TỪ THỎA HIỆP THÀNH ĐÔ 1990 TỚI GIÀN KHOAN HD-981 ĐẢNG CSVN ĐÃ CÔNG
KHAI BÁN NƯỚC CHO TRUNG CỘNG
MƯỜNG GIANG
Cựu Trung Tá QĐND Trần Anh
Kim nói về HS & TS
https://www.youtube.com/watch?v=smnwIx19vjc
Từ đầu năm 2014 tới nay,Trung Công công khai sử dụng vũ lực tại Biển Đông với ý đồ cưởng đoạt gần như toàn bộ biển đảo trong vúng, được đánh giá là có
nhiều dầu hỏa và khí đốt. Ngang ngược nhất là việc hải tặc Tàu đem giàn
khoan khổng lồ HD-981 vào tận lãnh hải của Việt Nam, từ ngày 2 tháng 5 để tìm dầu, trước thái độ hèn nhục gần như đầu hàng giặc của CS Hà Nội, khiến cho người Việt trong và ngoài nước ai cũng căm hận và tủi nhục..
Rồi
như muốn thị uy với thế giới rằng là ta muốn làm gì thì làm nên từ đầu năm
2014, Trung Cộng đã ra lệnh cấm đánh bắt cá hết sức phi lý ở biển Đông.. Tiếp
theo lại ồ ạt đưa hơn 44.000 tàu đánh cá đủ loại, chẳng khác nào một đoàn hải
tặc, tung hoành vơ vét cưởng đoat gần hết tài nguyên, hải sản của ngư dân các
nước trong vùng, mà thiệt hại nặng nề nhất về sinh mạng, vật chát vẫn là các
ngư dân VN.
..
Việc Trung
Cộng đưa giàn khoan vào hoạt động ngay trong hải phận VN, sau đó bất ngờ rút
giàn khoan về đảo Hải Nam trước thời gian ấn định, thật sự chẳng làm ai ngạc
nhiên, nhất là những người hằng theo dõi tin tức thời sự có liên quan tới cái
gọi là “ chuyện cười giàn khoan HD-981 của TC & VC “.. Điều mà người VN
trong và ngoài nước lo lắng là việc TC đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông là
bước đầu trong việc xác nhận chủ quyền của giặc trên vùng lãnh hải
VN theo những giao kết bí mật giữa hai đảng đã bí mật ký kết tại hội nghị Thành
Đô năm 1990. Do đó TC đã nắm được tử huyệt của bọn lãnh đạo đảng tại Hà Nội,
nên mới dám ngang ngược tung hoành, những chuyện lạ này chỉ có ở VN
mà chẳng bao giờ có thể xãy ra tại vùng biển Nhật, Nam Hàn, Phi Luật Tận, Mã
Lai..hay bất cứ một quốc gia nào có chủ quyền trên thế giới.
Làm
mưa làm gió, làm nhục CSVN tại biển Đông TC còn chưa thấy đủ, nên lại sai tên
Ủy viên Quốc vụ viện Dương Khiết Trì tới VN chỉ dạy đàn em trong chính trị bộ
suốt hai ngày 17-18.6.2014. Lần này, tên thái thú Tàu họ Dương đã
không tiếc lời sĩ vã đám thuộc hạ, qua vụ dám để người dân VN chống lại thiên
triều tại các khu công nghệ Bình Dương, Biuên Hòa, Vủng Tàu, Hà Tỉnh, đồng thời
ra lệnh VC phải chấm dứt những hành động quấy rôi và phản đối giàn khoan của
Trung Cộng hoạt động tại biển Đông sắp tới, cũng như cấm VC liên minh quân sự
với Mỹ-Nhật-Úc để chống lại Tàu.Cuối cùng phải bỏ ý định theo các nước khác kiện
TC ra Tòa An QT về những hành động bá quyền, côn đồ, hải tặc..trên biển Đông.
Đó
là lý do, Phạm Bình Minh, bộ trưởng ngoại giao VC bị đảng cấm đi Mỹ, dù có lời
mời của Ngoại trưởng Hoa kỳ John Kerry. Đồng thời Bí thư thành ủy Hà
Nội Phạm Quang Nghị thuộc phe giáo điều và bợ Tàu, được thay thế sang Mỹ để kết
tình giao hảo giữa hai đảng CSVN và hai đảng chính trị Mỹ Quốc. Những ngày tại
Hoa Kỳ, Nghị chẳng hề hé răng nhắc chuyện VN đang bị Tàu đỏ xâm lăng,. Màn
đấu đá nội bộ lại tiếp diễn, mặc kệ cho đất nước sắp mất vào tay giặc Tàu.
Ngày
thứ bảy, 31 tháng 5, 2014 đài BBC đã phổ biến lời phát biểu của Phùng
Quốc Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Cộng . Thanh nói “ quan hệ Việt-Trung vẫn phát
triển tốt đẹp và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với ‘mâu
thuẫn gia đình’ “
Suy
cho cùng, chúng ta mới hiểu nổi những lời ví von thâm thúy của tên bộ trưởng
quốc phòng đã sớm đầu hàng giặc Tàu từ lâu. Thanh nói đúng ví cuộc
tranh chấp mà thực chất là cuộc xâm lăng của giặc Tàu vào lảnh thổ VN hiện nay,
được bọn lãnh đạo CS Hà Nội xem như mâu thuẩn trong một gia đình . Về mâu thuẩn
gia đình, bởi vì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và phái đoàn của đảng CSVN
Phạm Văn Đồng, Đổ Mười..) đã xin cho Việt Nam được làm một khu tự trị trực
thuộc chính quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được “Giang Trạch Dân, Lý Bằng
đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên từ năm 1990 tại hội nghị Thành ĐôThời kỳ
Bắc thuộc. Thời gian cuối cùng bàn giao lãnh thổ, chính quyền cho TC là năm
2020.
Chúng
ta sắp trở thành kẻ vong quốc như người Mãn Châu, Tây Tạng, Tân Cương và Miêu
Tộc..nếu ngày nào đảng CSVN còn nắm được súng đạn và quyền lãnh đạo
đất nước. Thời kỳ Bác thuộc gần kề..
Năm
111 trước Tây Lịch, người Hán xâm lăng và cưởng chiếm non sông Hồng-Lạc, lúc đó
có quốc hiệu là Nam Việt, bao gồm lãnh thổ của Âu Lạc và Giao Chỉ. Dân tộc Việt
bắt đầu sống trong một thời kỳ bị Tàu đô hộ cả ngàn năm, còn đất đai của tiên
tổ thì bị giặc cướp phanh thây thành chín mảnh. Ðó là Nam Hải va Hợp Phố (Quảng
Ðông), Thượng Ngô và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Nam Nhĩ (Hải Nam), Giao
Chỉ (Bắc Việt), Cửu Chân (Thanh Hóa), Nhật Nam (Nghệ An và Hà Tĩnh).
‘ Quê hương nay đã mỏi
mòn,
Ngàn năm nô lệ, vẫn còn
còn đây .. ’ ’
’
(Ca dao)
Từ
đó Dân tộc Việt sống trong một thời kỳ lầm than, nhục hận và đen tối dưới cùm
gông nô lệ, dưới đồng hóa xích xiềng cùng với sự áp bức dã man tàn độc của giặc
Tàu phương Bắc. Nhưng người Việt vốn là một dân tộc anh hùng tuyệt luân, phi
thường dũng liệt, can đãm bất khuất. Vì vậy suốt trong thời gian bị nô lệ, đã
không ngừng quật khởi chiến đấu, quyết tâm đánh đuổi kẻ thù ra khỏi bờ cõi cẩm
tú ngàn đời của dòng giống
Tiên Rồng, được tạo dựng từ thời các Tổ Hùng dựng nước Văn Lang, cách đây gần
5000 năm lịch sử.
Trong
tình cảnh nước mất nhà tan, thương đau và tủi nhục, cuộc đấu tranh nhằm giải
phóng dân tộc thoái khỏi ách nô lệ của giặc Tàu, vẫn liên tục sôi sục trong tâm
khảm mọi người. Năm 40 sau Tây lịch, hai phụ nữ đầu tiên của nước Việt là Trưng Trắc và Trưng Nhị, đã
thắp sáng lịch sữ bằng ngọn lửa yêu nước, đánh đuổi tên thái thú tàn ác Tô Ðịnh
chạy về Hán, dành lại được một phần non sông cẩm tú của dân tộc, dù chỉ giữ
được một thời gian ngắn. Cuộc khởi nghĩa trên đã làm cho đồng bào vô cùng
phấn khởi và càng thêm ngưỡng kính Hai Bà tuy là phận nữ nhi nhưng đã dám đứng
lên chống lại giặc thù của dân tộc, trả thù nhà nợ nước. Thật là
một tấm gương để cho con cháu ngàn đời soi chung noi dấu. Ngày nay :
‘ Cột đồng Mã Viện tìm đấu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ, bóng nước gương ‘
(Thái Xuyên)
Nên
đọc lịch sử VN qua hằng ngàn năm trước tới thời cận sử không xa, con cháu ngày
nay chỉ thấy đẳm đầy trên những trang sách cũ-mới, toàn là máu lệ và nước mắt
anh hùng của tiền nhân, qua công cuộc bảo vệ và dành lại lãnh thổ cũng như nền
tự chủ độc lập của Ðại Việt. Còn gì đau đớn và tủi nhục cho bằng thân
phận của người dân mất nước, kể từ năm 43 sau TL , Mã Viện lập lại chế độ cai
trị vô cùng hà khắc, mục đích duy nhất cũng chỉ là muốn biến Giao Châu thành
một quận huyện của Tàu, đồng thời Hán hóa người Việt và bành trướng lãnh thổ
xuống phương Nam.
Tuy
cách nay gần hai ngàn năm nhưng chính sách xâm lăng đồng hóa các dân tộc yếu
kém láng giềng của Hán Tộc vẫn không hề thay đổi, dù cho trong cuộc phong trần
vinh nhục, Tàu cũng đã nhiều lần bị các nước khác đô hộ, hạ nhục, thảm thê
không có bút mực nào diễn tả cho hết. Mã Viện dựng cột đồng với lời hăm dọa ‘ đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt ‘ nhưng cột đồng thì mất tích, còn
nổi căm hận nhớ đến âm mưu diệt chũng của người Tàu đối với dân Việt thì muôn
đời mãn kiếp không bao giờ quên được. Ðó là lý do mà suốt ngàn năm bị áp
bức bóc lột đến cùng tận, dân Việt luôn luôn vùng dậy chống quân Tàu. Năm 248
Bà Triệu khởi binh chống quân Ngô ở Cửu Chân (Thanh Hóa). Tiếp theo có Lý Nam
Ðế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ.. và cuối cùng là
Ngô Vương Quyền vào năm 939 sau TL, chém đầu thái tử Hoàng Tháo trên sông Bạch
Ðằng, đuổi đánh quân Nam Hán chạy về Tàu, kết thúc 1000 Bắc thuộc, dành lại độc lập tự chủ cho dân tộc Việt.
‘ Dồng trụ chí kim đài dĩ lục (cột đồng đến nay, rêu còn xanh ?)
Ðằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Ðằng tự xưa, máu vẫn đỏ).
Và từ đó cuộc chiến
đấu trường kỳ của dân tộc Việt đối với dã tâm xâm lăng thống trị của giặc Tàu
phương Bắc, trở thành một bản chất quật cường trong tâm khảm của mọi người. Ðó
cũng là chủ nghĩa yêu nước, một tôn giáo đặc dị VN chỉ biết tôn sùng những vị
anh hùng liệt nữ tận trung báo quốc, mà họ coi ngang với Trời
Phật, thần Ðất.. như Ðức Thánh Trần Hưng Ðạo, đã hai lần đại thắng đế quốc
Nguyên-Mông trong thế kỷ XIII khi xăm lăng Ðại Việt.
Nói chung,
trong khi chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và nền độc lập tự do cho xứ sở, các nhà lãnh đạo Ðại Việt lúc nào cũng cứng rắn với
giặc Tàu khi chiến đấu và
mềm mỏng trong ngoại giao. Tổ tiên ta từ buổi bình minh lịch sử, cũng chỉ nhờ
vào chủ nghĩa anh hùng và chiến lược khôn ngoan, mà đánh bại được tất cả các
cuộc xâm lăng của Tống, Mông Cổ, Minh và Mản Thanh. Còn việc triều cống giặc
Tàu, sau những lần chiến thắng quân xâm lăng, thực chất không phải vì nước ta
sợ chúng, mà là tránh không để cho chiến tranh tiếp diễn, gây thêm cảnh sanh
linh đồ thán, để khổ cho muôn người.
Năm
1077 ba chục vạn quân Tống xâm lăng Ðại Việt. Ðại tướng Lý Thường Kiệt trong
khi ngăn giặc Tàu tại phòng tuyến Sông Cầu (Bắc Việt), đã sáng tác bốn câu thơ
thần, để cổ võ cho tình thần chiến sĩ nơi biên tái :
‘ Nam quốc sơn hà , Nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở )
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Rành rành định phận ở sách trời)
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm)
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng bây sẽ bị đánh tơi bời).
Bài
thơ như một bản tuyên ngôn độc lập của nước Nam, đồng thời đanh thép cảnh cáo
giặc Tàu đừng bao giờ ỷ mạnh hiếp yếu, luôn nuôi dã tâm cưởng chiếm nước người,
không sớm thì muộn cũng có ngày bại vong. Tất cả là sự gắn bó mãnh liệt vào
mãnh đất quê hương, vào di sản dân tộc tuy đẳm đầy máu lệ nhưng đâu có thiếu
chất lãng mạng kiêu hùng :
‘ Ðoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình nghi nổ lực
Vạn cổ thử giang san ‘
(Trần Quang Khải).
Vào
cuối năm Ðinh Mùi (1428), Bình Ðịnh Vương Lê Lợi sau 10 năm chiến đấu gian khổ,
đã đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi non sông đất Việt. Nguyễn Trãi thay ông
viết ‘ Bình Ngô Ðại Cáo ‘ công bố trước quốc dân về công cuộc
phục quốc đã thắng lợi, nước nhà lại độc lập tự chủ như thuở nào. Ðồng thời bày
tỏ lòng thương xót đối
với đồng bào vô tội đã bị giặc Minh tàn sát dã man, trong thời gian chúng tạm
chiếm được nước ta :
‘ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ trăm ngàn kế
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, dãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.. ’ ’ ’
Ba
trăm năm sau Mãn Thanh lại bắt đầu dòm ngó non sông Việt, qua cái cớ giúp Lê
Chiêu Thống dành lại ngôi vua. Vì vậy nữa đêm mùng năm tháng giêng Tết Kỹ Dậu
(1789), Ðại Ðế Quang Trung (Nguyễn Huệ) kéo quân ra Bắc và chỉ trong một hồi
trống đã đại thắng giặc Thanh, bắt Sầm Nghi Ðống thắt cổ tự tử, khiến Tôn Sĩ
Nghị phải ôm đầu máu, trốn vào ống đồng chạy về Tàu
Như
Lê Thánh Tôn (1460-1497) vị anh quân tài giỏi của Ðại Việt vào cuối thế kỷ XV
đã nói ‘ Ta phải gìn giữ cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy mất một phân
núi, một tấc sông của dất núi ‘ Câu chuyện thần thoại về Phù Ðổng
Thiên Vương cởi ngựa sắt đánh đuổi giặc Ân xâm lăng nước ta vào thời Hùng Vương
thứ VI, là một triết lý lịch sử dựng và giữ nước của Ðại Việt, tuy là một nước
nhỏ nhưng luôn chiến thắng kẻ thù to lớn phương Bắc, được văn chương bình dân
ca tụng đầy tự tin và ngạo nghễ :
‘ Nực cười châu chấu đá xe
tưởng rằng chấu ngã ai ngờ xe nghiêng
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm ‘.
Tóm
lại bài học lịch sử Việt ngàn đời vẫn còn đó : Giặc Tàu chỉ có thể xâm
lăng cưởng chiếm đất đai của ta mỗi khi thế nước suy hèn, chia rẽ và nội loạn
nên Hổ Quý Ly, Mạc Ðăng Dung và Chúa Trịnh đã dâng nạp cho kẻ thù phương Bắc
nhiều đất đai ở biên giới Hoa Việt.
Cuối
đời Trần vua quan hèn yếu, Hồ Quý Ly tiếm vị xưng vương vào năm 1401. Trần
Khang tự là Thiểm Bình, xưng là con cháu nhà Trần đến Yên Kinh xin Tàu đánh
nước Nam đề giựt lại ngai vàng cho mình. Nhà Minh lợi dụng cơ hội đó sang đánh
chiếm nước ta, đặt nên đô từ 1413-1428 mới chấm dứt vì bị Bình Ðinh Vương Lê
Lợi đánh đuổi chạy về Tàu. Thế mới biết, Nhà Hồ dù có trăm vạn quân
thiện chiến và tinh nhuệ nhưng vẫn thua giặc Minh vì mất lòng dân.
Trong lúc Kháng Chiến Quân Lam Sơn chỉ có vài chục vạn nhưng quân dân trên dưới
một lòng, vì vậy đã đánh đuổi được giặc Tàu xâm lăng ra khỏi bờ cõi, dành lại
độc lập cho nước nhà.
Năm
1786, Duy Kỳ hay Duy Khiêm lên nối ngôi vua Hậu Lê tức là Mẫn Ðế niên hiệu
Chiêu Thống. Năm 1788 vì thù hận Tây Sơn và Chúa Trịnh, đồng thời muốn giựt lại
chiếc ngai vàng cho nhà Lê, nên Chiêu Thống chạy sang cầu viện Mãn Thanh sang
chiếm nước ta nhưng bị Ðại Ðế Quang Trung đuổi đánh phải chạy về Tàu vào năm
1789.
Và
lịch sử lại tái diễn tấn tuồng ‘ Rước voi Tàu về dầy mã Tổ Hồng Lạc ‘
từ tháng giêng năm 1949, Hồ Chí Minh triệu tập hội nghị trung ương lần thứ 6 để
‘ nổ lực chuẩn bị sẳn sàng đón lấy dịp tốt, tuyệt đối không
nên bỏ lỡ cơ hội chiến lược từ Trung Cộng ‘.Cho nên không ngạc nhiên
khi thấy Tàu Ðỏ là nước đầu tiên công nhận Việt Cộng vào ngày 10-1-1950. Ðây
cũng là thời gian HCM bí mật sang Tàu chầu Mao Trạch Ðông cầu viện. Từ đó về
sau Hồ chọn ngày 10-1 làm quốc lễ và gọi đó là ngày ‘ thắng lợi ngoại
giao ‘.Hàng ngàn cố vấn Tàu có mặt đông đảo tại VN, trong số này có
các tướng Trần Canh, Vi Quốc Thanh, Lã Quí Ba.. giúp các đệ tử thân tín
của Hồ từng hoạt động bên Tàu, nắm giữ các địa vị then chốt trong đảng , ngày
qua ngày cứ thế sản sinh bè phái thân Trung Cộng, khống chế quyền lực cả nước
tới nay, biến nước ta thành một quận huyện của Tàu như thời Bắc thuộc.
Tháng
7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève chưa ráo mực, thì Hồ
Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam, để tron gói vơ vét và toàn
quyền trên ngai vàng máu lệ. Do ý đồ trên, Hồ đã gài lại một số lớn cán binh bộ
đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH khi có lệnh tập kết. Ðể chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con
đường chiến lược Trường Sơn trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia . Về
mặt biển, Hồ thành lập đường 559B giao cho Ðồng văn Cống chỉ huy. Dĩ nhiên muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt
hai tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, đất đai
thuộc lãnh thổ từ lâu đời của dân tộc Ðại Việt, đã được tổ tiên bảo toàn từ
thời Hậu Lê, Nhà Nguyễn.. nằm trong Ðông Hải.
Một
bí mật khác cũng đã được báo chí phổ biến cho biết “ vào tháng 4-1972
khi Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh cầu thân với Tàu đỏ, được Mao
Trạch Ðông đem công hàm bán đảo, do Hồ Chí Minh và Phạm Văn Ðồng ký
năm 1958 làm bằng chứng “, để phản đối việc tàu Hoa Kỳ vi phạm lảnh hải
quần đảo Hoàng Sa của chúng (?).Còn Kissinger thì xảo quyệt hơn, khi viết hồi
ký về chuyến đi đó, đã không hề thắc mắc hay nhắc tới một chữ về việc
Trung Cộng đòi chủ
quyền trên hai quần đảo Hoàng-Trường Sa, dù cả hai đều biết “ các
quần đảo này củaVNCH. Từ đó, Nixon ra lệnh cho hạm đội 7 tại Thái
Bình Dương phải ở xa hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đúng 12 hải lý như
Trung Cộng đã quyết định.
Ngày
11-1-1973 Trung Cộng công khai tuyên bố chủ quyền trên toàn thể các đảo của VN
trong biển Ðông. Ngày 26-12-1973 Bắc Kinh bắt đầu thương thuyết việc khai thác
dầu khí tại vịnh Bắc Việt với Ý Ðại Lợi. Tháng 1-1974 giặc Tàu xua
hải lục không quân chiếm Hoàng Sa và dù Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã trực
tiếp yêu cầu Bộ Quốc Phòng Mỹ giúp nhưng Mỹ lại ra lệnh Hạm Ðội 7 không can
thiệp, kể cả cấm vớt các chiến sĩ hải quân VNCH lâm nan trong cuộc hải chiến
trên, dù lúc đó hai
bên vẫn còn là đồng minh đồng đội.
Ngày
thứ bảy 17-2-1979 lúc 3 giờ 30 sáng, 600.000 quân Tàu tiền pháo hậu xung, ào ạt
mở cuộc xâm lăng đại quy mô vào VN, trên vùng biên giới từ Lai Châu tới Móng
Cáy. Thế là tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng giữa hai nước, đã trở thành
hận thù thiên cổ. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Ðồng Khê, Thất Khê.. lại
đi vào những trang Việt sử đẫm máu của VN chống xâm lăng Tàu. Cuộc chiến
thật đẫm máu ngay từ giờ phút đầu. Quân Tàu dùng chiến thuật cổ điển thí quân
với tiền pháo hậu xung, bằng các loại hỏa tiễn 122 ly và đại bác nòng dài 130
ly, với nhịp độ tác xạ 1 giây, 1 trái đạn. Sau đó Hồng quân tràn qua biên giới như
nước lũ từ trên cao đổ xuống. Tuy nhiên khắp nơi, Trung Cộng đã gặp phải sức
kháng cự mãnh liệt của VN, một phần nhờ địa thế phòng thủ hiểm trở, phần khác
là sự yểm trợ hùng hậu của pháo binh các loại, gây cho giặc Tàu nhiều tổn thất
về nhân mạng tại Lạng Sơn và Cao Bằng.
Tóm
lại sau 16 ngày giao tranh đẫm máu, Trung Cộng cũng như Khmer đỏ, tàn phá tất
cả tài sản của dân chúng, bắn giết tận tuyệt người VN, san bằng các tỉnh biên
giới, mà suốt cuộc chến Ðông Dương lần II (1960-1975) gọi là vùng an toàn. Ðã
có hằng trăm ngàn vừa dân vừa lính của cả hai phía thương vong. Tại miền bắc,
hằng triệu dân chúng phải phân ly. Nhà cửa, vườn ruộng, của cải vật chất, đền
đài, miếu võ, nhà thờ, di tích tổ tiên bao đời để lại.. đều vì VC gây chiến
tranh, mà tan tành theo cát bụi.
Cuộc
chiến tưởng đâu đã chấm dứt, vì
VC dấu nhẹm tin tức từ ấy cho đến năm 2006, nhờ mạng lưới Internet của Bộ Quốc
Phòng Trung Cộng (Defense-China.com) và tác phẩm ‘ Dữ kiện bí mật của cuộc
chiến tranh Trung-Việt (Secret Records of Sino-Vietnamese War) ‘ của Jin Hui, Zhang
Hui Sheng và Zhang WEi Ming, cả thế giới biết được ‘ Bí Mật
Lịch Sử về việc Tàu chiếm Núi Ðất của VN, trong cuộc chiến biên giới lần hai
(1984-1989)‘.Theo tài liệu dẫn chứng, năm 1984 Trung Cộng lại vin cớ CSVN
thường pháo kích và tấn công biên giới, nên bất thần tấn công cưởng chiếm Núi
Ðất của VN tại tỉnh Hà Giang (Thượng Du Bắc Phần), mở màn cho cuộc chiến Biên
Giới Việt Hoa lần thứ hai, kéo dài từ năm 1984-1989 mới chấm dứt, do Việt Cộng
tự bỏ đất rút quân, nhượng bán (?)lãnh thổ cho giặc Tàu.
CSVN,
ngay từ lúc còn trong trứng nước vào những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ XX
cho tới đại hội đảng bất thường lần thứ 6 vào đầu tháng 10-2012, từ Hồ Chí Minh
tới tập đoàn cầm quyền Trọng-Sang-Dũng và hầu hết các chóp bu trong bộ chính
trị và trung ương đảng “ đời đời biết ơn và luôn giữ sự thờ kính với
Trung Cộng “. Ðiều này cũng không có gì lạ vì hầu hết các cán bộ lớn
nhỏ của cộng đảng VN trước khi sang Liên Xô học hỏi kỹ thuật bán nước giết dân
tại Ðông Phương Hồng, đều đã trải qua thời gian huấn luyện quân sự và chính trị
tại Hoa Lục.
Ngày
nay nhờ sự bạch hoá của nhiều văn khố trên thế giới và nhất là sự tiết lộ của
Tàu đỏ, cho thấy dã tâm của Trung Cộng qua cái gọi là ‘ đồng chí XHCN
hay 4 tốt 16 chữ vàng ‘ thực chất chỉ là lợi dụng xương máu của người
VN qua bình phong ‘ sát cánh anh em chung ý thức hệ cộng
sản ‘ , để bảo vệ dùm biên giới phía nam của chúng. Năm 1968 sử gia
Pháp Francois Joyaux đã dựa vào tài liệu lưu trữ trong văn khố kết luận “ sự
có mặt lần đầu tiên của Mao tại hội nghị Geneve 1954, đã chứng tỏ
sự quan tâm lớn lao tới tình hình Ðông Dương thời đó của Trung Cộng.
Còn Paul Mus một học giả Pháp chuyên nghiên cứu về VN, vào năm 1965 đã viết ‘ Sở
dĩ Mao nhượng bộ Pháp tại hội nghị Geneve 1954, mục đích cũng chỉ muốn ngăn
chận sự thống nhất của VN cũng như không cho CSVN thống trị toàn thể bán đảo
này ‘.
Ðây
mới là lý do quan trọng nhất để Trung Cộng sẳn sàng hy sinh mọi thứ, chẳng
những dồn hết nhân vật lực hổ trợ cho Hà Nội, mà còn ra lệnh cho các đàn em Lào
và Cao Miên cho Hồ Chí Minh sử dụng hành lang của hai nước này tại biên giới để
Bắc Việt làm đường mòn. chuyển quân trang quân dụng vào xâm lăng VNCH. Tóm
lại đời đời Trung Cộng vẫn coi Việt Cộng như là một phương tiện không hơn không
kém để đạt cứu cánh của riêng mình.
Mãi
tới cuối thập niên 70 , quyền sinh sát toàn dân và non nước Việt vẫn nằm trong
tay đảng CS, do một thiểu số ủy viên già nua thất học trong cái gọi là bộ chính
trị VC được bầu bán từ năm 1960 gồm Hồ chí Minh, Duẩn, Giáp, Ðồng, Nguyễn Chí
Thanh, Hoàng Văn Hoan, Lê Ðức Tho, Trường Chinh.. trong số này Hoàng
Văn Hoan và Trường Chinh theo Tàu Ðỏ ra mặt. Sự tranh dành quyền lực
đảng sau bức màn đỏ rất quyết liệt sắt máu, giữa hai phe Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ,
Nguyễn Chí Thanh và Võ Nguyên Giáp, vì được bưng bít kỹ cho nên người ngoài ít
ai biết được. Sinh thời HCM luôn coi trọng Giáp hơn Duẩn nên dù Duẩn là bí thư
thứ I của đảng nhưng vẫn là phó cho Giáp trong quân ủy.
Lúc
đầu Duẩn vì có lập trường đối đầu với Giáp nên ngã theo Trung Cộng. Trong thời
gian Khrushchev cầm quyền Liên Xô có chủ trương xét lại và chống đối Tàu đỏ,
đồng thời ra mặt o bế Giáp đầu đảng phe thân Nga lúc đó, với mục đích chia rẽ
nội bộ CSVN. Năm 1967 Khruchchev bị hạ bệ, Duẩn-Thọ vin vào thời cơ để tạo ra
vụ án xét lại, loại bỏ gần hết phe đảng của Giáp. Riêng Giáp nhờ có HCM che chở
nên được sống già vô tích sự tới ngày nay.
Từ
sau tháng 5-1975 mặt nạ ‘ đánh Mỹ cứu nước ‘ của CSVN đã rớt,
cũng là lúc kết thúc trò đu dây giữa Nga-Tàu để hưởng lợi. Liên minh Ðông Dương
cũng không còn qua sự phá hoại của Trung Cộng, quan hệ Việt-Hoa rạn nứt từ
những ân oán cũ mới. Cuối cùng Duẩn bỏ Tàu theo Nga gây nên cuộc chiến
long trời lở đất tại biên giới Việt-Miên-Hoa từ năm 1978-1990.
Tháng
3-1985 Gorbachev làm tổng bí thư Liên Xô, phát động chính sách ‘ cởi mở (glasnov)
và tái cấu trúc (perestroika) ‘ để cứu vản nền kinh tế của Nga đang
trong cơn khủng hoảng vì phải cưu mang quá nhiều ngoại viện cho các nước chư
hầu trong đó có CSVN. Ðồng thời, Gorbachev còn nối lại liên hệ với kẻ thù Hoa
Kỳ và Trung Cộng. Trong bước đường cùng vì bị cả thế giới bỏ rơi ngoảng mặt,
tháng 8-1986 Hà Nội tuyên bố rút hết quân ra khỏi Kampuchia và muốn nối lại
quan hệ ngoại giao với Bắc Kinh. Trường Chinh (tạm thay Lê Duẩn mới chết, làm
quyền tổng bí thư) còn gửi điện văn chúc mừng quốc khánh của Tàu đỏ.
Tóm
lại sự suy sụp của đế quốc Liên Xô vào năm 1986 cộng thêm cái chết của Lê Duẩn,
đã đưa CSVN vào ngõ cụt về ý thực hệ, kinh tế gần như khánh tận, quân sự bị sa
lầy tại Kampuchia.. Nên để cứu đảng, cứu thân, bọn chóp bu tại bắc bộ phủ mới
được bầu trong đại hội đảng lần thứ VI (Linh, Hùng, Công, Mười, Kiệt..) qua cố
vấn của Chinh, Ðồng, Thọ “ quyết tâm phấn đấu để sớm được
trở lại làm đầy tớ cho Tàu “. Trong lúc đó, Trung Cộng vẫn công
khai xua quân chiếm thêm nhiều đất đai của ta tại biên giới và các đảo thuộc
quần đảo Trường Sa của VN vào ngày 16-3-1988 trước sự phản ứng lấy lệ gần như
đầu hàng giặc của chóp bu CSVN.
Tháng
4-1989 Trung Cộng dùng xe tăng đại pháo tàn sát dã man sinh viên và dân chúng
biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh). Từ cuối năm
1989-1990, Ðông Ðức, Ðông Âu và đế quốc Sô Viết tan rã, khối XHCN chỉ còn lại
Tàu đỏ, Việt Cộng, Bắc Hàn và Cu Ba. Trước nổi chết gần kề, ngày 10-4-1990 bộ
chính trị cộng đảng VN họp khẩn để ‘ nhất trí quyết tâm bằng
mọi giá (kể cả bán nước, bán dân) được theo Tàu để bảo vệ XHCH. Và từ đó tới ngày nay 11-2012)
, cái giá máu mà dân tộc VN phải đổ ra để CSVN trả nợ cho giặc Tàu là một phần
lảnh thổ gồm đất đai, biển, đảo và sự Hán hóa dân tộc Việt của Trung Cộng.
Ðổ
Mười, Lê Khả Phiêu, Trần Ðức Lương, Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn
Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang.... đã và đang viết phần cuối trang
sử nô lệ giặc Tàu mà Hồ Chí Minh đã đề ra từ năm 1930. VN sẽ trở thành một quận
huyện của Trung Hoa như thời Bắc Thuộc. Tất cả đều là sự thật nhục nhã và đau
lòng.
Sau
ngày 30-4-1975, hằng năm CSVN đều tổ chức ăn mừng ‘ chiến thắng Tết Mậu Thân
1968 ‘ và ‘ đại thắng mùa xuân 1975 ‘. Nhưng tuyệt đối không nhắc tới một chữ về
những đau thương trầm thống mà giặc Tàu đã gây cho Nước Việt và Ðồng Bào Việt
trong cuộc chiến biên giới Hoa-Việt khởi sự từ ngày 17-2-1979 và kéo dài tới
đầu thập niên 1990 mới tạm dứt sau khi toàn bộ chóp bu VC đầu hàng Tàu đỏ.
Ðã
vậy VC còn công khai khinh thường và hạ nhục cả nước, khi đảng cùng với Trung
Cộng rầm rộ tổ chức ăn mừng đã hoàn thành việc cắm mốc biên giói Việt-Trung tại
Ải Nam Quan vào ngày 24-2-2009. Biên bản do Nguyễn tấn Dũng ký vào cuối năm
2008 nhưng đã tuyệt tích vì bị đảng ém nhẹm nên người dân không hề hay biết một
điều gì.
Tháng
4-2008, VC giup Tàu đỏ tổ chức rầm rộ cuộc rước đuốc máu thế vận hội Bắc Kinh tại Sài Gòn. Ngày
1-10-2012, VC hoan hĩ gửi điện văn và tổ chức ăn mừng quốc khánh Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa của VN, mà giặc đã cưởng đoạt vào tháng
1-1974..Toàn cảnh bức tranh “ đời đời nhớ ơn giặc Tàu “ được Hồ Chí Minh và CSVN
khắc cột ghi tâm, nên chuyện những người yêu nước chống ngoại xâm hiện nay tại VN bị tàn sát, tù đày,
thủ tiêu và khủng bố..cũng chẳng làm ai ngạc nhiên và khiếp sợ, vì bộ mặt thặt của đảng từ trên xuống dưới đã bị nhận diện, sau khi cái gọi là “ hội nghị tự phê của đảng làn thứ 6 “ khai mạc và kết thúc vào tháng
10-2012, được các diễn đàn “ Dân Lam Báo, Quan Làm Báo, Báo Tổ Quốc, Biển Đông “ phổ biến sâu rộng khắp hang cùng ngõ hẹp trên trái đất.
Ðại
hội VI (1986-1991) ngoài thành tích đổi mới kinh tế theo định hướng XHCH để tạo
thêm đặc quyền đặc lợi cho cán bộ, bộ đội, công an và tư bản đỏ làm giàu thêm
nhờ than nhũng và ăn cắp của công. Tháng 7-1987 hội nghị trung ương đảng họp và
ban hành nghị quyết số 2 cấm ‘ QUÂN ÐỘI NHÂN DÂN VN KHÔNG ÐƯỢC ÐỤNG
CHẠM VỚI QUÂN TÀU ÐỎ ‘.Lệnh này được giữ kín mãi tới ngày 28-1-1990
báo Nhân Dân mới đăng tải.
Tóm
lại dù Tàu đỏ đã thẳng tay tàn sát cũng
như tàn phá đất nước VN trong trận chiến biên giới Việt-Hoa ngày
17-2-1979 và liên tiếp những năm sau đó. Tại Biển Ðông, TC cướp chiếm Hoàng Sa và nhiều đảo khác thuộc quần đảo Trường Sa của VN qua trận hải chiến năm 1988. Nhưng mai mĩa thay khi
Lê Ðức Anh được cử làm bộ trưởng quốc phòng tại tại hội VI, đã đem ‘ quân
đội nhân dân VC ‘ đầu hàng Tàu đỏ, mặc dù lúc đó sự giao hảo giữa hai nước vẫn chưa thông. Anh còn bắt xuạt bản cuốn từ điển Việt-Hoa để bộ đội ‘ cu’ học .
Trong
lúc Tàu đỏ gặp nhiều khó khăn quốc tế sau vụ tàn sát Thiên An
Môn, các chóp bu VC đã không biết vin vào thời cơ này để lấy lại thế quân bình ngoại giao và uy tín của quốc gia. Trái lại bọn đầu lãnh già nua bảo thủ tại Bắc Bộ Phủ lúc đó như Linh, Mười, Anh.. chỉ biết cúi đầu tuân phục giặc để được chủ củ sớm cho làm đầy tớ trở lại. Vì thế vào ngày 29-8-1990
Linh và Mười, kể cả Phạm Văn Ðồng, đã ngoan ngoản từ Hà Nội sang Thành Ðô để gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng nhận lệnh của thiên triều.
Bổn cũ tiếp tục soạn lại qua các lần đại hội đảng kế tiếp với Manh, Lương, Khải, Triết rồi Trong, Sang,
Dũng..Tất cả đều theo đúng mẫu mã khuôn rập đã có sẳn từ thời Hồ Chí Minh của mấy chục năm về trước ban truyền “ đời đời theo Tau và nhớ ơn thiên triều “.Trung Cộng ngày nay còn
hung dữ gấp trăm lần Quốc xã Ðức, Phát xít Ý và
Quân phiệt Nhật., vậy mà lúc nào cũng
to mồm chưỏi Nhật.
Trong
cơn sơn hà nguy biến, dân tộc lâm nguy, đồng bào cả nước và hải ngoại ai nấy đều chung căm hận, quyết chờ cơ hội thuận tiện để đồng đứng dậy lật đổ bọn ngụy quyền CSVN “ ác với dân nhưng hèn với giặc “, , để đánh đuổi Tàu đỏ ra khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Ðông, Biên Giới.. như tổ tiên ta ngày trước đã từng làm. Vì VN không phải là một nước nhỏ, dân Việt không phải là loại người khiếp hèn. Nhõ hay hèn
trước giặc Tàu phương Bắc, chỉ có đảng CSVN còn 80 triệu người Việt luôn khẳng định sức mạnh của mình, sẽ không bao giờ để cho Tàu đỏ hung hăng bá quyền nước lớn. Ngày đó không xa
và chắc chắn VN sẽ dành lại những phần đất của tổ tiên, bị VC dâng bán cho
Tàu đỏ suốt mấy chục năm qua, khi
chúng bị hầu hết nhân loại quyết tâm tiêu diệt vì lòng tham lam
hung bạo và vô nhân tính, qua ảo vọng làm chủ Biển Đông và siêu cường số 1 thế giới.
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 8-2014
MƯỜNG GIANG
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment