Giáo dục đạo đức toàn cầu: nhận thức và trách
nhiệm
Phạm Khiêm Ích
Xem ra, giữa lúc một xã hội đang băng hoại khủng khiếp như xã hội
Việt Nam hôm nay, thế mà không cùng nhau lo tìm ra nguyên nhân chủ chốt và triệt
tiêu nó tận gốc cho 90 triệu dân chúng được nhờ, lại đi bàn việc “nhận thức và
trách nhiệm giáo dục đạo đức toàn cầu” thì có vẻ xa xỉ quá,… “gái góa lo việc
triều đình” hay sao ấy. Nhưng đọc đến phần kết luận của tác giả, ít nhiều tâm
lý “nhấp nhổm” của chúng ta được giải tỏa:
“Từ bốn chục
năm nay các thế lực bá quyền Trung Quốc đã gây ra cuộc chiến xâm lược ở biên
giới phía Bắc nước ta năm 1979, dùng vũ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm
1974, đánh chiếm một phần quần đảo Trường Sa năm 1988 và đặt giàn khoan Hải
Dương 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lực địa của ta từ đầu
tháng 5-2014 đến nay, từng bước thực hiện tham vọng chiếm trọn Biển Đông. Hành
động ăn cướp của chúng vừa trái pháp luật vừa vô đạo đức. Chúng đã dùng nhiều
thủ đoạn ép buộc chúng ta lệ thuộc vào Trung Quốc về mọi mặt kinh tế, chính
trị, tư tưởng, văn hóa xã hội.
Thoát khỏi sự lệ thuộc này (tức là “Thoát
Trung”, không
phải “Bài
Trung”) là con
đường sống của dân tộc ta. Muốn vậy phải làm cho dân tộc ta mạnh lên về mọi
mặt, bằng cách cải cách thể chế, dân chủ hóa xã hội, xây dựng nhà nước pháp
quyền và xã hội dân sự, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền tự do dân chủ của nhân
dân. Đồng thời phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, hợp tác và liên minh
với các nước dân chủ. Đó là con đường đảm bảo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, cũng chính là tạo nền tảng vững chắc cho Giáo dục Đạo đức Toàn cầu ở
nước ta”.
Vì lý do trên, xin giới thiệu bài viết của PGS Phạm Khiêm Ích đến
bạn đọc xa gần.
Bauxite Việt Nam
1. Tổng
quan:
Vấn đề Đạo đức Toàn cầu đã
được đưa vào chương trình nghị sự của Liên hiệp các Câu lạc bộ, Trung tâm và
Hội UNESCO Thế giới (WFUCA) từ Đại hội 8 của WFUCA tháng 11 năm 2011 tại Hà Nội
đến nay.
Nhiều cuộc Hội thảo quốc
tế đã được tổ chức, tiêu biểu là Hội thảo “Global Ethics: Save the Planet
Earth”(Đạo đức Toàn cầu: Cứu lấy Hành tinh Trái đất) ngày 22 – 23 tháng 8
năm 2013 tại Astana, Kazakhstan và Hội thảo “Global Ethics, Sustainable
Development and Social Media”(Đạo đức Toàn cầu, Phát triển bền vững và
Truyền thông xã hội) ngày 7 – 12 tháng 3 năm 2014 tại New York.
Hai bảnTuyên bố của
WFUCA – The Florence “Declaration for the Proclamation of the International Day
for Global Ethics” (Tuyên bố Florence về Công bố ngày Quốc tế Đạo đức Toàn
cầu - 11/3/2013) và The Astana“Declaration on
Global Ethics”(Tuyên bố Astana về Đạo đức Toàn cầu – Kazakhstan
22 – 23/8/2013) là những văn kiện quan trọng, thể hiện sự nỗ lực của WFUCA tìm câu
trả lời cho cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay, khủng hoảng không chỉ về kinh
tế mà còn về sinh thái, về các giá trị và nền văn minh. Đúng như Giáo sư Eiji
Hattori Chủ tịch danh dự của WFUCA khẳng định:
“Không xác lập
đạo đức toàn cầu, chúng ta không thể tạo dựng nền văn minh tương lai của nhân
loại, không thể để lại cho các thế hệ kế tiếp một hành tinh tươi đẹp”.
2. Vai trò đặc
biệt của giáo dục
Để xác lập Đạo đức Toàn
cầu không thể không coi trọng vai trò của giáo dục. Ở đây tôi muốn nói đến giáo
dục theo quan điểm “phát triển con người” (human development) như ý kiến của
Jacques Delors, Chủ tịch Uỷ ban Quốc tế về giáo dục thế kỷ XXI do
UNESCO thành lập.
Tác giả khẳng định: “Giáo dục đứng ở trung tâm của sự phát
triển vừa của con người, vừa của cộng đồng. Giáo dục có sứ mạng giúp cho mọi
người, không trừ một ai, được phát huy tất cả mọi tài năng và tất cả mọi tiềm
lực sáng tạo, bao gồm cả tinh thần trách nhiệm đối với đời sống của bản thân và
việc đạt được những mục đích chung”.
Chúng ta đang sống trong
một thế giới toàn cầu biến đổi nhanh chóng, khó lường. Mọi nền giáo dục ở các
nước khác nhau đều phải thích nghi với những thay đổi ấy. Do vậy chính bản thân
giáo dục cũng phải thay đổi. Quan niệm “giáo dục suốt đời”, “học
suốt đời” giờ đây đã được thừa nhận rộng rãi.
Người đầu tiên dùng khái
niệm “Giáo dục suốt đời” là Edgar Faure trong báo cáo Học để làm
người: Thế giới giáo dục hôm nay và ngày mai (Learning to Be: The
World of Education Today and Tomorrow) công bố năm 1972 dưới sự bảo trợ của
UNESCO.
Trong báo cáo này, tác giả nhấn mạnh rất cần đưa giáo dục suốt
đời lên thành khái niệm cơ bản trong chính sách giáo dục.
Ngày nay khái niệm “giáo
dục suốt đời” (lifelong education) thường được thay bằng “học suốt đời”
(lifelong learning). Học suốt đời, được hiểu là việc học từ ấu thơ đến hết cuộc
đời, nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của người học trong nền kinh tế tri thức toàn
cầu; bao gồm giáo dục chính quy, không chính quy và phi chính quy (formal,
non-formal, informal education). Hệ thống học suốt đời đòi hỏi tinh thần tham
gia dân chủ và ý thức trách nhiệm cao của cá nhân, xã hội dân sự và khu vực sử
dụng lao động.
Như vậy hệ thống học
suốt đời đòi hỏi mở rộng cả thời gian giáo dục lẫn không gian giáo dục. Nó
không chỉ giới hạn trong giáo dục nhà trường, chính quy hay không chính quy, mà
còn là giáo dục tại gia đình, tại nơi làm việc, bảo tàng, rạp hát, khi xem
phim, xem ti vi, đi du lịch, v.v. “Hiểu như vậy thì xây dựng hệ thống giáo dục
suốt dời là chuyển sang một giai đoạn phát triển mới về chất của giáo
dục” (TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến).
Việc học suốt đời là sức
sống của xã hội hiện đại. “Quan niệm về học suốt đời nổi lên như
một trong những chìa khoá mở cửa đi vào thế kỷ XXI. Nó vượt xa sự phân
biệt truyền thống giữa giáo dục ban đầu và giáo dục liên tục. Nó gắn với một
quan niệm khác, thường tiên tiến hơn: quan niệm về một xã hội học tập,
ở đó tất cả mọi thứ đều có thể tạo ra cơ hội học tập và phát huy tiềm năng của
mỗi người” (Jacques Delors).
Ngày nay không ai hy
vọng có thể tích lũy đầy đủ kiến thức trong thời trẻ cho cả cuộc đời. Thế giới
đang thay đổi mạnh mẽ, đòi hỏi tri thức không ngừng được bổ sung và hoàn thiện.
Bản thân giáo dục cũng đang biến đổi nhanh chóng. Ngày càng có nhiều cơ hội học
tập bên ngoài nhà trường.
Ở nhiều nước ta thấy có
sự bùng nổ thực sự nhu cầu học tập của người lớn. Một số nước như Thụy Điển,
Nhật Bản có khoảng 50% số dân ngày nay tham gia vào Giáo dục cho người
lớn (Adult Education). Trên khắp thế giới sự phát triển giáo dục cho người
lớn là một xu hướng mạnh mẽ và lâu dài. Từ đó có thể buộc toàn bộ nền giáo dục
phải định hướng lại theo hướng học suốt đời.
Quan niệm trên đây về
giáo dục là cơ sở để cho ta thấu hiểu về Giáo dục Đạo đức Toàn cầu.
Trong Tuyên bố
Florence về Công bố ngày quốc tế Đạo đức Toàn cầu có nhấn mạnh rằng:
“Giáo dục là không thể thiếu đối với tất cả mọi người để nâng cao nhận thức và
trách nhiệm trong việc thúc đẩy sự tương tác, quan hệ hợp tác và đối tác toàn
cầu nhằm phát triển thái độ và các chương trình đối mặt với những khủng hoảng
đang tồn tại ở mọi cấp độ của đời sống con người”.
Có thể xem đây là nội
dung chủ yếu của Giáo dục Đạo đức Toàn cầu. Điều tôi muốn bổ sung là phải xem
Giáo dục Đạo đức Toàn cầu là một quá trình học suốt đời để
tạo ra những công dân biết thấu hiểu những giá trị và những nguyên tắc Đạo đức
Toàn cầu, có kỹ năng giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, cam kết tham gia vào
hoạt động của cá nhân và tập thể một cách có trách nhiệm, cùng nỗ lực xây dựng
tương lai mà chúng ta mong muốn.
Ông George Christophides
– Chủ tịch Liên hiệp các Hội UNESCO Thế giới (WFUCA) trao tặng tác giả (Phạm
Khiêm Ích) bản Tuyên bố Florence về Công bố Ngày Quốc tế Đạo đức Toàn cầu.
3. Những giá trị
và những nguyên tắc Đạo đức Toàn cầu
Hiện nay có nhiều cách
hiểu khác nhau vềĐạo đức Toàn cầu:
1. Đạo đức Toàn cầu là một
vấn đề có tầm quan trọng cần nghiên cứu (The importance of Global
Ethics’s issues – Tuyên bố Astana).
2. Đạo đức Toàn cầu là
một ý tưởng (idea), hay một quan niệm (concept).
3. Đạo đức Toàn cầu là một
cách nhìn, một tầm nhìn (vision). “Đạo đức Toàn cầu là một tầm nhìn
về sự biến đổi của ý thức đạo đức của con người ở cấp độ toàn thế giới, dân
tộc, hoặc địa phương, tuỳ thuộc vào việc họ chia sẻ những giá trị đạo đức cơ
bản, những tiêu chuẩn và những thái độ nhằm chung sống hòa bình. Những giá trị
đó có thể tìm thấy ở tất cả các tôn giáo lớn và các truyền thống triết học của
nhân loại”. (Bài Đạo đức Toàn cầu là gì? Quỹ Đạo đức Toàn
cầu, Tuebingen, Đức).
4. Đạo đức Toàn cầu là
một tập hợp các giá trị và các nguyên tắc mà mọi người đồng thuận, cùng chia
sẻ.
Ban chấp hành WFUCA
trong phiên họp thường niên số 33 ngày 21-24 tháng Tám năm 2013 tại Astana
khẳng định rằng: Đạo đức Toàn cầu là một tập hợp các giá trị và các nguyên tắc,
là sự nhận thức của mọi công dân về quyền và trách nhiệm của mình, là sự đối
thoại toàn cầu liên văn hoá, và sự tương tác của các đối tác, là nền giáo dục
giới trẻ và nền văn hoá hòa bình, nhằm xác lập sự phát triển bền vững dựa trên
cơ sở quyền con người và công bằng xã hội.
5. Những giá trị và
những nguyên tắc cụ thể
Một nhóm các nhà khoa
học quốc tế do Tiến sĩ Akito Arima – Nghị sĩ Quốc hội, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo
dục, Khoa học, Thể thao và Văn hóa Nhật Bản đứng đầu, nghiên cứu về Giáo dục vì
phát triển bền vững. Theo các tác giả, Giáo dục vì phát triển bền vững về cơ
bản là giáo dục về giá trị, trong đó sự Tôn trọng (Respect)
là giá trị trung tâm: Tôn trọng người khác, kể cả những người thuộc thế hệ hiện
tại và tương lai, tôn trọng sự sống, tôn trọng sự khác biệt và đa dạng, tôn
trọng môi trường, tôn trọng nguồn lực của hành tinh mà ta cư trú.
6. Đạo đức toàn cầu là một
nền đạo đức đang được xác lập. “Tuyên bố tiến tới một nền Đạo đức
Toàn cầu” (Declaration Towards a Global Ethics), 12-5-2011 của
Quỹ Đạo đức Toàn cầu, thuộc trường Đại học Tuebingen, Đức, do Giáo sư Hans Küng
làm Chủ tịch. Hans Küng (1928 - ) là một Giáo sư Cơ đốc giáo, người
Thụy Sĩ, làm việc tại Trường Đại học Tuebingen, Đức. Ông chuyên nghiên cứu đạo
đức toàn cầu từ đầu những năm 1990. Ông là người đầu tiên khởi thảo bản “Tiến
tới một nền Đạo đức Toàn cầu: Bản tuyên bố ban đầu” (Towards a Global
Ethics: An Initial Declaration) được Nghị viện các tôn giáo thế giới thông
qua vào năm 1993 với hơn 200 nhà lãnh đạo của 40 nước có truyền thống tín
ngưỡng khác nhau ký tên.
Bản Tuyên bố ban đầu này
xác lập “Những nguyên tắc thiết yếu của nền Đạo đức Toàn cầu”:
a. Cam kết xây dựng một
nền văn hóa phi bạo lực và tôn trọng cuộc sống;
b. Cam kết xây dựng một
nền văn hóa đoàn kết và một trật tự kinh tế công bằng đúng đắn;
c. Cam kết xây dựng một
nền văn hóa khoan dung và một đời sống trung thực;
d. Cam kết xây dựng một
nền văn hóa của quyền bình đẳng và đối tác giữa nam và nữ;
7. Nhà triết học và nhân
học Pháp Edgar Morin (1921 - ) với việc “Tiến tới một nền đạo
đức toàn hành tinh”.
Trong công trình chuyên
khảo Phương pháp 6. Đạo đức học ông có nêu lên một quan niệm
mới về đạo đức học: Đạo đức học phức hợp (Éthique
Complexe)
Đạo đức học phức hợp chứa
đựng trong nó Tư duy phức hợp (Pensée complexe) và Nhân
học phức hợp(Anthropologie complexe) như là những thành phần tối cần
thiết.
- Tư duy
phức hợp: là tư duy tiến hành việc liên kết, nắm bắt vấn đề trong tính
phức hợp của nó.
Tính phức hợp, hay cái
phức hợp (la complexité, le complexus) được hiểu như là những gì liên kết lại
với nhau, đan dệt cùng nhau. Tính phức hợp liên quan đến khối lượng khổng lồ
những tương tác giữa các bộ phận cấu thành gắn bó hữu cơ với nhau, tạo nên “tấm
dệt chung” (tissu commun) không thể phân cách và quy giản được.
Ba nguyên tắc của tư duy
phức hợp: Nguyên tắc đối hợp logic (principe dialogique); nguyên tắc hồi quy
(principe récursif) và nguyên tắc toàn hình (principe hologrammatique).
Tư duy phức hợp là tư
duy bao quát, “ôm chặt” cái đa dạng và hợp nhất cái bị chia cắt.
- Nhân học
phức hợp là cơ sở và điều kiện của nghiên cứu đạo đức học phức
hợp. Trong nhân học phức hợp, Edgar Morin nghiên cứu tính thống nhất và tính đa
dạng không thể tách rời của con người, mà ông gọi là “Tam vị nhất thể của con
người” (trinité humaine). Trong nhiều khối tam vị ấy, ông đặc biệt chú trọng
đến “tam vị nhất thể cá nhân – xã hội – giống loài” (trinité individu
– société – espèce).
Trên quan điểm đạo đức
học phức hợp, Edgar Morin khẳng định giá trị đạo đức cốt lõi của thời đại chúng
ta làLiên kết chủ động. Khái niệm “Liên kết chủ động” (Reliance) là
khái niệm của nhà xã hội học Marcel Bolle de Bal – Giáo sư danh dự về xã hội
học và tâm lý học xã hội, trường Đại học Libre ở Bruxelles. Edgar Morin đã dùng
khái niệm này để xây dựng lý luận về Đạo đức liên kết chủ động (Éthique
de la Reliance) và định nghĩa: “Đạo đức là Liên kết chủ động, Liên kết chủ
động là đạo đức”.
Ông giải thích: Mọi cái
nhìn về đạo đức cần nhận rõ hành vi luân lý (acte moral) là hành vi của cá nhân
để liên kết chủ động: liên kết chủ động với một người khác, liên kết chủ động
với một cộng đồng, liên kết chủ động với một xã hội và ở một giới hạn nhất
định, liên kết chủ động với cả giống loài. Liên kết chủ động, do vậy là Giá trị
Đạo đức Toàn cầu của thời đại chúng ta.
Edgar Morin đi sâu phân
tích các giá trị đạo đức khác:
Đạo đức vị tha là
thứ đạo đức liên kết đòi hỏi duy trì mở cửa đón tiếp người khác, bảo vệ tình
cảm bản sắc chung làm cho thái độ thông cảm với người khác thêm vững chắc.
Đạo đức về tự do.
Nếu tự do thể hiện qua khả năng được lựa chọn, tức là khả năng tinh thần được
xem xét và xác lập các lựa chọn, khả năng đối ngoại được thực thi một lựa chọn,
thì đạo đức về tự do vì người khác sẽ được tóm lược trong câu nói sau đây:
“Hành động thế nào để người khác có thể gia tăng số lượng lựa chọn khả dĩ”.
Đạo đức về tình bạn. Tình
bạn không chỉ là mối quan hệ tình cảm gắn bó, đồng lòng hợp lực, tình bạn chân
chính biến bạn bè thành anh em và xác lập mối dây đạo đức gần như thiêng liêng
giữa bạn bè.
Theo Edgar Morin, tình
bạn không phải là tình “đồng chí”. Ông nói “Tôi đã từng sinh hoạt giữa lòng một
Đảng lớn với sức nóng của các “đồng chí”, nhưng tuy vậy đó không phải là tình
bạn, tình bằng hữu thân ái, bởi vì ngay sau khi bị bộ máy của Đảng lên án, thì
có người ngoảnh ngay lưng về phía bạn, tệ hại hơn nữa là vu cáo, tố giác bạn
như kẻ thù. Đồng chí có thể trở thành người anh em giả dối. Bạn mới là anh em
do lựa chọn. Đạo đức của tình huynh đệ biểu lộ tích cực và cụ thể trong tình
bạn”.
Đạo đức về tình yêu. Tình
yêu là trải nghiệm về liên kết về cơ bản của các thực hữu nhân tính. Nó giúp
chúng ta phát huy nở rộ bằng cách liên kết chúng ta. Tình yêu đích thực coi đối
tượng yêu thương của mình là bình đẳng và tự do; đúng như thi hào Tagore đã nói
“Tình yêu bài trừ thói chuyên chế tàn bạo và đẳng cấp”.
Cuộc đời người ta đang
khổ sở vì quá thiếu tình yêu. Song cuộc đời này cũng đau khổ vì tình yêu sai
trái, vì tình yêu mù quáng đủ loại. Bởi vậy đối với mọi đam mê dù mãnh liệt đến
đâu, ta vẫn phải luôn luôn thắp sáng ngọn đèn canh chừng của lí trí.
Đạo đức về khoan dung.
Khoan dung là công nhận quyền khác biệt. Đạo đức về khoan dung đối lập với “làm
thuần khiết đạo đức”. Có ba thứ khoan dung:
Khoan dung thứ nhất là
thứ khoan dung mà văn hào Voltaire đã diễn tả, nó tôn trọng quyền phát biểu của
người khác, tránh áp đặt quan niệm riêng của ta lên người khác cốt để cấm đoán
một phát ngôn.
Khoan dung thứ hai không
thể tách rời dân chủ. Nét đặc thù của dân chủ là tự nuôi dưỡng những ý kiến đa
dạng và đối kháng. Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi mỗi người phải tôn trọng sự phát
biểu các tư tưởng đối lập với tư tưởng của mình.
Khoan dung thứ ba phục
tùng quan điểm cho rằng cái trái ngược của một tư tưởng sâu xa là một tư tưởng
sâu xa khác. Nói khác đi, có một chân lý hàm chứa trong tư tưởng đối kháng với
tư tưởng của ta và đó là một chân lý cần khoan dung.
Ý tưởng tiến tới một nền
đạo đức toàn hành tình, một nền đạo đức cho cả loài người vẫn còn rất trừu
tượng, chừng nào loài người chưa hợp nhất một cách cụ thể bằng sự gắn bó và phụ
thuộc qua lại với nhau. Ngày nay trong thời đại toàn cầu hóa, lần đầu tiên
trong lịch sử nhân loại, tính phổ quát (universel) đã trờ thành hiện thực cụ
thể. Đó là sự đoàn kết qua lại khách quan của nhân loại, vận mệnh toàn cầu của
hành tinh quyết định mạnh mẽ vận mệnh đơn nhất của các dân tộc. Đồng thời vận
mệnh đơn nhất của các dân tộc làm biến đổi vận mệnh toàn cầu.
Tất cả mọi đạo đức các
cộng đồng dân tộc đều đã từng là khép kín. Bây giờ cần có đạo đức của cộng đồng
toàn nhân loại. Đạo đức ấy sẽ tôn trọng các đạo đức dân tộc bằng cách hòa hợp
chúng thành một thể thống nhất. Ở đây có sự thống nhất trong đa dạng và đa dạng
trong thống nhất. Đấy chính là nguyên tắc vàng của sự tồn tại Đạo đức toàn Hành
tinh.
Để tiến tới một nền Đạo
đức Toàn cầu, toàn Hành tinh cần phải tiến hành “một cuộc đa cải cách của loài
người”:
- Cải cách xã hội.
- Cải cách tâm trí/ cải
cách giáo dục.
- Cải cách cuộc sống.
- Cải cách đạo lý.
- Khoa học được cải
cách.
Đấy là 5 con đường tái
sinh của nhân loại, thoát khỏi cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay.
4. Nhận thức và
trách nhiệm
Giáo dục Đạo đức toàn
cầu phải hướng vào việc nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mọi người trong
xã hội. Giáo dục giúp chúng ta năng lực hiểu biết về thế giới chung quanh, về
bản thân, về người khác và mối liên hệ giữa ta với môi trường tự nhiên và xã
hội rộng lớn. Sự hiểu biết này chính là cơ sở lâu bền để hình thành thái độ và
trách nhiệm của chúng ta.
Chẳng hạn ta biết các nhà khoa học về khí hậu ước tính
rằng nếu mức phát thải khí nhà kính của con người trên khắp thế giới giống nhau
như ở một số nước phát triển thì chúng ta cần tới chín Hành tinh Trái
đất! Nhưng 7 tỷ người chúng ta chỉ có một hành
tinh. Tìm đâu ra tám hành tinh nữa? Chuyện thật như đùa đó,
đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại cách tư duy về các vấn đề phát triển, suy
nghĩ về mô hình phát triển bền vững và trách nhiệm của mỗi người chúng ta cùng
chung sức bảo vệ môi trường.
Giáo sư Hans Küng là một
nhà nghiên cứu nổi tiếng về Đạo đức Toàn Cầu và Trách
nhiệm Toàn cầu. Ngay từ năm 1991 ông đã cho xuất bản cuốn sách “Trách
nhiệm Toàn cầu” (Global Responsibility). Gần đây ông công bố công
trình “Đạo đức Toàn cầu và Trách nhiệm của con người” (Global
Ethics and Human Responsibilities). Trong đó ông khẳng định mạnh mẽ rằng:
“Trách nhiệm của con người tăng cường quyền con người”. “Không thể có quyền con
người nếu không có trách nhiệm của con người”.
Tháng 4 năm 1997, lần
đầu tiên trong lịch sử, một nhóm chuyên gia quốc tế tập hợp tại Vienna,
Austria, với sự cố vấn của giáo sư Hans Küng và hai giáo sư khác đã soạn thảo
bản “Tuyên ngôn toàn thế giới về Trách nhiệm của con người” (A
Universal Declaration of Human Responsibilities). 5 tháng sau, ngày 01/9/1997
bản Tuyên ngôn đã được đệ trình lên Liên Hợp Quốc, để củng cố, tăng cường và bổ
sung cho bản Tuyên ngôn toàn thế giới về Quyền con người (Universal
Declaration of Human Rights – 1948).
Bản Tuyên ngôn về Quyền
con người là văn bản pháp luật, còn bản Tuyên ngôn về Trách nhiệm của con người
là mệnh lệnh đạo đức (moral imperative). Đạo đức và pháp luật không đối lập
nhau, không thay thế nhau, mà bổ sung cho nhau.
Tuyên ngôn về Quyền con người
không đặt ra yêu cầu toàn diện về đạo đức.
Tuyên ngôn về Trách nhiệm của con
người, về một số khía cạnh đã vượt ra ngoài khuôn khổ Quyền con người, bổ sung
cho nó về mặt đạo đức. Hai nguyên tắc cơ bản của Tuyên ngôn về Trách nhiệm của
con người làm định hướng về đạo đức cho mỗi người trong cuộc sống hàng ngày. Đó
là nguyên tắc “Tất cả mọi người phải được đối xử nhân đạo” (Every
human being must be treated humanely) và nguyên tắc “Cái mà ta không muốn
làm cho mình thì đừng làm cho người khác” (What you do not wish to be done
to yourself, do not do to others – Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân).
Giáo sư Hans Küng là một
nhà thần học, luôn luôn quan tâm đến những người có đức tin khác nhau, chăm lo
thiết lập một nền tảng chung cho mọi người có tôn giáo khác nhau cùng thỏa
thuận và cùng hợp tác xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Trong công trình “Đạo
đức Toàn cầu và Trách nhiệm của con người”, ông khẳng định ba điều:
- Trái đất
sẽ không thể sống sót, nếu không có Đạo đức Toàn cầu.
- Sẽ không
có hòa bình giữa các dân tộc, nếu không có hòa bình giữa các tôn giáo.
- Sẽ không có hòa
bình giữa các tôn giáo, nếu không có đối thoại và hợp tác giữa các tôn giáo,
giữa các nền văn minh.
Ông chủ trương văn hóa
hòa bình. Hòa bình ở đây không phải chỉ là không có chiến tranh, mà chính là
không dùng bạo lực trong quan hệ con người, cũng như quan hệ giữa các dân tộc.
Đây cũng chính là đường lối chiến lược của WFUCA mà ngài Chủ tịch George
Christophides đã khẳng định:
“WFUCA cam kết hỗ
trợ mạnh mẽ mọi hành động và sáng kiến nhằm xúc tiến các giá trị Đạo đức Toàn
cầu và những nguyên tắc của văn hóa hòa bình trên toàn thế giới”.
Sự phát triển văn hóa hòa
bình ở nước ta gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Từ bốn chục năm nay các thế lực bá
quyền Trung Quốc đã gây ra cuộc chiến xâm lược ở biên giới phía Bắc nước ta năm
1979, dùng vũ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa năm 1974, đánh chiếm một phần
quần đảo Trường Sa năm 1988 và đặt giàn khoan Hải Dương 981 trái phép trong
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lực địa của ta từ đầu tháng 5-2014 đến nay, từng
bước thực hiện tham vọng chiếm trọn Biển Đông. Hành động ăn cướp của chúng vừa
trái pháp luật vừa vô đạo đức. Chúng đã dùng nhiều thủ đoạn ép buộc chúng ta lệ
thuộc vào Trung Quốc về mọi mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa xã hội.
Thoát khỏi sự lệ thuộc
này (tức là “Thoát Trung”, không phải “Bài Trung”) là con đường sống của dân
tộc ta. Muốn vậy phải làm cho dân tộc ta mạnh lên về mọi mặt, bằng cách cải
cách thể chế, dân chủ hóa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội dân
sự, bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền tự do dân chủ của nhân dân. Đồng thời phải
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, hợp tác và liên minh với các nước dân
chủ.
Đó là con đường đảm bảo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cũng
chính là tạo nền tảng vững chắc cho Giáo dục Đạo đức Toàn cầu ở nước ta.
P.K.I.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment