Putin và mối nguy hiểm Nga : phương Tây nhẹ dạ cả tin
Tổng thống Nga, Vladimir Putin tại Minsk với
các lãnh đạo Ukraina, Pháp và Đức tại Minsk. Ảnh ngày 12/02/2015.REUTERS/Mykola
Lazarenko/Ukrainian Presidential Press Service
Khủng hoảng tại Ukraina đã kéo dài một năm và dường như chưa có
lối thoát. Trên trang nhất trong số ra ngày 24/02/2015, báo Le Monde nhận định
: « Putin và mối nguy hiểm Nga : một năm nhẹ dạ cả tin của phương Tây »
Bài báo lần lượt phân tích những sai lầm của Liên Hiệp từ khi
tổng thống Putin lên nắm quyền vào năm 2000. Tác giả bài báo khẳng định từ lúc
khủng hoảng tại Ukraina xảy ra, người châu Âu và Mỹ đã đánh giá thấp quyết tâm
và không giải mã được mưu đồ của Nga. Vì thiếu khả năng đánh giá mà từ một năm
nay, các nước thành viên Liên Hiệp liên tục bất ngờ trước cách hành xử của Nga
trong cuộc khủng hoảng Ukraina và biến nó thành cuộc khủng hoảng nghiêm trọng
nhất từ sau chiến tranh lạnh.
Sai lầm đầu tiên được bài báo nêu lên là : « thiếu năng lực phân
tích ». Thực vậy, từ 10 năm nay, nước Nga dần dần xa dời quỹ đạo phát triển của
châu Âu. Trong khi đó, Liên Hiệp Châu Âu không hề mảy may quan tâm tới hướng đi
của nước này, cũng như suy nghĩ tới hậu quả.
Dẫn lại lời một chuyên gia phân tích, báo Le Monde cho biết đây
là do châu Âu đã mất « năng lực phân tích tập thể ». Đây cũng là ý kiến của
Ngoại trưởng Anh.
Ông cũng cho rằng châu Âu trở nên « tự phụ » và coi nước Nga
không phải là một mối đe dọa hay bận tâm từ sau hai đời tổng thổng Gorbatchev
và Eltsin. Thái độ này trở nên phổ biến khắp Tây Âu, ngay cả khi Vladimir Putin
trở thành tổng thống Nga vào năm 2000. Những dấu hiệu báo trước một cuộc đua từ
phía Nga đã xuất hiện vào cuối năm 2000.
Tại thời điểm đó, Liên Hiệp Châu Âu còn có quá nhiều việc phải
làm, như : xây dựng ‘Eurozone’, mở rộng khu vực sang các nước Đông Âu và
Baltic.
Năm 2007, tại hội nghị an ninh Munich, tổng thống Nga đã có một
bài phát biểu rất cứng rắn, ám chỉ tới việc bành trướng của Nga. Ngay năm sau,
2008, nước này can thiệp vào Gruzia. Tuy nhiên, sự kiện này cũng chẳng ngăn cản
việc tổng thống Pháp lúc đó là Sarkozy bán hai tuần dương mẫu hạm Mistral cho
Nga. Paris không coi đây là mối đe dọa tiềm tàng.
Cũng vào năm 2008, tại Thượng đỉnh Bucarest, Pháp và Đức chấm
dứt việc mở rộng khối Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) để trấn an Nga, khiến
Putin rất hài lòng.
Thế nhưng, Liên Hiệp Châu Âu không đưa ra một chiến lược nào
nhắm tới các quốc gia biên giới giữa khu vực này và nước Nga, trong đó phải kể
tới Ukraina. Cuộc khủng hoảng năm 2008 đã khiến nước Nga chao đảo và chứng minh
yếu điểm của nền kinh tế Nga. Chính vì thế, tổng thống Putin buộc phải tăng
cường nước Nga bằng cách tạo một liên minh kinh tế và thương mại, được gọi là «
Liên hiệp Á-Âu », mà Ukraina là một lá bài quan trọng.
Đánh giá sai lầm về vị trí của Ukraina
Sai lầm thứ hai, được đánh giá là nghiêm trọng, đó là việc Hoa
Kỳ, vì quá lo ngại trước sự phát triển của Trung Quốc, đã đề xuất nối lại quan
hệ song phương với Nga trong những năm 2009-2011. Tuy nhiên, chiến lược này đã
thất bại. Song song, Liên Hiệp Châu Âu cũng tiến hành chiến lược « Đối tác
phương Đông » vào đầu thập niên 2010 và không nghĩ rằng Ukraina là láng giềng
quan trọng đến thế nào đối với Nga.
Tái nhiệm vào năm 2012, tổng thống Putin đã không ngần ngại hiện
đại hóa quân đội Nga. Năm 2013, một cố vấn của tổng thống cho biết : « Chính
quyền Ukraina phạm một sai lầm lớn nếu nghĩ rằng Nga sẽ có phản ứng trung lập »
về quyết định thân phương Tây của Kiev. Sau đó, ông cũng mập mờ nêu lên rằng :
« Hiệp ước song phương về biên giới giữa Nga và Ukraina sẽ bị xóa bỏ ».
Đòn trả đũa đầu tiên của Nga là những biện pháp thắt chặt thương
mại với Ukraina suốt mùa hè năm 2013. Thế nhưng, dường như phương Tây chỉ ý
thức được tình trạng trầm trọng khi hàng loạt sự kiện lần lượt xảy ra tại đây,
như : hủy bỏ chương trình hợp tác Á-Âu vào tháng 11 năm này, « cuộc cách mạng
Maidan », bán đảo Crimée bị sát nhập vào Nga, chiến sự vùng Donbass và chuyến
bay MH17 của Malaisia bị bắn hạ trong vùng ly khai.
Đầu năm 2014, tổng thống Pháp vẫn « ngây thơ » tin rằng : « Ông
Putin không muốn sát nhập miền Đông Ukraina. Tôi chắc điều này. Ông ấy đã nói
với tôi thế. Điều ông ấy cần là muốn gây ảnh hưởng ». Còn thủ tướng Đức Merkel
thì tỉnh táo hơn khi tuyên bố với tổng thống Mỹ rằng ông Putin « đã mất đầu óc
thực tế, ông ấy đang ở một thế giới khác ». Đây là kinh nghiệm do bà tiếp xúc
với tổng thống Nga từ hơn 10 năm nay và đã kinh qua thời kỳ thống nhất với Đông
Đức nên hiểu được nội tình của chủ nghĩa Xô Viết.
Sau một thời gian kiên nhẫn chờ đợi, bà đã thay đổi thái độ, đặc
biệt từ sau cuộc nói chuyện với tổng thống Nga bên lề Thượng đình G20 tại
Brisban (Úc). Đối với bà, từ nay trở đi, tồn tại hai hệ thống và hai cách nhìn
về trật tự quốc tế hoàn toàn đối lập nhau. Và đầu tháng hai vừa qua, bà tuyên
bố cuộc đấu đầu sẽ còn kéo dài.
Nhật Bản tham vấn nhân sĩ về lịch sử và tương lai đất nước
Thủ tướng AbeReuters
Ngày 26/02/2015, một hội đồng bao gồm giới sử học và chuyên gia
Nhật Bản đã họp lại lần đầu tiên theo yêu cầu của Thủ tướng Shinzo Abe. Nhiệm
vụ được giao cho hội đồng « nhân sĩ » này là giúp Thủ tướng Abe soạn thảo một
bản tuyên bố về lịch sử cận đại của Nhật Bản và vai trò của nước Nhật trong thế
kỷ XXI, một văn kiện sẽ được các láng giềng của Nhật hết sức chú ý, 70 năm sau
khi Chiến tranh Thế giới lần thứ II kết thúc, một cuộc chiến trong đó Nhật Bản
đóng vai trò kẻ xấu.
Về nội dung khái quát của bản tuyên bố đó, chính Thủ tướng Abe
đã ghi nhận trong lời khai mạc cuộc họp của hội đồng nhân sĩ rằng nước Nhật bị
thua trận và kiệt quệ sau chiến tranh đã lấy lại được một vị trí xứng đáng
trong cộng đồng quốc tế. Ông khẳng định rằng Nhật Bản « đã góp phần vào sự ổn
định và thịnh vượng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong vòng 70 năm qua
với tư cách là một quốc gia yêu chuộng hòa bình và là một đồng minh của Hoa Kỳ
».
Tuy nhiên, để giải thích lý do vì sao ông lại phải tham khảo ý
kiến các nhân sĩ, Thủ tướng Abe cho rằng ông vẫn đang phân vân về cách thức mà
70 mươi năm sau cuộc chiến, Nhật Bản cần phải áp dung để tiếp tục « vai trò sứ
giả hòa bình », để « chủ động đóng góp cho hòa bình, dựa trên các nguyên tắc
của hợp tác quốc tế. »
Do đó, nhiệm vụ của Hội đồng bao gồm 16 nhà báo, học giả và
doanh nhân này, là từ nay đến mùa hè sắp tới tìm ra được đáp án cho câu hỏi : «
Nhật Bản có thể đề ra những chính sách và biện pháp thiết thực nào để trở thành
có ích cho vùng châu Á-Thái Bình Dương và cho thế giới trong tương lai, dưới
ánh sáng của 70 năm đã qua kể từ khi chiến tranh kết thúc ».
Abe cần tham vấn nhân sĩ vì bị đánh giá là diều hâu
Theo các nhà quan sát, mục tiêu sâu xa của Thủ tướng Abe khi
tham vấn các nhân sĩ là làm sao cho bản tuyên bố của ông có được một vẻ đồng
thuận, đặc biệt trong bối cảnh là hiềm khích vẫn tồn tại giữa Nhật Bản và các
láng giềng Trung Quốc, Hàn Quốc, và Nga về cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và
hậu quả của cuộc chiến này.
Ông Abe luôn lặp đi lặp rằng « con đường hòa bình mà Nhật Bản
theo đuổi không hề đổi hướng », đồng thời hứa sẽ tôn trọng các lời bày tỏ thái
độ hối tiếc từng được những người tiền nhiệm của ông đưa ra để nhận lỗi về sự
tàn bạo trước đây của quân đội Nhật Bản ở châu Á. Thế nhưng, ông vẫn bị coi là
một chính khách diều hâu, gần gũi với một thành phần theo xu hướng cực hữu tại
Nhật Bản, vốn luôn luôn cho rằng Nhật Bản không thể cúi đầu nhận tội mãi mãi về
quá khứ đó.
Bên cạnh đó, cũng có dư luận lo ngại về ý định thường xuyên được
ông Abe bày tỏ, là muốn sửa đổi hiến pháp chủ hòa mà người Mỹ đã áp đặt trên
nước Nhật sau chiến tranh.
Chỉ mới thứ Hai 23/02 vừa qua, nhân sinh nhật thứ 55 của mình,
Thái tử Nhật Bản Naruhito đã gián tiếp can dự vào cuộc tranh luận, khi cho rằng
người Nhật cần thiết phải « khiêm tốn nhìn lại quá khứ », và « các thế hệ đã
trải qua chiến tranh cần phải truyền đạt một cách đúng đắn lịch sử và các kinh
nghiệm đau thương, cho các thế hệ không biết chiến tranh ».
Đối với người sau này sẽ kế vị ngôi vua tại Nhật thì : « Một lần
nữa, vấn đề làm thế nào để mang lại hòa bình và thịnh vượng cho thế giới đã
được đặt ra ».
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment