
Việt Nam đã thắng. Còn nhân dân thì thua trắng tay.
Họ mất
ráo mọi thứ, kể cả xương cốt của người thân, để đổi lấy... những bảng ghi công:
Liệt Sĩ, Gia Đình Có Công Với Cách Mạng, Mẹ Việt Nam Anh Hùng... Hoặc giản dị
hơn nữa là một cái bãi đất mênh mông (chi chít bia mộ) với bốn chữ “Nghĩa
Trang Liệt Sĩ" treo ở cổng vào, và chấm hết.
Chỉ
có thế thôi mà bà Thắm vẫn bị đứng ngoài. Bà ta có lý do để buồn, dù đó một nỗi
buồn “không lấy gì làm chính đáng.’’ Buồn hơn nữa là gần một phần hai thế kỷ
sau khi chiến tranh chấm dứt, một số nguời Việt ở hải ngoại – những kẻ có
nhiều cơ hội để nhìn vấn đề một cách khách quan hơn – vẫn tiếp tục tranh cãi và
xỉ vả lẫn nhau về những chuyện rất không cần thiết và cũng chả chính đáng tí
nào.
Họ giống như những nguời đàn bà nhà quê đi chợ bằng xe lam. Trên xe
bị một thằng lưu manh dụ chơi bài ba lá, lột hết tiền, và đuổi xuống xe. Thay
vì xúm nhau, túm cổ thằng khốn nạn, vả cho nó rụng hết răng rồi lấy lại tiền
thì họ quay ra xa xả đổ thừa lỗi lầm cho kẻ này người nọ; sau đó, họ cãi vã và
xỉa xói lẫn nhau – bằng những ngôn từ nặng nề và thô tục đến độ khó ngờ.
~~~~~~~~~~~~~~~~~
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment