From: 8406news . <
Date: 2014-08-21 9:06 GMT-07:00
Subject: Fwd: Thỏa thuận Thành Đô – Bước lùi lịch sử thảm họa.
To:
Date: 2014-08-21 9:06 GMT-07:00
Subject: Fwd: Thỏa thuận Thành Đô – Bước lùi lịch sử thảm họa.
To:
Thỏa thuận Thành Đô
Bước
lùi lịch sử thảm họa.
* Vương
Trí Dũng.
Phát triển quan hệ không thù địch,
hơn thế nữa còn phải thân thiện với các nước láng giềng, là một
chính sách đúng đắn của mọi nhà nước yêu chuộng hòa bình công lý.
Chính sách láng giềng thân thiện lại cần được ưu tiên hơn, khi láng
giềng là một cường quốc. Bởi vậy, năm 1990, các nhà lãnh đạo Việt
Nam tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc sau
hơn một thập kỷ chiến tranh và xung đột biên giới là việc cần làm.
Thế nhưng cái cách mà Việt Nam
tiến hành chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc thì
thật không bình thường. Không chỉ như vậy, nội dung bình thường hóa
quan hệ mà Việt nam cố gắng để đạt được, cụ thể hóa bằng Thỏa
thuận Thành Đô (4/9/1990), là một nội dung bất lợi cho Việt Nam. Không
chỉ bất lợi, mà ngày càng thêm thảm họa. Mức độ thảm họa tăng theo
cấp số nhân cùng với thời gian mà chính những người tham gia đàm
phán Thỏa thuận Thành Đô đã không lường trước được.
Hai mươi tư năm trôi qua kể từ ngày
ký Thỏa thuận Thành Đô, hậu quả khôn lường của nó đối với Việt Nam
nguy hiểm đến nỗi mà ai trong số họ còn sống, bề ngoài không dám
thể hiện, hoặc cố viện dẫn hoàn cảnh để thanh minh bào chữa, nhưng
trong sâu xa tâm khảm, đều cảm thấy hối tiếc.
BA SAI LẦM
1. Sự hoảng hốt
lịch sử
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu đã làm cho một số lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt. Lo
sợ sự sụp đổ thể chế, lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã đột ngột
biến kẻ thù truyền kiếp – từng xâm lược Việt Nam năm 1979, liên tục
đánh chiếm biên giới Việt Nam suốt trong thập kỷ 1980, và đã bị ghi
vào Hiến pháp 1980 là kẻ thù – thành người “anh em” cùng phe xã hội chủ
nghĩa. Đó là kết quả của Thỏa thuận Thành Đô ký ngày 4/9/1990 giữa
Việt Nam và Trung Quốc. Đại diện Việt Nam là Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, có sự chứng kiến của Cố vấn
Phạm Văn Đồng. Còn đại diện phía Trung Quốc là Tổng Bí thư Giang Trạch
Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Việc bình thường hóa quan hệ với
Trung Quốc là việc cần làm. Nhưng quá hốt hoảng trước sự sụp đổ
của phe xã hội chủ nghĩa, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã vội vã ký một
thỏa thuận bất lợi cho Việt Nam nhằm bảo vệ chế độ, bất lợi đến
nỗi mà chính cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần biểu lộ sự băn
khoăn.
2. Ảo tưởng về chế
độ
Sai lầm thứ hai là ảo tưởng về
chế độ xã hội chủ nghĩa. Đáng lý ra sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và ở các nước Đông Âu phải là vấn đề lý luận nghiêm túc để
các nhà lãnh đạo Việt Nam phân tích suy ngẫm. Rõ ràng chủ nghĩa xã hội
đồng loạt sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do kẻ thù
bên ngoài, mà do chính các nguyên nhân phát triển nội tại của mô hình
chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn tồn tại, không khó khăn để nhận ra
rằng, mô hình chủ nghĩa xã hội chứa đựng những lỗi hệ thống mang tính
nguyên tắc, quyết định sự sống còn của mô hình. Muốn sửa đổi các
lỗi hệ thống đó thì phải thay đổi mô hình. Điều đó chứng tỏ các
nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, tuy dày dạn kinh nghiệm kháng
chiến chống ngoại xâm – mà thắng lợi giành được là do lòng yêu nước
nồng nàn của nhân dân quyết định – lại chưa để tâm cần thiết đến mặt
nghiên cứu lý luận.
3. Nhầm lẫn về Trung
Quốc
Nhưng sai lầm đáng buồn hơn cả là
nhận thức không nhất quán về Trung Quốc. Trung Quốc công khai tham vọng
xâm chiếm Việt Nam. Trung Quốc gây ra cho Việt Nam những tổn thất to
lớn trong Hiệp định Genève. Trung Quốc phá hoại cản trở Việt Nam trong
kháng chiến chống Mỹ. Bất chấp bao nhiêu năm “cùng phe xã hội chủ
nghĩa”, từng “anh em bè bạn”, nhưng năm 1979 Trung Quốc đã ngang ngược
mang 60 vạn quân tấn công Việt Nam. Trong suốt 10 năm tiếp theo Trung
Quốc liên tục tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam.
Vô vàn cay đắng thâm thù từ Trung Quốc, làm sao mà các nhà lãnh đạo
Việt Nam lúc bấy giờ, trong thời khắc sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa, lại
có thể cả tin rằng ý thức hệ xã hội chủ nghĩa là phép màu hoàn lương
được dòng máu bá quyền Tần Thủy Hoàng – Mao Trạch Đông, để Việt Nam
và Trung Quốc lại là “anh em”, cùng chống kẻ thù ý thức hệ?
BỐN HẬU QUẢ THẢM HỌA
I. Lệ thuộc về chính trị
Thỏa thuận Thành Đô gây ra những
hậu quả thảm họa to lớn mà chính những người ký Thỏa thuận đã
không ngờ tới. Từ Thỏa thuận Thành Đô, Việt Nam mỗi ngày càng lệ
thuộc chính trị hơn vào Trung Quốc. Trung Quốc tiến hành một chính
sách bắt Việt Nam dần phụ thuộc chính trị rất thâm hiểm, tập trung
trên mấy phương diện sau.
1. Gây ảnh hưởng về
nhân sự lãnh đạo
Gây ảnh hưởng lên nhân sự lãnh đạo
là nhân tố nguy hiểm số một trong chiến lược bắt Việt Nam lệ thuộc
của Trung Quốc. Trung Quốc sẽ tìm mọi cách loại bỏ, vô hiệu hóa hay
giảm ảnh hưởng của tất cả những ai không theo hoặc không ủng hộ Trung
Quốc. Sự can thiệp vào công việc nhân sự lãnh đạo Việt Nam của Trung
Quốc rất trực diện, thô bạo. Việc yêu cầu loại bỏ Ngoại trưởng
Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Bộ Chính trị trong Hội nghị Thành Đô là một ví
dụ kinh điển. Đến thời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã không dám đưa ông
Phạm Bình Minh (con trai của cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch) vào
chức vụ Ngoại trưởng vì Trung Quốc không chấp nhận. Gần đây Lễ tang
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị cuộc viếng thăm của Thủ tướng
Lý Khắc Cường phủ bóng tối.
2. Gây ảnh hưởng về
chính sách song phương và đối ngoại
Có được ảnh hưởng nhân sự, tổng
hợp với các thế mạnh về kinh tế quốc phòng địa lý, và các mánh
khóe thâm độc gian xảo, Trung Quốc gây áp lực lên các cuộc đàm phán
song phương và chi phối lên quan hệ bang giao quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam đã phải nhượng bộ cho
Trung Quốc trong Hiệp định biên giới đất liền năm 1999, cũng như trong
thỏa thuận phân chia đường biên giới trên biển năm 2000. Việt Nam không
dám công khai ủng hộ Philippines kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế
mặc dù Việt Nam được lợi từ vụ kiện này. Việt Nam không thân mật
đến mức liên minh với các nước lớn bởi e dè Trung Quốc. Việt Nam
tuyên bố không liên minh với ai để chống nước thứ ba thực chất là để
thanh minh với Trung Quốc.
3. Gây ảnh hưởng về
kinh tế
Dùng ảnh hưởng về chính trị, dùng
sức mạnh kinh tế, Trung Quốc quyết tâm giành thắng lợi trong đấu thầu
các dự án kinh tế chủ chốt của Việt Nam và biến Việt Nam thành một
thị trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc.
Khi đã có được ảnh hưởng kinh tế,
tiến đến lũng đoạn nền kinh tế Việt Nam và gây áp lực lại về chính
trị, bắt lệ thuộc về chính trị. Vòng xoay đó luân hồi kiềm tỏa
Việt Nam, bắt Việt Nam không thể rời quỹ đạo xoay quanh Trung Quốc.
II. Lệ thuộc về kinh tế
Bị lệ thuộc chính trị, nền kinh
tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Quốc toàn diện. Sự phụ thuộc
toàn diện của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc thể hiện qua mấy
điểm chủ chốt sau đây.
1. Việt Nam trở thành một thị
trường tiêu thụ hàng hóa của Trung Quốc
Từ các thiết bị máy móc cho đến hàng
tiêu dùng, khắp nơi đâu đâu cũng tràn ngập hàng Trung Quốc. Cay đắng
hơn đến các mặt hàng nông sản đời sống thường ngày nhỏ nhặt như quả
trứng, trái cam, củ tỏi… mà Việt Nam tự sản xuất được thì nay cũng
bị hàng Trung Quốc lấn át.
Để biến Việt Nam thành một thị
trường tiêu thụ hàng hóa mạnh hơn nữa, Trung Quốc thúc đẩy mở cửa
biên giới để hàng Trung Quốc tràn vào Việt Nam, đồng thời khuyến
khích cho phép buôn lậu qua biên giới những mặt hàng có lợi cho Trung
Quốc. Đi xa hơn, Trung Quốc thiết lập mạng lưới đại lý phân phối hàng
hóa và đưa cả người Trung Quốc sang sinh sống bán hàng tại Việt Nam.
Việt Nam thực sự đã trở thành một
thị trường thuộc địa hàng hóa của Trung Quốc. Trong quan hệ buôn bán
hai chiều, Việt Nam còn kém vị thế một tỉnh của Trung Quốc. Bởi lẽ
một tỉnh của Trung Quốc còn bán được thiết bị máy móc cho tỉnh
khác của Trung Quốc, còn Việt Nam thì chỉ thuàn túy mua, mà không
bán lại được cho Trung Quốc máy móc thiết bị công nghệ.
2. Trung Quốc thắng
thầu hầu hết các dự án xương sống trụ cột của Việt Nam
Trong đấu thầu xây dựng các công
trình kinh tế chủ chốt của Việt Nam, Trung Quốc là nước thắng thầu
nhiều nhất. Trung Quốc tiến hành một chiến lược giản đơn với chủ
trương chào thầu thấp để thắng thầu. Sau đó bằng mọi cách đội giá
thầu lên, khiến cho chi phí xây dựng công trình đắt lên rất nhiều, đắt
hơn cả giá chào thầu ban đầu của các đối tác khác.
Điều nguy hại hơn là, tuy giá thành
rất đắt, nhưng Việt Nam lại bị phải sử dụng các thiết bị công nghệ
lạc hậu, năng thuất thấp, chất lượng kém, độc hại cho con người và
môi trường. Sản phẩm làm ra kém chất lượng, nhanh hư hỏng.
Tất cả các công trình mà nhà thầu
Trung Quốc tham gia xây dựng, không có công trình nào có chất lượng
đảm bảo như của các nước hàng đầu G7, và tai họa hơn là hiệu quả
kinh tế rất thấp.
3. Trung Quốc khai
thác thu mua nhiều tài nguyên khoáng sản của Việt Nam
Với chính sách “Dùng của người,
để dành của nhà” Trung Quốc đã tiến hành chính sách thu mua khai thác
nguồn tài nguyên khoáng sản của các nước khi giá còn thấp, để dành
tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc cho tương lai. Trung Quốc đã tập
trung vào các nước chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La
tinh.
Việt Nam là nước láng giềng của
Trung Quốc nên càng bị Trung Quốc tận thu hết công suất. Việt Nam không
phải là nước có nhiều khoáng sản, nhưng tất cả những khoáng sản
tiềm năng chủ chốt của Việt Nam đều bị Trung Quốc thâu tóm. Trung
Quốc là khách hàng lớn của Việt Nam về than. Hai dự án lớn về
bôxít ở Tây Nguyên cũng nhường thầu xây dựng trọn gói cho Trung Quốc,
và sẽ bán nguyên liệu thô cho Trung Quốc. Dự án thép ở Vũng Áng
cũng bị Trung Quốc mua lại. Riêng dầu khí ở Biển Đông, không hợp tác
khai thác được,Trung Quốc trắng trợn mang giàn khoan dầu vào vùng
biển Việt Nam để tự khai thác. Thâm hiểm ngang ngược đến thế là
cùng.
4. Trung Quốc đầu tư
kinh doanh hầu khắp các huyện tỉnh thành Việt Nam
Công nghệ lạc hậu, ô nhiễm độc
hại, chất lượng tồi, giá thành rẻ, Trung Quốc ồ ạt đầu tư khắp các
huyện tỉnh thành của Việt Nam. Đi xa hơn Trung Quốc lập các công ty,
cửa hàng đại lý thương mại khắp nơi nơi, tạo nên các làng phố người
Hoa khắp cả nước Việt Nam. Bằng cách này Trung Quốc đã hình thành
một mạng lưới kinh tế riêng của Trung Quốc trên lãnh thổ của Việt
Nam, cả hàng hóa lẫn con người.
III. An ninh quốc gia bị đe dọa
nghiêm trọng
Chưa bao giờ an ninh của Việt Nam bị
Trung Quốc đe dọa như bậy giờ. Có thể lược nêu một số hiểm họa an
ninh quốc gia sau đây.
1. Đội quân người Hoa
trên lãnh thổ Việt Nam
Trung Quốc đã rất thành công trong
việc đưa người lao động đến khắp sơn cùng thủy tận của Việt Nam, lấy
vợ đẻ con, lập nên nhan nhản các làng phố người Hoa. Đây là mối hiểm
họa bậc nhất cho an ninh quốc gia.
2. Mạng lưới gián
điệp dày đặc
Với làng phố người Hoa khắp mọi
nơi, với sự thâu tóm các công trình yết hầu kinh tế, mạng lưới gián
điệp là ưu thế đặc biệt của Trung Quốc không chỉ trong chiến tranh mà
trong mọi đối phó ứng xử với Việt Nam.
3. Nguy cơ bị đánh
sập nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc
vào Trung Quốc. Các công trình do Trung Quốc đầu tư cũng như do Trung
Quốc thắng thầu xây dựng đều tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường. Nền
kinh tế Việt Nam có nguy cơ bị tê liệt toàn bộ khi xung đột với Trung
Quốc xẩy ra.
4. Các cơ sở quốc
phòng của Trung Quốc trên đất Việt Nam
Dưới danh nghĩa đầu tư, kinh doanh
và nhà thầu, Trung Quốc có thể bí mật xây dựng những công trình quân
sự, cài đặt những thiết bị phá hủy khắp mọi nơi trên đất Việt Nam.
Các vật tư thiết bị Trung Quốc bán cho các công ty Mỹ đã từng bị Mỹ
phát hiện về những chip gián điệp, thì tất cả những điều đã nêu là
hoàn toàn thực tế.
Chẳng hạn, tử huyệt xung yếu như
Đèo Ngang với chiều dài Đông Tây khoảng 50Km đã bị Trung Quốc án ngự
bằng dự án cảng Vũng Áng trong 70 năm. Trước đây cố Tổng bí thư Lê
Duẩn từng nhận định vùngThanh Nghệ Tĩnh là căn cứ địa khi Trung Quốc
huy động 2 triệu quân tấn công Việt Nam từ phía Bắc. Nhưng bây giờ với
cảng Vũng Áng và rừng phía Lào đã được Trung Quốc thuê lâu dài, thì
việc chia cắt Việt Nam tại Đèo Ngang, nếu không đề phòng trước, đối
với Trung Quốc có thể là dễ như “trở bàn tay”. Điều tương tự cũng
có thể xẩy ra ở Tây Nguyên khi Trung Quốc tham gia khai thác bôxít và
rừng Campuchia giáp biên giới Việt Nam đã được Trung Quốc thuê đến 99
năm.
Phải một lần nữa nhấn mạnh rằng,
chưa bao giờ an ninh của Việt Nam lại mong manh đến vậy từ mối đe dọa
Trung Quốc.
VI. Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ
bị xâm phạm
Bị lệ thuộc về chính trị và kinh
tế thì độc lập Dân tộc bị đe dọa là điều đương nhiên. Không chỉ thế,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã bị xâm phạm. Thực
tế cho thấy Việt Nam đã phải nhân nhượng cho Trung Quốc một phần lãnh
thổ trên đất liền trong Hiệp ước biên giới Việt –Trung năm 1999. Trong
Hiệp ước phân định ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Việt Nam cũng phải
nhường lại cho Trung Quốc một phần lãnh hải so với Công ước Pháp –Thanh
năm 1887.
Việc Trung Quốc đưa dàn khoan HD981
và tàu chiến vào sâu lãnh hải Việt Nam và đang xây sân bay ở đảo Gạc
Ma cũng là hệ quả của Thỏa thuận Thành Đô. Dã tâm xâm lược Biển Đông
của Trung Quốc là công khai ngang ngược trắng trợn. Phải khởi kiện
Trung Quốc ngay ra Tòa án quốc tế, dựa vào sự ủng hộ quốc tế để
vạch mặt và làm chùn bước chân xâm lược của Trung Quốc. Nếu không
hành động cương quyết, lãnh hải sẽ bị Trung Quốc lấn chiếm thêm nữa.
Thỏa thuận Thành Đô, đúng như cố
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã nhận xét: Một thời kỳ Bắc
Thuộc mới rất nguy hiểm.
NĂM BIỆN PHÁP GIẢI THOÁT
I. Từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô
Lịch sử nhắc đến Nỏ thần và sơ
đồ Loa thành mà Trọng Thủy có được. Lịch sử nhắc đến Hiệp ước cắt
ba tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Lịch sử sẽ nhắc đến Thỏa thuận
Thành Đô. Đó là điều chắc chắn.
Bởi vậy, muốn giảm bớt hậu quả
tai hại của Thỏa thuận Thành Đô trước lịch sử, thì điều cần làm là
từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô. Thực ra vấn đề cứu vớt sai lầm cho những
người đã ký Thỏa thuận Thành Đô chỉ là vấn đề thứ yếu. Điều quan
trọng nhất chính là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô để cởi trói cho Dân
tộc khỏi sự lệ thuộc vào Trung Quốc. Thoát Trung là cơ hội lịch sử
và là vấn đề hệ trọng nhất hiện nay, bởi nó liên quan đến độc lập
của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
II. Xóa bỏ tư duy tương đồng thể
chế
Hiện nay một số người Việt Nam, và
ngay cả một số tướng lĩnh, vẫn cho rằng Việt Nam và Trung Quốc là
cùng thể chế xã hội chủ nghĩa, cùng tương đồng ý thức hệ. Và bởi
vậy Trung Quốc sẽ thân tình ưu ái với Việt Nam, Việt Nam với Trung
Quốc là cùng một phe. Đây là một điều lầm tưởng vô cùng nguy hiểm.
Bản thân Trung Quốc đã tự xưng là
chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Cái gọi là chủ nghĩa xã
hội ở Trung Quốc hoàn toàn khác biệt với các nước khác. Chủ nghĩa
Marx hay bất cứ học thuyết bất kỳ nào khác được lãnh đạo Trung Quốc
vận dụng đều bị “Hán hóa” hoàn toàn. Chủ nghĩa Đại Hán là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt trong chính sách đối ngoại của lãnh đạo Trung
Quốc, dù có được trá hình dưới bất cứ vỏ bọc nào.
Việc Việt Nam và Trung Quốc đều do
độc đảng lãnh đạo không có nghĩa là Việt Nam và Trung Quốc là anh
em, là cùng chung mục đích lý tưởng. Mục đích của Trung Quốc là bá
chủ thế giới, bành trướng quyền lực và lãnh thổ, là chiếm được
càng nhiều lãnh thổ của Việt Nam càng tốt, và bắt Việt Nam phải
hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc. Mục đích này đã được Mao Trạch
Đông trắng trợn công khai tuyên bố với cố Tổng bí thư Lê Duẩn, và
được giới lãnh đạo Trung Quốc tiến hành không khoan nhượng ngày càng
hung tợn hơn trong suốt mấy chục năm qua.
Không có tương đồng thể chế, không
có tương đồng ý thức hệ, không phải cùng một phe. Việt Nam là miếng
mồi của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Lời phát biểu tại Philippines ngày
21/5/2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Không chấp nhận đánh đổi chủ
quyền lấy hữu nghị viển vông lệ thuộc nào đó” phải biến thành hành
động. Một trong những hành động thực tế là xóa bỏ tư duy đồng thể
chế cùng phe với Trung Quốc để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung
Quốc.
III. Đặt quyền lợi Dân tộc trên
quyền lợi của thể chế
Ngay cả cố Tổng bí thư Lê Duẩn,
người hiểu âm mưu xâm lược thâm độc của lãnh đạo Trung Quốc, buộc
phải cương quyết chống lãnh đạo Trung Quốc, vẫn đã có lúc nghĩ
rằng, khi chủ nghĩa xã hội thành công trên toàn thế giới, thì mối đe
dọa từ Trung Quốc sẽ mất đi.
Chủ nghĩa xã hội sẽ không bao giờ
thành công trên toàn thế giới. Chủ nghĩa xã hội, mặc dù trên lý
thuyết chứa đựng những ý tưởng cao đẹp, nhưng trên thực tiễn tồn
tại, là một mô hình què quặt không khoa học. Bởi vậy, vừa mới ra
đời chưa lâu, chủ nghĩa xã hội đã bị tiến trình phát triển của xã
hội loài người đào thải. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ngay ở nước
Nga, nơi đã sinh ra mô hình chủ nghĩa xã hội, sau 74 năm. Chủ nghĩa xã
hội bị đào thải ở Đông Âu sau 40 năm.
Đối với một nước, mô hình chủ
nghĩa xã hội có tồn tại trong một thời gian nào đó, thì đấy chỉ
là vấn đề tồn tại của một thể chế, một mô hình nhà nước. Một thể
chế chỉ là một khoảng thời gian ngắn so với lịch sử phát triển của
một Dân tộc. Thay đổi thể chế chỉ liên quan đến thay đổi chính sách,
đường lối và quyền lợi của một bộ phận thuộc Dân tộc. Không nhóm
người này lên cầm quyền thì sẽ có nhóm người khác lên nắm quyền.
Nhưng tất cả họ đều thuộc một đất nước. Khi đề cập đến thể chế là
nói đến vấn đề nội bộ. Còn khi nói đến độc lập Dân tộc, chủ quyền
lãnh thổ là đề cập đến mối quan hệ với các nước khác. Bởi vậy
không thể đặt quyền lợi của thể chế trên quyền lợi Dân tộc.
Từ đó suy ra: Bất cứ điều
gì có lợi cho thể chế mà không có lợi cho Dân tộc thì dứt khoát
không làm. Điều gì có lợi cho Dân tộc nhưng không có lợi cho thể chế
thì cũng cứ làm.
Dân tộc trường tồn hơn thể chế.
Nhắc đến Dân tộc trên bình diện quốc tế là đề cập đến vấn đề quan
hệ Quốc gia. Bởi vậy, bất luận có chủ nghĩa xã hội hay không, mối đe
dọa từ Trung Quốc không bao giờ triệt tiêu, chí ít là cho đến khi
triệt tiêu phạm trù Dân tộc.
VI. Cách mạng thể chế
Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
nói đến phải Đổi mới thể chế trong thông điệp 2014. Đổi mới hoàn
toàn thể chế tức là đã Cách mạng thể chế. Một thể chế mới văn
minh dân chủ tiến bộ sẽ có nội dung hoàn toàn khác biệt với thể
chế Trung Quốc hiện hành, và tự nó là một phép thoát Trung màu
nhiệm hiệu quả nhất.
Việt Nam cần Đổi mới thể chế
nhanh, vì bản thân nhân dân Trung Quốc cũng muốn Thay đổi thể chế, và
dứt khoát nhân dân Trung Quốc sẽ làm được điều đó. Vấn đề chỉ ở
thời gian. Việt Nam cần thoát Trung trước khi Trung “thoát Việt”.
V. Hòa nhập thế giới dân chủ văn
minh
Xây dựng một nhà nước dân chủ văn
minh, hòa nhập với thế giới dân chủ văn minh hiện đại là biện pháp
tốt nhất để bảo đảm nền độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ Quốc.
Một mình một đường không giống ai,
không phải là sáng tạo độc đáo, mà là tự tụt hậu yếu nghèo, tự cô
lập chính mình. Mà
đã nghèo khó thì sẽ bị ức hiếp phụ thuộc, sẽ mất đi độc lập Dân
tộc và không có khả năng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Khăng khăng duy trì một thể chế lạc
lõng để bảo toàn quyền lực, làm đất nước bị tụt hậu yếu nghèo,
sẽ có tội trước Dân tộc, có lỗi với cháu con, và sẽ không tránh
được sự phán xét khắc nghiệt của hậu thế.
Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn
minh sẽ cho phép xây dựng được một nước Việt Nam thực sự giàu có
hùng cường – nhân tố quyết định sự thắng lợi trong nhiệm vụ bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc. Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn
minh sẽ huy động tổng hợp được sự đồng lòng nhất trí của toàn dân,
tạo nên sức mạnh vô địch trước mọi kẻ thù.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
nhưng hào kiệt đời nào cũng có, lời của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo còn sang
sảng núi sông. Chắc chắn những Hào kiệt mới sẽ xuất hiện để từ bỏ
Thỏa thuận Thành Đô, Cách mạnh thể chế, và đưa Đất nước hòa nhập
với thế giới văn minh dân chủ hiện đại.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment