From: amiee
hoang <
Date: 2014-08-16 9:33 GMT-07:00
Subject: Fw: Bắt lộ diện để hiện nguyên hình !!!BNS/Tu do Ngon luan so 201 (15-08-2014) [1 Attachment]
To: "8406news ."
Date: 2014-08-16 9:33 GMT-07:00
Subject: Fw: Bắt lộ diện để hiện nguyên hình !!!BNS/Tu do Ngon luan so 201 (15-08-2014) [1 Attachment]
To: "8406news ."
[Attachment(s) from witness2005@gmail.com included below]
Kính gởi tới Quý Ân nhân,
Quý Ủng hộ viên, Quý Độc giả
Bán nguyệt san Tự do Ngôn
luận và bài xã luận số 201, ra ngày 15-08-2014.
Xin vui lòng giúp phổ
biến rộng rãi, nhất là ngược về cho Đồng bào trong nước.
Chúng tôi chân thành càm
ơn.
Ban Biên Tập
Bắt
lộ diện để hiện nguyên hình !!!
Xã
luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 201 (15-08-2014)
Một trong những bài hát đáng khinh tởm nhất dưới chế độ CSVN là bài “Đảng đã
cho ta mùa Xuân” của Phạm Tuyên, con trai ông Phạm Quỳnh, người đã bị Hồ Chí Minh
giết chết cách tàn độc.
Xin ghi lại toàn văn để đồng bào thấy tất cả tính mỉa
mai cùng tột của cái ca khúc xứng đáng đi vào lịch sử như một đối ảnh khốn
khiếp của các thiên hùng ca Bình Ngô Đại Cáo, Hịch Tướng Sĩ…: “Đảng đã cho
ta một mùa Xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi. Đảng đã mang về tuổi Xuân cho nước non. Vang tiếng hát ca chứa
chan niềm yêu đời. Bao năm khổ đau đất nước ta không mùa Xuân. Cuộc đời tăm tối
chốn lao tù bao hờn căm. Vầng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng. Bóng tối
lui dần tiếng chim vui hót vang. Và rồi từ đây ánh dương soi đời mới. Tiến theo
cờ Đảng là thấy tương lai sáng tươi. Đảng đã cho ta cả mùa Xuân cả cuộc đời.
Đảng truyền cho ta một niềm tin ở tương lai. Đảng đã đem lại tuổi Xuân cho nước
non. Thế giới quanh ta ngân vang ngàn tiếng cười. Xua đi màn đêm chiến tranh
gieo bao khổ đau. Cuộc đời từ nay sẽ sáng tươi như mùa Xuân. Vượt mọi gian khó
ta tiến lên đi theo Đảng. Bóng tối lui dần tiếng chim vui hót vang. Bạn ơi mùa
Xuân khắp nơi tươi đẹp quá. Khi lý tưởng Đảng rực sáng trong tim chúng ta”.
Không khó để thấy rằng hơn nửa thế kỷ qua, từ khi Hồ Chí Minh du nhập vào VN
cái chủ thuyết, cái chế độ và cái chính đảng hết sức phi nhân bản và phản dân
tộc nhưng lại trá hình dưới vỏ bọc “đấu tranh cho tự do độc lập”, “thủ tiêu
cảnh áp bức bóc lột” và “xây dựng thế giới đại đồng” hòng mê hoặc quần chúng,
thì thực tế hoàn toàn trái ngược với những gì diễn tả trong bài hát khốn nạn
trên đây. Khắp nơi, người ta chỉ thấy một mùa xuân sau song sắt (của nhà tù lớn
mang tên Cộng hòa XHCNVN).
Mọi chốn, người ta chỉ thấy tuổi xuân con người bị
đày đọa (do tâm trí bị đầu độc, do thể xác suy dinh dưỡng, do tương lai ra mịt
mờ…), chỉ thấy tuổi xuân đất nước bị bầm dập (do văn hóa suy đồi, do đạo đức
băng hoại, do môi trường nhiễm độc, do kinh tế tụt hậu, do chính trị hà khắc,
do ngoại giao yếu hèn…).
Khắp nơi, người ta chỉ thấy bóng tối của những cuộc
chiến kinh hoàng do chính đảng CS gây ra chứ không ai khác. Mọi chốn, người ta
chỉ thấy bóng tối của một tương lai vô định vì cái “lý tưởng” xã hội chủ nghĩa
không tưởng lường gạt, vì cái nguy cơ rơi lại vào tròng nô lệ kẻ thù truyền
kiếp bắc phương. Ta hãy nghe chính những người Cộng sản đã tạm mở mắt đang tố
cáo thực trạng bi đát này:
“Từ nhiều năm nay, đảng CSVN dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa
Mác-Lênin. Công cuộc đổi mới gần ba nươi năm qua nhằm sửa chữa sai lầm về đường
lối kinh tế nhưng chưa triệt để, trong khi vẫn giữ nguyên thể chế độc đảng toàn
trị kìm hãm tự do, dân chủ và chia rẽ dân tộc. Đường lối sai cùng với bộ máy
cầm quyền quan liêu, tha hóa tạo điều kiện cho sự lộng hành của các nhóm lợi
ích bất chính gắn với tệ tham nhũng, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn
diện, ngày càng tụt hậu so với nhiều nước xung quanh.
Trong khi đó, giới lãnh
đạo Trung Quốc (TQ) từ lâu đã theo đuổi mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc,
phục vụ lợi ích của TQ. Sau Hội nghị Thành Đô năm 1990 đến nay, VN đã có nhiều
nhân nhượng trong quan hệ với TQ, phải trả giá đắt và càng nhân nhượng, TQ càng
lấn tới. Gần đây, trong bối cảnh quốc tế phức tạp, TQ có nhiều hành vi leo
thang mới trong mưu đồ xâm lược và bá chiếm Biển Đông, coi VN là mắt xích yếu
nhất cần khuất phục trước tiên. Thực tế bóc trần cái gọi là “cùng chung ý thức
hệ xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngộ nhận và “4 tốt, 16 chữ” chỉ là để che đậy dã
tâm bành trướng. Cho đến nay, thế lực bành trướng TQ đã đi được những bước quan
trọng trong mưu đồ biến VN thành “chư hầu kiểu mới” của họ” (Trích Thư ngỏ
ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên gởi Ban Chấp hành TW và toàn thể đảng CSVN).
Quả là CSVN đã hiện nguyên hình như một chế độ bất công, bất nhân, bất lực và
như một chính đảng áp bức, độc tài, hèn nhát, bạc nhược (hiện nguyên hình chứ
không phải thoái hóa bản chất, vì bản chất của nó vốn đã xấu tự thân và ngay từ
đầu, chỉ khéo che đậy và ngụy biện mà thôi).
Tuy nhiên, gần đây, nhiều dấu hiệu mới cho thấy việc hiện nguyên hình này của
CSVN chưa phải là trọn vẹn và cả toàn dân cần phải buộc cho nó lộ diện hoàn
toàn hầu dễ bề đối phó, không thì chết cả đám, tiêu vong cả dân tộc. Đó là
trong cuộc họp thượng đỉnh tại Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên bên Tàu vào
tháng 9-1990, giữa lãnh đạo hai đảng lẫn hai nhà nước (phía TQ là Giang Trạch
Dân, TBT đảng và Lý Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; phía VN là Nguyễn Văn Linh,
TBT đảng, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, Cố vấn), hai
bên đã ký kết một văn bản mang tên “Kỷ yếu Hội nghị” để chính thức bình thường
hóa quan hệ 2 nước (vốn đã trở thành thù địch sau các cuộc chiến biên giới năm
1979 rồi 1984) và cùng nhau thực hiện những thỏa thuận đạt được giữa lãnh đạo 2
nhà nước và 2 đảng. Cuộc gặp thượng đỉnh này cũng như nội dung các thỏa thuận
lần ấy từ đó đến nay vẫn luôn nằm trong bí mật, chưa được chính thức công bố
cho nhân dân VN lẫn TQ và cộng đồng quốc tế được biết!
Gần đây, có nhiều đồn
đoán trong nhân dân -phát xuất từ những tiết lộ của Tân Hoa xã, Hoàn Cầu Thời
báo, Wikileaks- rằng tại Hội nghị Thành Đô ấy, đám chóp bu Ba Đình đã ngang
nhiên đem giang sơn đất Việt mà bán cho Tàu qua cam kết: “VN bày tỏ mong
muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại
Bắc Kinh, như TQ đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…” Đây là một
tin sét đánh chấn động cả ngàn năm lịch sử Dân tộc và làm cho lòng dân Việt hôm
nay hết sức hoang mang, sôi sục cũng như phẫn nộ.
Để biết thực hư vấn đề đó ra sao, chúng ta hãy nhìn lại bối cảnh của Hội nghị
Thành Đô bấy giờ. Lúc ấy, hàng loạt các đảng CS và hệ thống XHCN -như quân bài domino-
nối tiếp nhau tan rã và sụp đổ ở Đông Âu, vì mang mầm tự hủy trong bản chất của
chúng. Mầm mống tự hủy này chính là chủ trương cai trị bằng bạo lực và dối trá,
hai điều mà bản tính con người dị ứng một cách triệt để. Đầu tiên là Ba Lan
(6-1989), tiếp theo là Hungari (10-1989), Đông Đức (11-1989), đoạn tới Tiệp Khắc
(12-1989), Rumani (12-1989), rồi Bulgari (1-1990). Muộn hơn là Albani (3-1991),
rồi Nam Tư (6-1991) và cuối cùng là Liên bang Xô viết (19-8-1991).
Đặc biệt,
những sự kiện dồn dập xảy ra tại sáu nước Đông Âu trong vòng không đầy một năm
đã gây bồn chồn lo lắng, âu sầu sợ hãi cho TBT Nguyễn Văn Linh (kẻ từng rất tâm
đầu ý hợp với lãnh tụ bị hành quyết của Rumani là Ceaucescu trong chuyện cứu vãn
Xã hội chủ nghĩa) cũng như bộ sậu chóp bu Hà Nội.
Nắm bắt được tâm trạng hoảng hốt đó của lãnh đạo đảng và nhà nước VN, đồng thời
biết chắc đám này sẵn sàng nhân nhượng tất cả để khôi phục quan hệ đảng và nhà
nước với TQ nhằm có đồng minh và chỗ dựa trong việc bảo vệ đảng và chế độ,
Trung Nam Hải quyết định hành động! Bắc Kinh thấy đây là cơ hội ngàn năm một
thuở để đưa lãnh đạo đảng và nhà nước VN nằm trọn trong quỹ đạo phụ thuộc toàn
diện vào mình, để từ đó tiến tới việc thôn tính mảnh đất phía nam mà cả ngàn
năm, tổ tiên Hán tộc đã bao phen thất bại trong việc xâm lược. Và cơ quan Tàu
cộng được giao thực hiện quỷ kế này chính là Hoa Nam Tình Báo, kẻ mà theo dư luận,
đã tạo ra một Hồ Chí Minh giả để cai trị đất Việt. Hoa Nam Tình Báo đã chọn
được ba con cờ đắc dụng: một Nguyễn Văn Linh ngây thơ khờ khạo, một Đỗ Mười ngu
dốt háo danh và một Phạm Văn Đồng tay đã nhúng chàm việc dâng hai quần đảo tiền
đồn của đất nước.
Dĩ nhiên với đầu óc cuồng tín vào tình hữu nghị cộng đảng,
với tâm địa khốn khiếp vô tổ quốc và vô đồng bào, với tham vọng điên khùng muốn
thống trị mãi trên đất Việt (như chúng học từ chủ nghĩa CS do HCM giảng dạy),
ba tên bán nước ấy đã sẵn sàng xóa đi ngàn năm kiêu hùng của Dân tộc, chà đạp
xương máu của bao anh hùng liệt nữ, nhắm mắt trước cảnh đọa đày của các tộc
Mông, Mãn, Hồi, Tạng. Việc chúng cùng đám đàn em giấu giếm nội dung những thỏa
thuận sinh tử đối với đất nước ấy suốt 24 năm trời là bằng chứng chúng sợ nhân
dân tuyên án là lũ phản quốc, một lũ phản quốc chưa từng có trong lịch sử dân
tộc.
Nhưng dù chúng không công bố mật ước Thành Đô, nhân dân cũng thấy được những
hậu quả và hệ luận từ đó. Chẳng hạn cuộc chiến tranh xâm lược của Tàu ở 6 tỉnh
biên giới phía Bắc VN (1979) không còn được nhắc đến, thậm chí những hoạt động
tưởng niệm và vinh danh các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến này đều bị cấm
cản! Biến cố xâm lược ấy cũng như việc Tàu dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo
Hoàng Sa (1974) và đảo Gạc Ma ở Trường Sa (1988) không được tổng kết và đưa vào
lịch sử và giáo khoa để giáo dục lòng yêu nước cho giới trẻ.
Chẳng hạn những
cuộc biểu tình yêu nước chống Tàu xâm phạm biển đảo, sát hại ngư dân ta đều bị
đàn áp tàn bạo.
Chẳng hạn việc cho phép Tàu thuê hàng trăm ngàn héc ta rừng đầu
nguồn, rừng quốc phòng ở các tỉnh biên giới chiến lược phía Bắc với thời hạn
lâu dài 50-70 năm. Chẳng hạn việc để cho Tàu đưa hàng ngàn công nhân đến Tây
Nguyên, một yếu huyệt rất quan trọng về an ninh quốc phòng để thực hiện dự án
bauxite đầy nghi ngờ và đáng tranh cãi. Chẳng hạn việc các công ty Tàu trúng
đến 80-90% các gói thầu trọn gói EPC (thiết kế-mua sắm-xây dựng) trong các dự
án về kinh tế-xã hội, đặc biệt là các dự án nhiệt điện, với hàng chục ngàn lao
động phổ thông Tàu (có phép và không phép) thực hiện các dự án đó?
Chẳng hạn
việc thương nhân và doanh nghiệp Tàu tung hoành trên khắp lãnh thổ nước ta, lừa
đảo nông dân, áp bức công nhân, lũng đoạn và phá hoại nền kinh tế đất nước một
cách hết sức dễ dàng. Gần đây nhất là vụ Tàu ngang nhiên hạ đặt giàn khoan
trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của VN mà Hà Nội vẫn không dám
nhân cơ hội đó kiện TQ ra trước tòa án quốc tế như Philippin đã làm.
Do đó, đồn đoán của công luận về “đại họa mất nước năm 2020” do tay Tàu cộng và
Việt cộng là phần nào có cơ sở. Nó buộc mọi con Hồng cháu Lạc phải đứng lên
biểu tình rầm rộ, trước hết là đòi hỏi Ba Đình phải bạch hóa mọi chuyện ở Thành
Đô, bắt chúng lộ diện đầy đủ để hiện trọn vẹn nguyên hình, tiếp đó là khóa tay
bè lũ bán nước trước khi lũ cướp nước ập đến. Bằng không thì tiêu vong cả Dân
tộc. Cứ ngó thảm cảnh dân Tây Tạng và Tân Cương hiện thời thì biết.
BAN BIÊN TẬP
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment