Tàu không hợp tác - Ta chẳng đấu tranh
Nguyễn Thanh Văn@S:
Nội trong ngày 26 tháng 11 vừa qua, hai tàu đánh cá của ngư dân
Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc tấn công, cướp phá ngư cụ, ngư sản nhiều lần tại
khu vực biển Hoàng Sa. Những ngư dân khốn khổ Việt Nam phải lạy lục bọn cướp
biển mang danh nghĩa “cơ quan thi hành pháp luật Trung Quốc“, mới được chúng
tha cho mạng sống để cùng những con tàu đánh cá đầy thương tích “may mắn“ về
được đến bến nhà Quảng Ngãi trong nỗi hoảng loạn cùng cực. Nói “may mắn“ là vì
đã bao nhiêu lần tàu đánh cá của ngư dân ta gặp tàu Trung Quốc, người thì bị
bắn giết, tàu thì bị đâm chìm ngay trên biển nhà.
Chuyện hai con tàu đánh cá của ông Đỗ Thành và Phạm Ý vừa kể chỉ
là hai trường hợp mới nhất trong hàng ngàn vụ “tàu lạ đâm chìm tàu ta“ diễn ra
suốt hơn 10 năm qua. Những chuyện thương tâm mà ngư dân Việt Nam phải chịu đựng
trong bối cảnh như được ngư dân Đỗ Thành kể lại: Nhà nước kêu đi ra Hoàng Sa
để bám biển giữ cho Nhà nước thì mình ra làm chứ có biết gì đâu! Chỗ nào Nhà
nước bảo đi làm thì mình đến thôi. Đi đánh bắt thì chẳng có tàu hải quân nào
bảo vệ“(1). Chắc chắn cảnh này sẽ còn tiếp diễn ngày nào đảng CSVN còn coi
Bắc Kinh "vừa là thầy vừa là anh". Thái độ của lãnh đạo đảng CSVN
trước việc Trung Quốc gặm nhấm dần chủ quyền biển đảo Việt Nam từ xưa đến nay
đã chứng minh quá rõ điều này.
Chính vì vậy mà dân chúng bật ra nhiều câu hỏi khi thấy tại kỳ họp
quốc hội vừa qua, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố đối sách trên biển Đông
của Việt Nam là: “Vừa hợp tác, vừa đấu tranh“ với Trung Quốc. Hợp tác
như thế nào? Đấu tranh ra làm sao?
Về phía Trung Quốc thì những hành động thù nghịch, gây rối liên
tục trên biển Đông của họ gần như đã được các cơ quan truyền thông nhiều nước
đề cập đến thường xuyên, nên có lẽ không cần liệt kê chi tiết nữa. Nhưng có thể
tóm gọn bằng lời nhận định của Đô Đốc Locklear, Tư lệnh Bộ Chỉ Huy Mỹ ở Thái
Bình Dương, trong cuộc họp báo tại Trung tâm Đông-Tây, Hawaii hôm 28-8 rằng:
những hành động của Trung Quốc ở biển Đông là những hành vi khiêu khích, gây
rối và vô trách nhiệm (2).
Về phía Việt Nam thì phải kể đến hai loại phản ứng: từ phía dân
chúng và từ phía nhà cầm quyền. Đối với người dân, trước những vụ tàu ngư dân
ta bị bọn giặc Tàu hiếp đáp trên vùng biển của ta đến nỗi ngư dân ta phải lạy
chúng mới tha, người Việt khắp nơi không chỉ thấy đau lòng mà còn phẫn nộ. Nếu
phẫn nộ về sự tàn ác và khiêu khích trắng trợn của Tàu một, thì phẫn nộ gấp
mười những kẻ cầm quyền Việt Nam cực kỳ hung tợn với đồng bào mình, nhưng lại
vô cùng hèn nhát với giặc. Bởi vậy câu ’’hèn với giặc, ác với dân“ đã trở thành
câu nói nằm lòng của dân chúng khi nói về chế độ. Đối với dân chúng thì chế độ
tại Việt Nam chỉ có được một sản phẩm tốt, đó là đoạn băng phản đối Trung Quốc
của người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam. Dù đã phát đi phát lại không biết
bao nhiêu lần nhưng vẫn “tốt“ như lúc đầu, không sai lấy một chữ.
Còn phản ứng của nhà cầm quyền là đùn cho ngư dân tay không ra bám
biển để bảo vệ chủ quyền đất nước. Quân đội dù đã được chi biết bao ngân quĩ
quốc gia để sắm mua vũ khí nhưng tất cả được lệnh “không làm phức tạp thêm tình
hình” nên chỉ ngồi trên bờ để quan sát và gắn thêm hàm tướng cho nhau. Ở cấp
lãnh đạo thượng tầng, họ chỉ biết thay nhau ca ngợi tầm quan trọng của “tình
hữu nghị Việt – Trung“. Tướng Phùng Quang Thanh đã nói như vậy tại Hội Nghị Bộ
Trưởng Quốc Phòng các nước ASEAN.
Không những thế, trong khi các quốc gia đều
quan tâm đến tình hình Trung Quốc gây bất ổn ở biển Đông và thương cảm Việt Nam
thì tướng Thanh coi những “va chạm“ với Trung Quốc là “chuyện gia đình“ (như
hàm ý Việt Nam là một phần của Trung Quốc theo đúng tinh thần Hội nghị Thành
Đô). Điệp khúc ca ngợi tầm quan trọng của “tình hữu nghị Việt – Trung“ cùng “16
chữ vàng“ cũng được các giới chức cao cấp cả Việt Nam lẫn Trung Quốc lập lại
sau chuyến 13 tướng lãnh Việt Nam và tướng công an Trần Đại Quang sang chầu Bắc
Kinh.
Từ vụ giàn khoan Hải Dương 981 vào mùa hè năm nay, Bắc Kinh đã
chứng minh cho cả thế giới thấy họ muốn đưa giàn khoan vào lãnh hải của Việt
Nam lúc nào thì đưa, muốn rút đi lúc nào thì rút, và nay đang công khai chuẩn
bị đưa 9 giàn khoan mới vào biển Đông sau mùa biển động. Cùng lúc, Bắc Kinh
tiếp tục ngang nhiên gia tăng việc bơm cát mở rộng, tôn tạo các đảo, các bãi
ngầm mà Trung Quốc đã lấn chiếm thành những căn cứ quân sự; tiếp tục tông chìm
tàu bè, hiếp đáp ngư dân Việt Nam.
Trong khi đó, lãnh đạo Việt Nam chỉ biết tiếp tục cho toàn đảng
học tập “Mỹ mới là kẻ thù chính và lâu dài“; và tiếp tục chính sách “ba không“
về quốc phòng (3).
Rõ ràng thực tế suốt một thập niên qua cho thấy: BẮC KINH KHÔNG HỀ
HỢP TÁC và HÀ NỘI CHẲNG HỀ ĐẤU TRANH.
Qui luật trên đã được ông Nguyễn Phú Trọng gián tiếp xác nhận một
lần nữa trong buổi tiếp xúc với “cử tri“ Hà Nội vào ngày 6/12/2014: “Xung
quanh vấn đề biển Đông có ý kiến nói là chúng ta mềm quá phải kiên quyết hơn
nữa. Vậy kiên quyết hơn thì phải làm thế nào? Đây là vấn đề rất lớn và trung
ương chỉ đạo chặt chẽ. Trong thời gian Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan
thì Bộ Chính trị họp liên tục. Chúng ta phối hợp rất nhiều biện pháp, huy động
sức mạnh tổng hợp để đấu tranh...“(4). Đây là bài học thuộc lòng bất biến
được dùng trong suốt một thập niên qua, nếu dịch ra tiếng Việt chỉ có nghĩa là
không có việc làm cụ thể nào cả! Hay nói cách khác, lãnh đạo đảng đã họp vô số
lần nhưng không biết phải làm gì cả! Ngay cả quốc hội Việt Nam cũng không dám
ra một nghị quyết nào về biển Đông, mà phải chờ quốc hội Mỹ ra nghị quyết rồi
“ăn theo“.
Chính vì thế mà nhiều chuyên gia Việt Nam đã vô cùng chán nản khi
góp hết tâm huyết cố thuyết phục việc kiện Trung Quốc ra trước quốc tế để bảo
vệ chủ quyền, nhưng Hà Nội vẫn chỉ ngồi bất động. Hà Nội không dám kiện, nhưng
lại “ăn theo“ Phillipine khi nước này kiện Trung Quốc. Hôm 5/12 vừa qua, Hà Nội
chuyển đến Toà án Trọng tài Thường trực (Permanent Court of Arbitration – PCA)
một tuyên bố chính thức về các "quyền lợi ích" của mình ở Biển Đông.
Một việc mà Giáo sư Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, gọi là “kiện
cửa sau“ (5) và chỉ là “hành động tối thiểu“ mà Hà nội dám làm. Lãnh đạo đảng
không dám nhắc đến cả từ "chủ quyền Việt Nam" trong công văn nói trên.
Tóm lại, “vừa hợp tác vừa đấu tranh“ của lãnh đạo đảng CSVN là như
thế. Nghĩa là vẫn theo sát lời dạy của đại sứ Trung Quốc Tôn Quốc Tường trong
cuộc họp báo tại Hà Nội đầu năm 2010: “Hợp tác sẽ phát triển, đấu tranh sẽ
thất bại“(6).
Trong bài “Tháng 12 ngoài Gạc Ma“ trên trang điện tử báo Thanh
Niên ngày 07/12 (7), nhà báo Mai Thanh Hải đã thuật lại, khi những người lính
trên tàu HQ-011 Đinh Tiên Hoàng đến gần đảo Gạc Ma trong một chuyến công tác,
nhìn thấy Trung Quốc chỉ trong vài tháng đã biến đổi bãi đá san hô ngầm mà họ
đã đánh chiếm trái phép từ tay những người lính hải quân nhân dân Việt Nam,
thành căn cứ quân sự của họ.
Các chiến sĩ hải quân tàu HQ-011 “Khuôn mặt ai
cũng sắt lại, uất ức, từ vị đại tá già cho đến cậu chiến sĩ mới nhập ngũ. Đây
Gạc Ma - bãi đá thiêng liêng của Tổ quốc đã bị Trung Quốc bất ngờ nổ súng tấn
công, giết hại 64 cán bộ chiến sĩ công binh hải quân Lữ đoàn 83, Lữ đoàn 146
bảo vệ đảo Trường Sa, Học viện Hải quân, Đoàn đo đạc bản đồ Bộ Tham mưu hải
quân, Lữ đoàn tàu 125, và bắn cháy, bắn chìm 3 tàu vận tải HQ-604, HQ-605,
HQ-505 của chúng ta, trong buổi sáng 14.3.1988.“
Điều mà có lẽ nhà báo Mai Thanh Hải và các chiến sĩ trên tàu
HQ-011 không biết là sự bi thương vừa kể cũng đến từ sự “hợp tác“ của Bộ Chính
Trị đảng CSVN với Bắc Kinh qua lệnh “không được nổ súng“ để tự vệ và bảo vệ Gạc
Ma. Trước đó nữa là “sự hợp tác“ bằng công hàm Phạm Văn Đồng; và sau đó là hội
nghị Thành Đô, các hiệp định phân định biên giới trên bộ và trên biển,... Tất
cả đã đặt nền tảng cho tình cảnh biển Đông ngày hôm nay.
- - -
Ghi chú
3. Không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân
sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam
và không dựa vào nước này để chống nước kia.
6. Tôn Quốc Tường, đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam: “Hợp tác sẽ
phát triển, đấu tranh sẽ thất bại“ http://vnn.vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Cho-dieu-kien-chin-muoi-giai-quyet-tranh-chap-bien-Dong-888092/
7. Tháng 12 ngoài Gạc Ma, http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141206/thang-12-ngoai-gac-ma.aspx
Thông Tin Đức Quốc - http://www.ttdq.de/node/1957
Thương
mại Việt Nga trong bối cảnh đồng Rúp suy sụp
Kính Hòa,
phóng viên RFA
2014-12-16
2014-12-16
Bảng niêm yết giá ngoại tệ đối với đồng rúp của Nga
bên ngoài một văn phòng giao dịch tại Moscow ngày 12 tháng 12 năm 2014.
AFP photo
Nền kinh tế Nga đang suy yếu do việc cấm vận của phương Tây và giá
dầu sụt giảm, việc này có ảnh hưởng ra sao đối với quan hệ thương mại Việt Nga,
Kính Hòa phỏng vấn Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế từ Hà Nội.
TS Lê Đăng Doanh: Việc đồng rúp giảm giá, và nhất là gần đây có hiện tượng giảm
rất đột ngột, ví dụ như ngày hôm qua, trong một ngày mà giảm tới 11%. Và tính
từ đầu năm đến nay, theo nhiều nguồn tin khác nhau thì đồng Rúp giảm đến 40 đến
50%, việc này ảnh hưởng lớn đến kinh tế nước Nga, và cũng có ảnh hưởng nhất
định đến thương mại giữa Việt Nam và nước Nga. Ví dụ như là khách du lịch Nga
đến vùng Nha Trang và Mũi Né đã giảm đáng kể.
Bây giờ chắc chỉ còn khoảng 30%, việc này làm cho các khách sạn nhà
hàng ở vùng đấy trước giờ chuyên môn hóa để đón khách Nga, ví dụ như là các
khách sạn nhà hàng đều có bảng hiệu bằng tiếng Nga, thì nay đang gặp khó khăn
lớn. Thứ hai nữa là quan hệ xuất nhập khẩu giữa Nga và Việt Nam sẽ gặp khó khăn
vì sức mua của Nga giảm, việc thanh toán bằng đồng đô la chắc chắn gặp khó
khăn. Điều này sẽ làm giảm việc xuất khẩu của Việt Nam sang Nga và việc thanh
toán của Nga bằng đồng ngoại tệ. Còn về lâu dài thì nếu kinh tế Nga vẫn bị ảnh
hưởng nghiêm trọng thì sẽ có thể ảnh hưởng đến các dự án đầu tư của Nga ở Việt
Nam.
Kính Hòa: Với những ngành có
hàng hóa xuất khẩu sang Nga thì ngành nào sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất thưa Giáo
sư?
TS Lê Đăng Doanh: Tôi nghĩ các ngành như là dệt may, xuất khẩu hàng da giầy, xuất
khẩu các sản phẩm điện tử có thể là ảnh hưởng mạnh. Trong khi đó thì xuất khẩu
hàng nông sản thì Nga đang cần và hiện đang bị các nước Liên minh châu Âu cấm
vận, cho nên có thể các mặt hàng nông sản vẫn được Nga nhập khẩu và có khả năng
thanh toán bằng đồng đô la vì đấy là những mặt hàng nước Nga đang cần và họ
không thể nào thay thế được.
Kính Hòa: Giáo sư có thể nói
thêm về các dự án đầu tư của nước Nga tại Việt Nam?
TS Lê Đăng Doanh: Hiện nước Nga có nhiều cam kết trong ngành dầu khí, và ngành dầu
khí của Nga vẫn đang tiếp tục thực hiện các việc đó. Nhưng nếu giá dầu giảm đến
một mức độ nhất định thì các công ty Nga sẽ phải tính toán lại cái tỉ suất lợi
nhuận để xem các dự án khoan dầu còn có thể có lợi hay không. Nếu không thấy có
lợi nhuận thì tôi nghĩ là họ sẽ xin giảm tiến độ để chờ tình hình cải thiện khi
giá dầu lên thì họ sẽ tiếp tục, chứ tôi không tin là họ sẽ bỏ những dự án đó.
Kính Hòa: Việt Nam và những
doanh nghiệp Việt Nam phải làm gì để đối phó với các khó khăn hiện thời và
những dự báo không sáng sủa của nền kinh tế Nga?
TS Lê Đăng Doanh: Bài học của các doanh nghiệp du lịch Việt Nam là không nên bỏ
trứng vào một giỏ. Các doanh nghiệp vùng Mũi Né và Nha Trang thì đã quá say sưa
với khách Nga, chỉ hoàn toàn toàn chuyên môn hóa vào một khách hàng. Các cửa
hàng, các nhà hàng có biển hiệu hoàn toàn bằng tiếng Nga. Điều đó cũng không
gây thiện cảm cho các du khách không phải người Nga. Nhiều người nước ngoài đến
đó và nói lại với tôi là họ lấy làm không hài lòng vì đã rơi vào một thành phố
Nga, rồi thì là sau 10 giờ đêm có những người Nga say sưa cầm chai rượu đi ca
hát ngoài đường, cái điều đó cũng không phù hợp với một số du khách châu Âu.
Tôi nghĩ bài học là Việt Nam nên tìm cách đa dạng hóa thị trường.
Hiện nền kinh tế Nga đang sút giảm thì tôi nghĩ là ngành dệt may và da giày của
Việt Nam sẽ có nhiều khả năng đa dạng hóa. Gần đây các đơn đặt hàng của ngành
dệt may và da giày tăng lên mạnh mẽ. Nhiều doanh nghiệp nhận đơn đặt hàng quá
cả công suất của họ. Tôi nghĩ là ngành dệt may và da giày không có tác động gì
nặng nề.
Kính Hòa: Tức là những đơn
đặt hàng từ những thị trường khác chứ không phải thị trường Nga phải không Giáo
sư?
TS Lê Đăng Doanh: Vâng, từ những thị trường khác. Vả lại giao thương giữa Việt Nam
và Nga vẫn còn khiêm tốn so với lại Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu hay là các nước
ASEAN khác.
Kính Hòa: Xin Tiến sĩ cho câu
hỏi cuối là trong việc giao thương giữa Nga và Việt Nam thì cộng đồng người
Việt ở Nga đóng một vai trò quan trọng, đôi khi cũng không thấy được qua các
con số kinh tế thống kê. Thưa Giáo sư trong cuộc khủng hoảng hiện thời và có
thể là trong tương lai nữa, thì Giáo sư đánh giá thế nào về sự ảnh hưởng lên
cộng đồng người Việt ở Nga và sự đóng góp của họ trong sự giao thương giữa đôi
bên?
TS Lê Đăng Doanh: Cộng đồng người Việt ở Nga thì rất là đa dạng, nhưng mà cộng
đồng người Việt sống bằng kinh doanh ở vùng Mát Cơ Va thì bị ảnh hưởng rất nặng
nề. Vì họ thường là nhập khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang để bán, nay đồng Rúp
giảm giá quá nhiều nên giá tăng rất nhanh, nhưng giá hàng trên thị trường Nga
lại không tăng nhanh bằng sự mất giá của đồng Rúp. Cho nên là hiện nay họ mất
khả năng thanh toán, họ chịu thua lỗ. Đã có hiện tượng kho hàng ứ đọng và hiện
tượng nợ dây chuyền giữa người Việt Nam này với người Việt Nam khác, người Việt
Nam nhập khẩu không thanh toán được, và người bán hàng hiện nay cũng không
thanh toán được.
Tôi nghĩ là cộng đồng người Việt làm kinh tế ở Nga nên xem xét lại
việc kinh doanh, phải chuyển hướng kinh doanh, và phải tìm một cái cách để mà
sống sót trong cái cơn bão rất là nặng nề và cay đắng này. Tôi rất thông cảm
với họ trong tình hình nước Nga hiện nay.
Kính Hòa: Xin cám ơn Tiến sĩ
đã dành thời giờ cho đài Á châu tự do thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Đồng
rúp Nga tiếp tục trượt giá, vượt ngưỡng mới
Người dân đi qua một biển tỷ gia hối đoái ở
trung tâm Moscow, 1/12/2014.
16.12.2014
Giá trị đồng rúp của Nga hôm thứ Hai lại sụt xuống mức thấp mới so
với đồng đôla và đồng euro, trong khi ngân hàng trung ương của Moscow dự đoán
lạm phát sẽ tăng cao và nền kinh tế sẽ suy thoái.
Đồng rúp yếu đi hơn 5 phần trăm, lần đầu tiên vượt ngưỡng 60 rúp
đổi một đôla và 75 rúp đổi một euro. Đồng nội tệ của Nga đã giảm 19 phần trăm
chỉ riêng trong tháng này, và hơn 86 phần trăm kể từ tháng 1 năm nay, mặc dù
ngân hàng trung ương đã tung hàng tỉ đôla can thiệp thị trường trong một nỗ lực
kiềm chế đà trượt giá của đồng rúp.
Đồng rúp mất giá trong bối cảnh giá dầu - xương sống của nền kinh
tế Nga - giảm mạnh. Ngoài ra đồng rúp còn bị ảnh hưởng bởi những biện pháp
trừng phạt kinh tế mà Mỹ và châu Âu áp đặt lên Nga vì Tổng thống Vladimir Putin
can thiệp vào Ukraine ủng hộ phiến quân thân Nga đang chiến đấu với lực lượng
Ukraine.
Tỷ giá đồng rúp với đồng đôla Mỹ từ tháng
10/2013-12/2014.
Ngân hàng trung ương Nga cho biết lạm phát có thể chạm mức 11,5
phần trăm trong ba tháng đầu năm 2015 trước khi giảm bớt. Đồng thời, ngân hàng
nói rằng nền kinh tế Nga có phần chắc sẽ suy thoái vào năm sau.
Ngân hàng Thế giới tuần trước dự đoán rằng nếu giá dầu trung bình
là 78 đôla một thùng vào năm sau thì nền kinh tế Nga sẽ giảm 0,7 phần trăm.
Nhưng suy thoái kinh tế sâu hơn chắc chắn là điều khả dĩ, bởi giá
dầu hiện đang dao động ở mức khoảng 60 đôla một thùng và vẫn đang giảm dần kể
từ giữa năm. Nếu giá dầu vẫn ở mức 60 đôla, ngân hàng trung ương nói nền kinh
tế của Nga có thể thu hẹp tới 4,8 phần trăm vào năm sau.
Saudi Araba và Trận
Chiến với Đá Phiến Hoa Kỳ
Hùng Tâm
Trong vụ dầu thô giảm
giá, đại gia Saudi mưu tính những gì?
* Saudi lái xe
goòng OPEC muốn đẩy dầu Mỹ xuống hố *
Từ ngày mùng 10 Tháng
Sáu, trong sáu tháng qua giá dầu thô trên thế giới đã giảm mạnh, như trên thị
trường NYMEX tại New York, từ hơn 102 Mỹ kim một thùng nay mấp mé 60, sụt 40%.
Về lý do thì kể ra rất
nhiều, nhưng tóm tắt cho dễ nhớ thì chỉ vì số cung tăng mà số cầu lại giảm.
Cách nay hai tháng, trên cột báo này, "Hồ Sơ Người-Việt" đã có bài
giải thích chuyện đó ("Khi Dầu Thô Sụt Giá - Ngã giá chiến lược bằng dầu
thô", ngày 15 Tháng 10).
Hôm Thứ Tư mùng 10 Tháng
12, giá dầu cho kỳ hạn Tháng Giêng năm tới trên thị trường NYMEX còn tuột thêm
4% và gây chấn động với chi số Dow Jones mất gần 270 điểm vì 1) cơ quan thông
tin năng lượng Mỹ (US Energy Information Agency hay EIA, khác International
Energy Agency IEA của tổ chức OECD) cho biết tồn kho của Mỹ (dự trữ có sẵn) lại
cao hơn dự đoán và 2) khi Tổ chức OPEC của 12 quốc gia xuất cảng dầu thô dự báo
là số cầu của thế giới cho năm tới sẽ còn giảm.
Chúng ta đều có thể suy
đoán rằng giá dầu mà giảm thì các nước hay các nhà sản xuất đều thiệt. Và ngược
lại, quốc gia hay giới tiêu thụ lại có lợi. Nhưng ta nên tìm hiểu thêm rằng vào
hoàn cảnh đó, các nhà cung cấp mưu tính những gì? Vì dầu thô là sản phẩm có
tính chất chiến lược – thiếu là không được – từng được sử dụng như một võ khí
vào các năm 1972, 1979, 2008 - sự tính toán ấy cũng trở thành chiến lược: nó
bao hàm các yếu tố kinh tế (cung cầu), kinh doanh (lời lỗ) và chính trị (được
thua trong quan hệ quốc tế).
Trong trận chiến dầu thô
hiện nay, một đại gia xuất cảng là Liên bang Nga bị tê liệt và chịu trận, có
khi lâm vào khủng hoảng kinh tế rồi chính trị. Một đại gia khác là Vương quốc
Saudi Arabia thì trường vốn hơn nên lại có mưu khác. Trong cách tính đó cũng có
ý đồ là làm nản chí đại gia mới nổi là Hoa Kỳ.
Hoàng gia Saudi nhắm vào
các doanh nghiệp dầu khí Mỹ đang dùng kỹ thuật "fracking" để nâng số
cung. Giá mà quá hạ thì các doanh nghiệp này hết lời nên bỏ cuộc chơi và trả
lại vị trí thống trị cho Saudi...
Câu chuyện lý thú ấy thể
hiện ra sao và có hậu quả thế nào?
Bối Cảnh Chung Của Chiến
Trường
Thị trường năng lượng có
nhiều sản phẩm khác nhau như dầu thô, khí đốt, than đá, nguyên tử, quang năng,
phong năng, thủy điện, v.v... Có ảnh hưởng nhất vì được sử dụng nhiều nhất hiện
nay vẫn là dầu và khí. Trong lãnh vực dầu khí thì dầu thô có tính chất dẫn đạo
vì giá cả khí đốt được tính từ giá dầu thô.
Trên thị trường dầu thô,
người ta đếm thực lực của nhà sản xuất là sức cung cấp mỗi ngày, sản lượng một
ngày, hay nhật lượng. Nhật lượng ấy được tính bằng một đơn vị phổ biến – không
duy nhất - đã tiêu chuẩn hóa cho các thị trường. Đó là ngàn thùng dầu, mỗi
thùng có dung tích là 42 gallons của Mỹ, cho dễ nhớ thì tương đương với khoảng
160 lít. Báo chí chuyên đề thường dùng ký hiệu "bpd" – barrels per
day.
Nói về cách điểm quân
tính số xong thì ta bước vào bàn cờ.
Tính đến cuối năm ngoái,
thế giới có năm khu vực sản xuất lớn nhất. Do tổ hợp BP tính ra theo thứ tự từ
cao đến thấp thì đấy là 1) Trung Đông gồm Saudi, Kuweit, Iran, Iraq, v.v...
(nhật lượng hơn 18 ngàn thùng): 2) đại lục Âu Á, từ Bắc Âu qua Liên bang Nga
đến Trung Á (hơn 17 ngàn); 3) Bắc Mỹ gồm Canada, Hoa Kỳ và Mexico (gần 17
ngàn); 4) Phi Châu, từ Algérie qua Libya, Ai Cập tới các nước miền Nam (gần
chín ngàn); 5) Á châu Thái bình dương, từ Tầu, Úc tới các nước Đông Nam Á kể cả
Việt Nam (hơn tám ngàn); và sau cùng, 5) là Nam Mỹ (hơn bảy ngàn).
Trên đại thể thì vậy,
thực tế thì ba đại gia tại ba lục địa đang dẫn đầu thế giới về sản lượng là 1)
Saudi Arabia (nhật lượng 11 ngàn 525 ngàn, 11.525 ngàn thùng), 2) Liên bang Nga
(nhật lượng là 10.788 ngàn thùng) và 3) Hoa Kỳ (10 ngàn thùng). Đó là tình hình
của 2013. Chứ bây giờ, nhờ kỹ thuật gạn cát ra dầu, Mỹ vừa qua mặt Nga và đang
đuổi kịp Saudi.
Và tình hình đó thay đổi
hàng tháng khi ta đếm thùng dầu hàng ngày.
Thực Lực Cũng Là Phép
Tính Trừ
Đấy là về sản lượng.
Về sức tác động thì
người ta phải tính đến số xuất cảng, tức là sai biệt giữa sản xuất và tiêu thụ.
Như về khía cạnh đó, dù có nhật lượng là hơn bốn ngàn thùng, Trung Quốc sản
xuất không đủ cho nhu cầu nên chẳng xuất cảng một giọt mà còn qua mặt Hoa Kỳ
thành quốc gia nhập cảng nhiều nhất thế giới. Trong khi đó, Mỹ thường xuyên cải
tiến hiệu năng tiêu thụ từ mấy chục năm qua nên mới thành đại gia có ảnh hưởng
đến giá cả toàn cầu. Chỉ cần bơm thêm dầu - và nhập cảng ít hơn - kinh tế Hoa
Kỳ cũng mặc nhiên nâng số cung trên thế giới và ảnh hưởng đến giá cả.
Ngoài khả năng xuất
cảng, có một cách nhìn khác về thực lực trên chiến trường dầu hỏa là nền kinh
tế nội địa của từng quốc gia sản xuất lệ thuộc đến mức nào vào nguồn tài nguyên
này? Đấy là chuyện "trời cho", đi cùng phép "nhân tạo".
Nhờ trời cho, dầu thô
của Saudi Arabia có đặc tính hóa chất là "ngọt" và "nhẹ"
hơn dầu thô của Nga nên tốn chưa bằng một phần ba phí tổn của Nga là có được
một thùng dầu. Nhờ yếu tố nhân tạo là hợp tác với Tây phương tại một trung tâm
địa dư về dầu khí, Hoàng gia Saudi cũng cải tiến kỹ thuật và có hiệu năng sản
xuất cao hơn.
Một cách tính về khả
năng đó là "điểm hòa vốn", bán dầu cỡ giá nào trở lên thì bắt đầu có
lời? Hoặc dầu sụt giá tới đâu thì bắt đầu lỗ? Điểm hòa vốn của Nga là 102 đô la
một thùng, của Saudi là 95 đồng. Bi thảm nhất là Venezuela hay Libya với
"tử điểm" là 140 hay 148 đồng.
Nhưng tính như vậy vẫn
chưa đủ tinh.
Vẫn biết rằng cả Saudi
Arabia và Nga đều sống nhờ dầu khí - nguồn thu đáng kể cho ngân sách - nhưng
hai xứ này có dự trữ ngoại tệ cao thấp khác nhau khả dĩ cầm hơi cho đến ngày
dầu lại lên giá quá trăm bạc. Dự trữ của Saudi là 740 tỷ đô la, của Nga thì chỉ
có vỏn vẹn 444 tỷ.
Vì vậy, trong ba đại gia
Mỹ, Nga và Saudi, nước Nga coi như khó thở. Ngân sách 2014 của Tổng thống
Vladimir Putin trù tính là giá dầu sẽ ở mức 117 đồng, nếu sụt tới 90 đồng là xứ
này sẽ tá hỏa như đã bị đúng năm năm về trước. Hôm nay, giá dầu chập chờn ở sáu
chục bạc, cho nên Putin đang ôm đầu rầu rĩ. Còn lại là Hoa Kỳ.
Nhưng Saudi không đứng
một mình. Đấy là trưởng tràng của Hiệp hội OPEC quy tụ 12 quốc gia xuất cảng
dầu.
OPEC Nhập Trận
Trước hội nghị thường
niên của OPEC vào ngày 27 tháng trước tại Vienna, Saudi từ chối lời dụ của Nga
là cùng giảm sản lượng để vì thăng bằng cung cầu mà làm dầu lên giá. Nhờ trường
vốn hơn, Saudi cũng bác bỏ đề nghị đó của nhiều thành viên OPEC khác mà lại
còn... đổ thêm dầu vào lửa. Họ xác nhận là sẽ bán dầu cho Mỹ rồi các nước Á
Châu với giá rẻ hơn.
Vì sao họ tính ngược như
vậy?
Lý luận sách vở của
OPEC, một liên minh làm giá, là điều tiết sản lượng để ổn định giá dầu... trên
đỉnh cao. Khi dầu lên giá quá cao thì tăng số cung để hạ giá, nếu không, kinh
tế của các xứ mua dầu sẽ khốn đốn và họ nhập ít hơn thì OPEC cũng khốn khó. Đó
là phép khôn ngoan của kẻ không muốn giết con gà đẻ trứng vàng. Ngược lại, khi
dầu thô sụt giá thì ta phải hãm vòi bơm để nâng giá. Các thành viên khốn đốn của
OPEC như Venezuela hay Nigeria đều đề nghị như vậy mà bị Saudi bác khước.
Trước đây, nhiều nước
thành viên đã khôn ngoan xé rào khi OPEC giảm số cung bằng cách bơm lén và bán
lậu. Saudi Arabia biết chuyện đó từ xưa mà nay lại còn tính xa hơn.
OPEC chỉ kiểm soát được
gần một phần ba của số cung toàn cầu mà thôi. Nếu dầu OPEC cao giá quá thì các
nước tiêu thụ sẽ tìm nguồn cung cấp khác. Như khi bị OPEC bắt bí vào thập niên
70 của thế kỷ trước, Hoa Kỳ đã từng tìm như vậy khi lên đào dầu tận Alaska buốt
giá hay xuống tới đáy biển của Vịnh Mễ Tây Cơ. Ngày nay, Mỹ còn tìm dầu như vậy
ở ngay... trong nhà.
Chiến lược của Saudi với
chiến xa OPEC là vẫn cố bán dầu cho rẻ để khỏi mất khách và duy trì được thị
phần, phần thị trường, của OPEC và nhất là của mình. Nhờ có sẵn dầu và tiền,
Hoàng gia Saudi có thể nín thở qua sông, và mặc cho các thành viên yếu đuối của
OPEC bị chết chìm. Họ mà chết rồi, Saudi sẽ lại mở rộng thị phần và thế lực của
mình.
Nhưng trong trận đánh
này, Saudi còn ma mãnh hơn vậy vì nhắm vào Hoa Kỳ. Vào các doanh nghiệp đã tốn
kém rất nhiều để gạn cả tấn đá phiến mới ra một thùng dầu.
Hoàng gia Saudi và các
chuyên gia dầu khí của họ đều dầy dạn kinh nghiệm Tây phương về phép kinh
doanh. Khi giá dầu cứ ngất ngưởng trên đỉnh trăm mốt (110 đồng một thùng) trong
nhiều năm liền thì các doanh nghiệp Mỹ bèn khai triển kỹ thuật
"fracking" mà họ đã biết từ lâu. Họ bơm rất mạnh một dung dịch có
nước cùng hoá chất và nhiều thứ quái quỷ khác thật sâu xuống lòng đất vào các
tầng đá phiến để giải phóng các phân tử nhiên liệu như dầu thô và khí đốt. Dù
có tốn thì cũng đáng giá khi dầu đắt giá.
Bây giờ, trong cái đầu
của các đại gia dầu khí Saudi, nếu dầu thô sụt giá quá thấp và quá lâu thì
chuyện gạn cát ra dầu theo kiểu Mỹ sẽ hết phần hấp dẫn. Nhưng dù tính vậy, họ
vẫn đánh giá sai đối thủ.....
OK Corral Bên Giếng Dầu
Lý do đầu tiên là các
doanh nghiệp dầu khí của Mỹ đều thuộc bài địa chất học. Họ biết rõ mỗi giai
tầng đá phiến ở từng nơi trong lãnh thổ và ngoài khơi của nước Mỹ. Ngoài hai
trung tâm nổi danh tại North Dakota và Texas, họ còn biết về rất nhiều nơi
khác.
Song song, vừa làm vừa
học và cải tiến, các doanh nghiệp dầu khí của Mỹ đã triệt để làm giảm giá
thành, tức là hạ thấp cái điểm hòa vốn sinh tử trong kinh doanh. Như năm ngoái,
phí tổn trung bình để có một thùng dầu bằng kỹ thuật mới còn ở mức bảy chục
bạc, năm nay thì chỉ còn 57 đồng. Và sẽ còn hạ nữa!
Vẫn biét rằng nhiều quốc
gia khác đều có thể biết kỹ thuật gạn dầu như vậy (Âu Châu, Canada hay cả Trung
Quốc), nhưng chẳng xứ nào lại có nhiều giai tầng đá phiến và kỹ thuật tiên tiến
như nước Mỹ. Mà kỹ thuật đó đang được họ thường xuyên cải tiến.
Huống hồ, đây mới là chi
tiết giết người: phí tổn đầu tư kiểu này thật ra lại rất thấp. Các đại gia cổ
điển đều phải tính từ vài trăm triệu đến hàng tỷ đô để đào ra dầu sau dăm ba
năm đầu tư và xây dựng hạ tầng cho một giếng dầu bát ngát. Kỹ thuật mới là tìm
ra một túi dầu trong núi đá con con "ở sau nhà", mất chừng một hai
triệu để cắm xuống một dàn khoan là... tuần sau có kết quả!
Nói cho thiết thực thì
với đà này, nếu dầu thô sụt tới mức ba bốn chục đồng một thùng, nhiều doanh
nghiệp đào dầu theo kiểu "mỳ ăn liền" vẫn còn lãi chán. Dĩ nhiên là
trong khi đó cũng có cơ sở phá sản vì cải tiến không kịp, làm các nhà báo lại
than trời.
Nhìn cách khác, các
doanh nghiệp Mỹ đang cạnh tranh với nhau, chứ không chỉ cạnh tranh với Saudi,
để tìm dầu thật nhanh và thật rẻ. Trường cạnh tranh đó cũng là một đấu trường
khốc liệt.
Và chúng ta đụng tới một
quy luật khác của trận đấu toàn cầu về dầu khí.
Từ nay, mỗi khi dầu thô
lên giá trên thế giới thì nước Mỹ lại bật cái lò xo để xả sức ép về giá cả.
Bằng cách bơm thêm dầu ở những nơi tạm bị tắt đèn bít lỗ vì chưa có lời. Và Mỹ
sẽ nâng sản lượng trong vài tuần. Đấy mới là yếu tố thật sự ổn định giá cả cho
thiên hạ!
_______________________________
Kết luận ở đây là gì?
Từ bốn chục năm nay, dầu
thô đã là võ khí chiến lược của nhiều quốc gia.
Việt Nam Cộng Hoà gián
tiếp là nạn nhân của trận đánh kinh hoàng về dầu khí trong các năm 1972-73, mà
nhiều khi dân ta không hay và chỉ biết oán chính quyền tại Saigon.
Trong trận đấu lần này,
một đồng minh chiến lược của Mỹ là Saudi Arabia lại dàn trận với doanh nghiệp
Mỹ trước sự im lặng của Chính quyền Mỹ. Mà có thể bị thị trường Mỹ đánh bại.
Nói cho tháng sau, sau
khi đảng Cộng Hòa chiếm đa số tại lưỡng viện Quốc hội, dự án Keystone XL lập
ống dẫn dầu từ Canada qua Mỹ tới Vịnh Mễ Tây Cơ sẽ được Quốc hội khóa tới thông
qua. Số cung từ Bắc Mỹ sẽ tăng vọt và giá dầu còn rớt thê thảm. Hãy xem Hoàng
gia Saudi tính sao....
dainamaxtribune.blogspot.de
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment