Mai Anh – Hãy
vượt qua sự sợ hãi của mỗi chúng ta!
18/12/2013
GS Trần Phương Chủ nghĩa Xã hội đã thất bại!
Chủ nghĩa Cộng sản là ảo tưởng!
http://www.youtube.com/watch?v=3BhkOu_4TtU
Ông Lê Hiếu Đằng: Chủ nghĩa xã hội chỉ
là ảo tưởng
http://www.youtube.com/watch?feature=player_embedded&v=LfVwzvM9drY
by
(Kỷ niệm 65 năm ngày Nhân Quyền Quốc Tế)
Kể từ khi xã hội nguyên thủy của loài người hình thành nên sự phân chia giai cấp, giai cấp thống trị đã dùng mọi thủ đoạn để tạo ra sự sợ hãi, lệ thuộc của giai cấp bị trị, tước đoạt đi đa số các quyền cơ bản của họ và diệt trừ thẳng tay những mầm mống về khát vọng tự do và bình đẳng trong mỗi con người. Những tư tưởng về thần quyền, về đấng tối cao ban cho một số người có quyền cai trị những người khác, về thuyết vua tôi “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” hay những chủ nghĩa độc tài, độc đoán đã đè nặng lên tâm trí con người, khiến họ dù chiếm số đông nhưng luôn sống trong sợ hãi, phải hài lòng với những quyền nhỏ nhoi được những kẻ cai trị ban phát cho mình.
Nhưng
dù trải qua hàng ngàn
năm, những mầm tư
tưởng về bình đẳng,
về tự do, về
các quyền tự nhiên mà tạo
hóa ban cho con người
vẫn không hề bị
hủy diệt mà càng bị đàn áp, nó càng trỗi dậy
mạnh mẽ. Khi có những con người
dũng cảm chiến thắng
sự sợ hãi, họ
sẽ cất lên những
tiếng nói của sự
thật, của chân lý và trở thành những
ngọn cờ cách mạng
để tập hợp mọi
người cùng nắm tay nhau vượt qua sự
sợ hãi làm nên những điều
kỳ diệu giải phóng con người.
Có những câu chuyện trong lịch sự cận đại đã thể hiện hành trình vượt qua sự sợ hãi của con người như vậy. Năm 1915, khi Mahatma Gandhi từ Nam Phi trở về Ấn Độ, ông đã nhận ra rằng, bản thân Ấn Độ đang tự chấp nhận sự đô hộ của thực dân Anh. Muốn giành độc lập, chính người Ấn Độ phải vượt qua, chiến thắng tâm lý bị trị của mình trước. Ông đã tạo ra hành trình lấy muối kỳ diệu, thực ra là hành trình chiến thắng sự sợ hãi của người dân. Bằng một hành động phản kháng rất cụ thể, dễ hiểu và dễ thực hiện với mọi người là đi ra bờ biển bốc một nắm muối để phản đối chính sách độc quyền sản xuất muối của thực dân Anh, ông đã lôi kéo được hàng chục ngàn người tham gia.
Và cứ như vậy với
tinh thần bất bạo
động nhưng phản
kháng rất kiên quyết, ông đã cùng những người
dân Ấn độ giành lại
độc lập cho đất
nước của mình. Một
người cũng rất nổi
tiếng khác trong lịch sử
đấu tranh cho quyền con người
là Martin Luther King. Khi
những người da đen tại
Mỹ bị phân biệt
đối xử, Martin Luther King đã dẫn đầu
cuộc đấu tranh đòi quyền của
họ bằng những
biện pháp bất bạo
động nhưng tập
hợp được sức
mạnh của số
đông. Điển hình là phong
trào tẩy chay xe buýt,
một hành động phản
kháng lại luật bất
bình đẳng là người da đen phải nhường
ghế cho người da trắng.
Khi một người phụ
nữ da đen dũng cảm thẳng
thắn từ chối
tuân thủ luật này, Luther King đã phát động phong trào tẩy chay xe buýt trong 385 ngày cho đến khi chính quyền
chấp nhận bãi bỏ
đạo luật
vô lý đó.
Sự sợ hãi là biểu hiện của con người thiếu tự do, thiếu độc lập tự chủ. Vì quyền lực không nằm trong tay họ nên họ khiếp sợ trước sự trừng phạt, đàn áp của những kẻ nắm quyền. Nhưng sự sợ hãi sẽ làm cạn kiệt những động lực tích cực của con người như sự sáng tạo, cống hiến và niềm tin để đóng góp xây dựng một xã hội tốt đẹp và thịnh vượng. Như Fukuzawa Yukichi đã nói: “Độc lập dân tộc nhờ độc lập cá nhân”. Một đất nước có độc lập, tự do khi mỗi người dân của nước đó có được độc lập tự do. Mỗi cá nhân chỉ có được độc lập, tự do khi các quyền con người của anh ta được tôn trọng và bảo vệ đầy đủ bằng pháp luật mà không có một thế lực nào có thể tước đoạt được. Đó còn là qui luật khách quan của sự phát triển thịnh vượng, văn minh của các quốc gia đã được minh chứng trong thực tế.
Ở những nước
nào người dân được đảm
bảo đầy đủ
các quyền con người để
người dân có thể tự
tin phát huy hết
tiềm năng của mình, ở
nước đó có dân chủ, công bằng,
thịnh vượng, văn minh. Ngược lại,
ở nước nào người
dân bị tước đoạt
các quyền con người, phải
sống trong sợ hãi lệ
thuộc, ở nước
đó có cường quyền, tham nhũng, nghèo nàn, lạc hậu.
Thật là sai trái
khi nhiều người cho rằng
phải phát triển kinh tế
để người dân giàu có trước rồi
mới nghĩ tới nhân quyền.
Đó là sự phát triển trái qui luật chỉ
dẫn đến một
xã hội bất ổn
và bạo loạn.
65 năm đã qua kể từ
khi Liên Hiệp Quốc chính thức
thông qua bản Tuyên Ngôn Quốc Tế
về Nhân Quyền. Hành trình đấu tranh cho nhân quyền của
nhân loại đã tiến những
bước dài nhờ sự
đóng góp đấu tranh không ngừng nghỉ
của biết bao con người. Dù đã trở thành những
giá trị phổ quát cho mọi người
trên toàn thế giới nhưng
vẫn có rất nhiều
nơi trên thế giới
những kẻ thống
trị vẫn trì hoãn và ngụy biện
không chịu công nhận những
quyền con người nhằm
kéo dài sự thống trị
của mình. Và vì thế ở
những nơi đó, chỉ
có một con đường duy nhất
cho người dân để dành lại
quyền con người của
mình là phải đứng dậy
vượt qua sự sợ
hãi của chính mình. Từ những
hành động phản kháng nhỏ
nhưng biết đoàn kết
với nhau để tạo
ra sức mạnh tập
thể, bóng tối của
sự sợ hãi sẽ
bị xóa tan và bình minh của tương
lai tươi sáng sẽ đến.
Hãy cùng nắm tay nhau để cùng vượt
qua sự sợ hãi của
mỗi chúng ta!
© Mai Anh
(Phong trào Con Đường Việt
Nam)
10 tỉ USD có lớn không? - 10 tỉ gởi về VN mỗi
năm! Thiệt không vậy?
Nguyên Thạch (Danlambao) - Phân tích theo mức độ nhân khẩu và lao động, nếu cho rằng, một
Việt kiều mỗi năm gởi về số tiền như đã và đang gởi thì số tiền ấy có thể nuôi
thoải mái 5 người trong gia đình mình mà 5 người này không cần phải làm chi
hết. Thế thì, chỉ lấy ít hơn một nửa số lượng người Việt ở nước ngoài là 2
triệu kiều bào, nhân cho con số 5 người trong mỗi gia đình, thì có phải là
100.000.000 người, sắp sỉ với dân số Việt Nam hiện nay và 10 năm tới không?.
Ví dụ trên, đã nói lên được điểm gì?. Điều nêu
trên, đã nêu lên rằng: Việt Nam đã có được nhiều lợi điểm về mặt tài chánh,
được cung cấp từ nguồn nhân lực nước ngoài mà không phải hoàn lại chi cả. Có
được những điều kiện rất thuận lợi như thế mà Việt Nam vẫn không thể ngoi đầu
lên nổi với láng giềng thì đủ đã chứng minh sự tệ hại của cái gọi là nhà nước
cộng sản là tồi tệ như thế nào rồi.
Nếu câu trả lời, 10.000.000.000 USD rất lớn và
số tiền này được chuyển về Việt Nam mỗi năm, thì không phải là số tiền nhỏ.
Vậy, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu, nghiên cứu từ các nguồn dữ liệu để đánh
giá rằng con số 10 tỉ đô Mỹ này, mỗi năm đổ về đất nước có phải là con số rất
lớn và điều đó, có thật hay không?.
Bản thân người viết chỉ đi tìm và trưng bày dữ
liệu như trình bày dưới đây, chứ không dám quả quyết kết luận về các nguồn kiều
hối đã và đang đổ về Việt Nam là chính xác hay không. Phần kết luận này sẽ do
từng bạn đọc sau khi suy luận rồi quả quyết cho riêng mình.
Theo số liệu trong Bách khoa toàn thư Wikipedia
thì Đầu thập niên 1970 có khoảng 100.000 người Việt sống ngoài Việt Nam, chủ
yếu tập trung tại các nước láng giềng (Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Điện,
v.v.) và Pháp. Con số này tăng vọt sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 và số quốc
gia có người Việt định cư cũng tăng theo; họ ra đi theo đợt di tản tháng 4 năm
1975, theo các đợt thuyền nhân và theo Chương trình Ra đi có Trật tự. Đầu thập
niên 1990 với sự sụp đổ của khối Đông Âu và Liên Xô, những người do nhà nước
Việt Nam cử đi học tập, lao động không trở về nước đã góp phần vào khối người
Việt định cư tại các nước này. Như vậy, ngoài Việt Nam hiện nay có khoảng 4
triệu người Việt sinh sống trên hơn 100 quốc gia ở năm châu lục, trong đó có
1,799,632 sống tại Hoa Kỳ.
Theo số liệu của Học Viện Ngoại Giao năm 2012,
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài có trên 4 triệu người và phân bố không
đồng đều tại 103 nước và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới, 98% trong số đó tập
trung ở 21 nước tại Bắc Mỹ, Châu Âu, Đông Nam Á, Đông Bắc Á và châu Đại Dương.
Tên nước Dân số theo ước tính của Bộ Ngoại giao
Mỹ 2.200.000
Pháp 300.000
Úc 300.000
Canada 250.000
Đài Loan 200.000
Campuchia 156.000
Thái Lan 100.000
Hàn Quốc 100.000
Nga 60.000
Cộng hòa Séc 60.000
Anh 40.000
Nhật 40.000
Lào 30.000
Ba Lan 20.000
Na uy 19.000
Hà Lan 19.000
Bỉ 14.000
Thụy Điển 14.000
(*)
Kiều hối gửi về Việt Nam vẫn tăng đều qua các
năm
Theo số liệu chung ở các nguồn khác, như BBC thì
con số người Việt ở nước ngoài là sắp sỉ 4 triệu rưỡi người đang định cư tại
hơn 100 quốc gia và các vùng lãnh thổ trên thế giới.
Năm 2012, kiều hối gửi về Việt Nam là hơn 10 tỷ
đôla, trong khi con số này vào năm 2011 là khoảng 9 tỷ đôla và vào năm 2010 là
khoảng 8 tỷ đôla. Trong khi tổng sản phẩm quốc nội GDP của Việt Nam năm
2012 ước tính đạt 136 tỷ đôla, vậy có nghĩa là số lượng kiều hối giữ vị thế
8.7% trên tổng sản lượng quốc gia. Một con số khổng lồ.
Phân tích theo mức độ nhân khẩu và lao động, nếu
cho rằng, một Việt kiều mỗi năm gởi về số tiền như đã và đang gởi thì số tiền
ấy có thể nuôi thoải mái 5 người trong gia đình mình mà 5 người này không cần
phải làm chi hết. Thế thì, chỉ lấy ít hơn một nửa số lượng người Việt ở nước
ngoài là 2 triệu kiều bào, nhân cho con số 5 người trong mỗi gia đình, thì có
phải là 100.000.000 người, sắp sỉ với dân số Việt Nam hiện nay và 10 năm tới
không?.
Ví dụ trên, đã nói lên được điểm gì?. Điều nêu
trên, đã nêu lên rằng: Việt Nam đã có được nhiều lợi điểm về mặt tài chánh,
được cung cấp từ nguồn nhân lực nước ngoài mà không phải hoàn lại chi cả. Có
được những điều kiện rất thuận lợi như thế mà Việt Nam vẫn không thể ngoi đầu
lên nổi với láng giềng thì đủ đã chứng minh sự tệ hại của cái gọi là nhà nước
cộng sản là tồi tệ như thế nào rồi.
Để có được một cái nhìn thiết thực hơn bằng hình
tượng, nó sẽ cụ thể hơn là chỉ đọc vào con số rồi sẽ không có ấn tượng nhiều và
đôi khi chóng quên. Chúng ta hãy trở ngược lại dòng lịch sử trong cuộc chiến
Nam Bắc, mà Bắc quân cộng sản là chủ lực, chủ chốt với chủ ý là tấn công VNCH.
Tài liệu CIA của Hoa Kỳ đưa ra những con số ước
tính trong biểu đồ.
Còn theo thống kê của VNDCCH thì giá trị viện
trợ họ nhận được thấp hơn nhiều so với ước tính của Mỹ. Ví dụ trong 2 năm
1973-1974, Hoa Kỳ ước tính viện trợ quân sự là 730 triệu USD, nhưng theo thống
kê của VNDCCH thì thực tế chỉ có 330 triệu USD, bằng 40% so với ước tính của
Mỹ.
Tài liệu Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì ghi
nhận rằng 1971-1973 Bắc Kinh viện trợ cho Hà Nội chín tỷ nhân dân tệ.
Theo Lê Đức Thọ thì viện trợ kinh tế của khối Xã
hội Chủ nghĩa, gồm mọi hình thức cho vay lẫn không hoàn lại, mỗi năm xê dịch từ
270 triệu USD đến một tỷ USD
1974 1.150-1.190
1970-74 3.520-3.650
Qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã
hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng
hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 6,8 tỉ
USD), trong đó hơn một nữa là viện trợ quân sự, còn lại là viện trợ kinh tế.
Viện trợ của khối Xã hội chủ nghĩa cho VNDCCH
1970-74 (ước tính của Hoa Kỳ)
Năm Viện trợ kinh tế
(triệu USD)
1970 675-695
1971 695-720
1972 425-440
1973 575-605
1974 1.150-1.190
1970-74 3.520-3.650
Việt Nam Cộng Hòa
Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện
trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD, trong đó có 16 tỷ USD viện trợ
quân sự, 6 tỷ viện trợ khoa học-kỹ thuật, 1,6 tỷ viện trợ nông phẩm, 2,4 tỷ
dưới hình thức đổi tiền.[10] Từ khi Mỹ rút lui thì viện trợ cũng giảm, từ 1.614
triệu USD năm 1972-1973 xuống 1.026 triệu USD năm 1973-1974 và 701 triệu USD
năm 1974-1975
Nếu xét theo tính chất cho vay hoặc cho không,
thì phần lớn viện trợ kinh tế của Mỹ cho VNCH là viện trợ cho không (không hoàn
lại), viện trợ cho vay trong 20 năm từ 1955 đến 1975 chỉ chưa đến 200 triệu
USD. Các khoản cho vay lớn của Mỹ giúp VNCH đóng tiền gia nhập Quỹ Tiền tệ Quốc
tế (4 triệu USD năm 1956), đổi mới hệ thống viễn thông (6,8 triệu USD năm
1958-1959), phát triển đội tàu hỏa (9,7 triệu USD năm 1959, 9,7 triệu USD năm
1961), mở rộng hệ thống dẫn nước từ sông Đồng Nai về Sài Gòn (17,5 triệu USD
năm 1960), xây dựng một nhà máy nhiệt điện ở Thủ Đức (12,7 triệu USD năm 1961),
hỗ trợ chương trình Người cày có ruộng (5 triệu USD năm 1970). Cho đến khi sụp
đổ, Việt Nam Cộng hòa còn nợ Hoa Kỳ 145 triệu USD.
Viện trợ kinh tế của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa
(1955-1975)
Năm Tổng
viện trợ
(Triệu USD) Bình quân
đầu người
(USD) Bình quân
đầu người
(Đồng) Năm Tổng
viện trợ
(Triệu USD) Bình quân
đầu người
(USD) Bình quân
đầu người
(Đồng)
1955 322,4 28,03 981,22 1966 793,9 47,47
4.936,95
1956 210,0 16,33 571,54 1967 666,6 38,85
4.195,33
1957 282,2 21,38 748,43 1968 651,1 36,89
4.352,96
1958 189,0 14,04 491,35 1969 560,5 30,97
3.654,09
1959 207,4 15,01 525,44 1970 655,4 33,63
3.968,45
1960 181,8 12,92 542,17 1971 778,0 38,71
4.567,36
1961 152,0 10,45 365,71 1972 587,7 28,46
10.131,78
1962 156,0 10,45 627,05 1973 531,2 25,06
12.377,96
1963 195,9 12,74 764,39 1974 657,4 30,16
19.088,72
1964 230,6 14,62 876,97 1975 240,9 10,43
--
1965 290,3 17,81 1.068,65
Ghi chú: Mức viện trợ bình quân đầu người được
tính bằng cách lấy tổng viện trợ chia cho dân số VNCH cùng năm. Mức viện trợ
tính bằng tiền Đồng tính bằng cách lấy mức viện trợ tính bằng Dollar Mỹ nhân
với tỷ giá hối đoái chính thức giữa Đồng VNCH với Dollar.
Ngày xưa khi còn chiến tranh, mỗi viên đạn trị
giá khoảng 20 - 22 ngàng đồng tiền Hồ bây giờ, cứ tạm so với giá một lon bia Heineken
đi thì thời ấy, mỗi ngày đêm, trên khắp mọi nẻo đường của miền Nam, khi có
chiến sự thì biết bao nhiêu là lon bia được sử dụng.
* Năm 2013 Việt Nam đứng hàng thứ 3 và dẫn đầu
Đông Nam Á về uống bia nhiều nhất, Không ngoại tệ thì lấy tiền đâu mà uống?
Trước 1975, tuy sống trong hoàn cảnh chiến tranh
nhưng người dân không đói khổ và bất mãn như bây giờ, lại càng không trông thấy
dân oan khắp nước, khắp nơi. Không cảnh cướp giựt ruộng đất, nhà cửa cho dẫu
người dân có thân nhân đi theo cộng sản Việt Nam.
Trước năm 75, chính quyền không hề hô khẩu hiệu
kinh tế tư bản theo định hướng nào cả, người miền Nam làm ăn, kinh doanh thoải
mái, kinh tế, dân sự và xã hội phát triển mà ngay cả Hồng Kông, Mã Lai, Nam
Dương, Thái Lan và thậm chí ngay cả Nam Hàn còn phải trông mắt ước mơ. Thế mà
sau 75, với chủ nghĩa siêu việt, dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng ta, họ
chẳng những nhanh chóng qua mặt, mà còn vượt bỏ ta hàng 50 năm, hàng trăm năm!.
Nếu nói rằng giải phóng là đúng nghĩa với nó thì
khi quân giải phóng đến đâu thì người dân phải đi theo đến đó chứ, nhưng không,
ngược lại, nơi nào cộng sản đến thì người ta gồng gánh khăn gói bỏ chạy thục
mạng, chạy lánh xa như lánh hủi.
Sau biến cố 30-4-1975, khi cộng sản cướp toàn bộ
miền Nam để qui cả đất nước về một mối "Một mối hận thù, một mối thương
đau", người dân không còn chỗ nào để chạy trốn nữa, nên đành thà chôn vùi
thân xác dưới lòng biển sâu, hải tặc cướp bóc, bom mìn dọc đường còn hơn là
phải ở lại chung sống với hung thần sắt máu, trí trá và đần độn.
Những người đã chạy lánh chế độ toàn trị, đã
trải qua biết bao thảm cảnh, lẽ nào hôm nay lại đoản trí chóng quên? Được may
mắn thoát khỏi vòng vây bưng bít và sắt máu, đó là cái phước. Thế chúng ta có
tận tình nghĩ đến đại đa số khối đồng bào kém may mắn còn lại, phải quằn quại
dưới thể chế hung tàn bạo ngược này không?. Số tiền hàng chục tỉ đô la khổng lồ
mà hằng năm người Việt ở nước ngoài gởi về, đủ để chi phí, trả lương, nuôi
dưỡng toàn bộ một cơ chế độc tài thống trị toàn dân trong một thời gian vô
định!. Đây là một nghịch lý mà người Việt ở hải ngoại nên bình tâm mà suy nghĩ
và phải đối diện với sự thật.
Loài người luôn tự hào là một sinh vật có trí
thông minh hơn tất cả các sinh vật còn lại trên hành tinh này. Con voi, con chó
và nhiều con vật khác, chúng có khối óc khá bén, chúng nhớ rất dai những người
đã hành hạ, đánh đập chúng mà có thái độ thân thiện hay trả thù, hoặc phản ứng
với những biến cố thiên nhiên. Ngày hôm nay, con người chúng ta lại thua hẳn
những con thú vật ấy ư?.
Ác mẫu
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment