CSVN
Lừa Ðảo “Cứu Nước” Ðể “Xâm Lăng Miền Nam ”
Rồi
“Bán Nước” Cho Tàu
Ngày 30 tháng 4
năm 2013
H,
Ðọc lại “Cổ
Học Tinh Hoa” của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân, Giáo Già ghi nhận chuyện
“Tăng Sâm Giết Người” có giá trị biểu tượng như sau:
Một người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng: “Tăng Sâm giết người ”. Bà
mẹ nói : “Chẳng khi nào con ta lại giết người”. Rồi bà điềm nhiên ngồi dệt cửi.
Một lúc lại có người đến bảo:“Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ không nói gì, cứ điềm
nhiên dệt cửi .
Một lúc lại có người đến bảo: “Tăng Sâm giết người” Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi,
trèo qua tường chạy trốn”.
Sách “Cổ Học
Tinh Hoa” có Lời Bàn như sau:
“Tăng Sâm vốn là
người hiền hậu, hiếu thảo, bà mẹ vốn là người trung tín, một bụng tin con. Thốt
nhiên có kẻ bảo: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ không tin, và người thứ hai bảo,
còn chưa tin; đến người thứ ba bảo, thì cuống cuồng chạy trốn. Như thế mới hay
cái dư luận của thiên hạ rất là mạnh. Một việc, dù cho sai lầm đến mười mươi,
nhiều người đã có cùng một nghị luận đều như thế cả, thì cũng dễ khiến người ta
nghi nghi hoặc hoặc rồi đem bụng tin mà cho là phải, nom đỉa hóa ra con rươi,
trông con chó thành con cừu. Ðến như giữa chợ, làm gì có cọp! Thế mà một người,
hai người, đến ba người nói có cọp, thiên hạ cũng tin có cọp thật nữa là! Những
bậc ra được ngoài vòng dư luận, giữ vững được bụng như cây giữa rừng, như kiềng
ba chân rất là hiếm, nhưng có thế được mới cao. Một chân lý có chứng minh rõ
ràng, mười phần chắc chắn, thì mới nên công nhận”.
Từ chuyện “Tăng
Sâm Giết Người” Giáo Già nghĩ ngay đến xảo thuật tuyên truyền của Cộng sản
Việt Nam trong cuộc chiến “Xâm Lăng Miền Nam Việt Nam”, kết thúc
38 năm trước, tức ngày 30/4/1975, mà dư luận, từ Việt Nam đến quốc tế, đều bị
đánh lừa là “Chống Mỹ Cứu Nước”.
Cho đến nay trò
lừa này vẫn được chúng tiếp diễn, cho dầu sự thực đã được phơi bày đến độ trắng
trợn. Xin đơn cử một thí dụ điển hình bằng chính chứng liệu do chúng công bố.
Ðó là trên báo Tuổi Trẻ của chúng, ra ngày 18/04/2013, đăng bài “Công Bố
Sách Lịch Sử Chống Mỹ Cứu Nước” như sau:
“Bộ sách Lịch
sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) vừa được công bố chính thức tại
TP.HCM vào sáng 17-4 trong buổi công bố do NXB Chính Trị Quốc Gia - Sự Thật
cùng với Ban Tuyên giáo trung ương, Thành ủy TP.HCM và Viện Lịch sử quân sự VN
phối hợp tổ chức [Xem hình Bộ sách Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước trưng
bày tại buổi công bố - Ảnh: L.Ðiền]. Ðây là bộ sách xuất phát từ bộ Lịch sử
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975) xuất bản từ năm 1990-1991 do Viện Lịch
sử quân sự biên soạn, nhưng chủ yếu phục vụ nghiên cứu, giảng dạy ở các học
viện, các trường sĩ quan trong Quân đội nhân dân VN. Sau đó từ năm 1995-2012,
Viện Lịch sử quân sự đã biên soạn bộ mới gồm chín tập, đã được NXB Chính Trị
Quốc Gia lần này phổ biến rộng rãi trong cả nước”.
CSVN đâu có chống
Mỹ cứu nước. Sáng ngày 30/4/1975 viên sĩ quan Cộng sản Bắc Việt Phạm Xuân Thệ
vào dinh Ðộc Lập thúc ép Ðại tướng Dương Văn Minh đến đài phát thanh Sài Gòn
tuyên bố đầu hàng đã phô bày trắng trợn thực tế xâm lăng Miền Nam Việt Nam của
Cộng sản Bắc Việt chớ có chống người Mỹ nào để cứu nước đâu. Chuyện chống Mỹ
cứu nước chỉ là một trò lừa, lộng giã thành chơn, như nói chuyện Tăng Sâm giết
người. Vậy mà cho tới nay Việt cộng vẫn tiếp tục lừa, lừa dư luận và lừa chính
chúng, tiếp tục viết sách và in sách lừa đảo sự thật.
Ðể vạch mặt trò
lừa đảo này, nhìn vào lịch sử cuộc chiến, với trận chiến khốc liệt kết thúc
ngày 30/4/1975, nhìn vào từng diễn biến của từng sự việc hầu như ai cũng thấy,
nhưng có điều rất đau lòng là không có mấy người chịu phơi bày sự thật cho dư
luận thấy và biết rõ trò lừa vô cùng bỉ ổi và nguy hiểm này của Việt cộng.
Hôm nay, nhân mùa
Quốc Hận 30 tháng 4 năm 2013, Giáo Già xin nhắc lại một số điểm quan trọng cho
thấy Mỹ không có “cướp nước” Việt Nam; vậy mà Việt cộng cứ buộc dân Việt Nam
phải nghe theo chúng mà “chống Mỹ cứu nước”. Trong suốt mấy mươi năm qua chỉ có
bọn cầm quyền Cộng sản Bắc Việt xâm lăng Miền Nam Việt Nam rồi cai trị cả nước
bằng độc đảng độc tài, gây tang tóc quê hương và điêu linh dân tộc. Xin ghi lại
một số điểm chánh:
1.
Mỹ
không hề xâm lược Việt Nam, hay rõ hơn là Miền Nam Việt Nam, như Việt cộng rêu
rao; vì Mỹ đến Việt Nam không chiếm của Việt Nam một tất đất, một hải đảo nào. Họ
cũng không cai trị Việt Nam bằng bất cứ một chánh quyền nào. Ngược lại họ chỉ
giúp Miền Nam chống lại cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt. Hơn thế nữa, họ
còn giúp Miền Nam phát triển kinh tế để trở thành vùng đất phồn vinh ngang
hàng, có khi hơn, các quốc gia phồn vinh trong vùng Ðông Nam Á, như Singapore,
Ðài Loan, Thái Lan, Mã Lai, Indonesia...
2.
Quân
đội Mỹ có mặt ở Miền Nam Việt Nam trước hết là là để cố vấn quân lực Việt Nam
Cộng Hòa còn non trẻ trong giai đoạn đầu. Khi Cộng sản Bắc Việt cho thành lập
“Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ” ngày 20/12/1960 đâu có ai thấy bóng
dáng quân đội Mỹ ở Miền Nam Việt Nam . Năm 1965 Mỹ mới bắt đầu đưa quân vào
Miền Nam Việt Nam để giúp Miền Nam Việt Nam chống lại Cộng sản Bắc Việt; vì
cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam của Cộng sản Bắc Việt ngày càng leo thang với
số viện trợ quá dồi dào của Liên Sô, Trung cộng và khối Cộng sản quốc tế.
3.
Chính
Liên Sô, quốc gia chi viện nhiều nhứt cho Cộng sản Bắc Việt, trong một số tài
liệu được giải mã, cũng nhìn nhận “Người Mỹ chắc chắn không xâm lược Việt
Nam như cách người Pháp thực dân làm trước năm 1945...” Cộng sản Bắc Việt
xâm lăng Miền Nam Việt Nam trong vai trò nhuộm đỏ vùng Ðông Nam Á cho Cộng sản
quốc tế. Chính Lê Duẫn, Bí thư thứ nhất đảng Lao Ðộng (CSVN), đã từng nói: “Ta
đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa
ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422 và tiết lộ của Nguyễn Mạnh
Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày
24-1-2013.)
4.
Hơn
nữa, chính Trung cộng, qua cửa miệng Mao Trạch Ðông, muốn Cộng sản Bắc Việt
chiếm Miền Nam Việt Nam để Tàu tràn xuống chiếm các vùng đất trù phú ở phía
đông và nam Thái Bình Dương... nên việc “chống Mỹ cứu nước” không phải là cứu
nước Việt Nam mà là mở rộng nước Tàu cộng, như mọi người đều biết là từ tháng 8
năm 1965, tại cuộc họp Bộ Chính trị Ban Chấp Hành Trung ương Ðảng Cộng sản
Trung Quốc, Mao Trạch Ðông đã tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được Ðông
Nam Á, gồm cả miền Nam Việt Nam, Thailand, Miến Ðiện, Malaysia, Singapore... Một vùng như Ðông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều
khoáng sản, xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy”.
5.
Ðến
khi sự có mặt ở Việt Nam không còn cần thiết nữa thì Mỹ cho thu xếp mọi chuyện
tiến hành Hiệp định Paris, ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973, để rút quân về nước
[xem hình Lê Ðức Thọ của CSVN và Henry Kissinger của Mỹ bắt tay nhau sau lễ ký
kết]. Vì chuyện riêng của đất nước mình Mỹ không muốn giúp Việt Nam Cộng Hòa
đánh Việt cộng nữa; họ thu xếp rút quân về chớ có thua đâu mà mỉa mai là “tháo chạy”
như lời tựa cuốn sách của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng; để bộ đội Việt cộng ở lại
khắp các chiến trường; để chúng mau lẹ vị phạm hiệp ước chúng vừa ký kết, xua
quân tràn qua vĩ tuyến thứ 17, tràn ngập các chiến trường, tiến hành mau lẹ các
trận đánh ác liệt, hoàn tất cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam. Ðây cũng là cách Việt
cộng Lê Ðức Thọ lừa đảo cả giải Nobel Hòa Bình thế giới, khiến họ đã trao
giải “Nobel Hòa Bình” cho một tội phạm chiến tranh, để Việt Nam có một nền
“hòa bình” khiến số người chết còn thê thảm hơn cả chiến tranh.
6.
Ðiều
cũng không được quên nữa là trong cuộc chiến bị Việt cộng gọi là “Chống Mỹ Cứu
Nước” đó chúng đã dàn dựng quá nhiều chuyện để lên án quân đội Mỹ là “ác ôn”
trong khi chẳng có một lần, cho dầu chỉ một lần, nói lên lòng nhân đạo của
người quân nhân Mỹ như trong hình chụp đính kèm [xem hình].
Như vậy, chống Mỹ
cứu nước chỉ là trò lừa của Cộng sản Bắc Việt để tiến hành cuộc xâm lăng Miền
Nam Việt Nam, sau khi đã chiếm được một nửa nước Việt Nam, từ vĩ tuyến thứ 17
trở ra phía bắc, theo Hiệp định Genève năm 1954, với sự giúp đỡ tích cực của
Trung cộng.
Do đó, danh xưng
được dùng cho cuộc chiến không phải “Chống Mỹ Cứu Nước” mà là “Cuôc Chiến Xâm
Lăng Miền Nam Việt Nam Của Cộng Sản Bắc Việt”.
Cùng lúc với trò
lừa đảo “Chống Mỹ Cứu Nước” Cộng sản Bắc Việt cũng lừa đảo chuyện “Xâm Lăng
Miền Nam Việt Nam” mà chúng đã chuẩn bị ngay khi Hiệp định Genève năm 1954 vừa
ráo mực, vì chúng chỉ đưa một số cán binh lộ diện tập kết ra Bắc, còn lại thì
ém ở các địa phương Miền Nam, trà trộn trong dân. Ðồng thời chúng cũng hối hả
cho tổ chức những cuộc hôn nhân, cho cán binh cưới vợ rồi để vợ ở lại Miền Nam,
làm cơ sở cho cán binh trở lại hoạt động, khi thời cơ cho phép; đó là chưa kể
những người phụ nữ bất hạnh đó sinh cho chúng những đứa con làm gạch nối cho
những hoạt động của chúng về sau, gây nên trùng trùng ngang trái trong đời sống
của người dân Miền Nam, khi chúng tiến hành cuộc chiến xâm lăng Miền Nam Việt
Nam. Mặt khác, trước khi cán binh Việt cộng lên đường tập kết, Việt cộng cũng
cho chôn giấu võ khí ở một số nơi chúng dự trù làm căn cứ cho cuộc chiến mà
chúng chuẩn bị trước.
Ðể che giấu mặt
thật xâm lăng Miền Nam Việt Nam , Việt cộng dựng lên chiêu bài “giải phóng” để
lừa đảo dư luận. Ngày 20/12/1960 chúng cho thành lập Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam . Nó được chính thức ra đời theo yêu cầu chiến tranh của Ðảng
Lao động Việt Nam (CSVN), vào ngày 20 tháng 12 năm 1960, tại xã Tân Lập, huyện
Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đặt dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và Trung ương
Cục miền Nam.
Từ đó, dưới sự
lừa đảo tinh vi, cuộc xâm lăng Miền Nam Việt Nam, qua chiêu bài “giải phóng”,
được tiến hành ngày càng mãnh liệt hơn, với số bộ đội xâm nhập ngày càng đông
hơn, vũ khí được trang bị tối tân hơn và sự tàn bạo của cán binh nhắm vào các
viên chức Việt Nam Cộng Hòa và người dân có liên quan đến chánh quyền cũng dã
man hơn... để cuối cùng kết thúc bằng sự lừa đảo thô bạo của Cộng sản Bắc Việt
khi tiến quân vào Sài Gòn. Nó thể hiện qua thái độ xấc xược của tên sĩ quan
Cộng sản Bắc Việt trực diện Ðại tướng Dương Văn Minh, ngồi ở dinh Ðộc Lập, sáng
ngày 30/4/1975, chờ bàn giao chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa cho chúng. Hắn thô
bạo nói:
“Mầy dám nói
là trao quyền hả? Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền
và một bù nhìn. Mầy làm gì có “quyền” nào để giao cho tao? Chúng tao lấy được
quyền đó bằng khẩu súng nầy đây. Ngoài ra tao xác nhận với mầy là tao không
phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chánh trị của một đơn vị chiến xa.
Kể từ bây giờ tao cấm mầy không được ngồi xuống!” [Trích Hồi ký của cựu Ðại tá Dương Hiếu Nghĩa, thuật
lại theo lời kể của cựu Trung tá Nguyễn văn Binh, cựu quận trưởng quận Gò Vấp,
(anh rễ của Ngô công Ðức, cũng là bạn thân của cựu Ðại tá Nghĩa) người cũng có
mặt tại Dinh Ðộc Lập từ sáng ngày 30/4... Xem hình Ðại tướng Minh đọc lời tuyên
bố đầu hàng do Việt cộng soạn ở đài phát thanh Sài Gòn]
Cuộc
xâm lăng Miền Nam Việt Nam hoàn tất. Vai trò Giải phóng Miền Nam Việt Nam coi
như đã xong. Tưởng như mọi chuyện đều tốt đẹp. Nhưng nỗi kinh hoàng đã thật sự
trùm phủ toàn cõi Miền Nam Việt Nam . Nó được ghi lại qua bài viết mang tên
“GIẢI PHÓNG” NỔI KINH HOÀNG CỦA NGƯỜI DÂN VIỆT” của Tiến Sĩ Việt cộng Lê Hiễn
Dương, nguyên Hiệu Trưởng Ðại Học Ðồng Tháp. Xin trích nguyên văn:
“Còn nhớ ngày 30
táng 4 năm 1975, lúc đó chúng tôi còn là sinh viên của đại học sư phạm Vinh đã
hồ hởi, phấn khởi hò reo meeting nhiều đêm ngày để mừng Miền Nam được hoàn toàn
giải phóng, bởi chúng tôi tin rằng từ đây đồng bào Miền Nam ruột thịt của chúng
tôi sẽ không còn đói rách lầm than và không còn sống trong cảnh “Ngụy kềm, Mỹ
kẹp” nữa... Họ đã được đảng và Bác cùng nhân dân Miền Bắc chúng tôi “giải
phóng”. Và những tháng tiếp theo đó chúng tôi được tận mắt nhìn thấy hàng đàn
hàng lủ bọn “ngụy quyền ác ôn”!? bị sự trừng phạt bởi chính quyền cách mạng,
của nhân dân miền Bắc và của chính chúng tôi... Số là mỗi tuần một lần. chúng
tôi được chính quyền và ban giám hiệu nhà trường thông báo vào những ngày giờ
có những ô tô của cục quân pháp chuyển tù cải tạo là những sỹ quan, “ngụy quyền
ác ôn” của chính quyền Mỹ Thiệu đi ngang qua địa phương để đến các trại cải tạo
ở mạn ngược. Cùng với đồng bào địa phương, mỗi sinh viên chúng tôi phải chuẩn
bị đầy đủ số đá trứng nhặt từ đường ray xe lửa để khi đoàn xe tù đi ngang qua
là hô hào toàn dân trút những trận mưa đá lên đầu những tên “ngụy quyền” ác ôn
này, bởi chúng có quá nhiều nợ máu với nhân dân, với đất nước... Và sau mỗi lần
trừng trị bọn ngụy quyền ác ôn đó, chúng tôi đều có hội họp, báo công và được
tuyên dương khen thửơng, được kết nạp vào đoàn, được vinh dự đứng vào hang ngũ
của đảng vì đã “đả thương” được bao nhiêu sỹ quan ngụy quyền đó.!? Tất nhiên là
cũng có nhiều buổi họp báo công, chúng tôi cũng bị phê bình kiểm điểm vì đã
không có trường hợp thương vong nào được ghi nhận trong những vụ “tập kích”
đó...?? [xem hình Quân đội Bắc Việt áp giải tù binh miền Nam, tháng 5 năm 1975.
AFP PHOTO]
Kết
thúc 4 năm đại học với vô số những cuộc tập kích để ném đá vào những xe chuyển
tù, rồi chúng tôi cũng tốt nghiệp đại học, rồi được đảng và nhà nước chi viện
vào miền Nam để mang “ánh sáng văn hóa” vào cho đồng bào miền Nam ruột thịt bao
năm qua sống trong u tối lầm than vì cứ liên miên bị Ngụy kềm Mỹ kẹp chứ đâu có
học hành gì!?
.
Chúng tôi thực sự choáng ngợp khi xe qua khỏi vùng chiến sự Quảng Trị, đến Huế,
đến Ðà Nẵng... rồi Nha Trang, Sài Gòn, rồi về Miền Tây, đến thị trấn Cao Lãnh,
đâu đâu cũng lầu đài phố xá, chứ có tường đất mái tranh như ở thành phố Vinh
chúng tôi đâu.
Nhận
xong nhiệm sở từ ty giáo dục Ðồng Tháp, chúng tôi được đưa về công tác tại
trường trung học sư phạm Ðồng Tháp ngay tại trung tâm của thị trấn Cao Lãnh, và
tại đây, trong suốt nhiều năm liền chúng tôi được bố trí ở tại khách sạn Thiên
Lợi mà chính quyền cách mạng đã tịch biên từ tên “tư sản” Thiên Lợi... Chúng
tôi đi từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác, bởi đây là lần đầu tiên chúng
tôi biết được thế nào là “Khách Sạn”, biết được thế nào là lavabo là toilet tự
xả nước, bởi cả thành phố Vinh, cả tỉnh Nghệ An chúng tôi hay thậm chí cả miền Bắc
XHCN lúc bấy giờ là không có, chỉ sử dụng hố xí lộ thiên, để còn dùng nguồn
“phân Bắc” này để canh tác, để tăng gia sản xuất theo sáng kiến kinh nghiệm
“cấp nhà nước” của đại tướng Nguyễn Chí Thanh mà được bác Hồ khen thưởng và có
thơ ca ngợi rằng:
“Hoan hô anh
Nguyễn Chí Thanh
Anh về phân Bắc,
phân xanh đầy nhà”...
Thậm
chí ở xã Hưng Lĩnh, Hưng Nguyên quê tôi lúc bấy giờ còn có cả những vụ án các
tập đoàn viên, các hợp tác xã viên “can tội trộm cắp” phân bắc từ các hố xí của
láng giềng để nộp cho hợp tác xã...!?. Tôi thấm thía hơn với những câu thơ ca
ngợi miền Bắc đi lên XHCN của Tố Hữu mà ngoài sinh viên học sinh chúng tôi ra
thì hầu như cả nhân dân miền Bắc lúc bấy giờ ai cũng thuộc nằm lòng:
“Dọn tí phân rơi
nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than mẩu
thóc cân ngô
Hai tay ta gom
góp dựng cơ đồ...”
Tôi
bắt đầu nghi ngờ với cụm từ “giải phóng miền nam”... Rồi những trận đổi tiền để
đánh tư sản, rồi nhiều nhà cửa của đồng bào bị tịch biên, rồi hàng triệu đồng
bào bắt đầu bỏ nước ra đi, nhiều giáo sinh của trường chúng tôi cũng vắng dần
theo làn sóng đi tìm tự do đó... Tôi bắt đầu hiểu đích thực ý nghĩa của cụm từ
“giải phóng niền nam” và bắt đầu cảm thấy xấu hổ cho bao nhiêu năm sống trong
niềm ảo vọng mù quáng của bản thân... mà dù ở chừng mực nào cũng được xem là
thành phần trí thức trong xã hội...
Dần
dần tôi hiểu sâu hơn cái sự mỉa mai chua chát của hai từ “GIẢI PHÓNG” đang được
dùng trong kho tàng Tiếng Việt của nước nhà... “Giải phóng miền nam” thực sự có
mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc vô biên và cả sự thịnh vượng nữa với gia sản
có thể đột ngột tăng lên cả 16 tấn vàng ròng... (từ ngân hàng chế độ Saìgòn
Miền Nam để lại) Nhưng tất nhiên chỉ cho một thiểu số trong xã hội XHCN miền
Bắc, chỉ chừng 16 người trong tổng số non 50 triệu dân lúc bấy giờ thôi... Còn
lại thì “giải phóng” đồng nghĩa với nhân dân miền Bắc là cảnh nhà nhà côi cút
vì “sinh Bắc tử Nam” mất con, mất chồng, mất cha, mất anh mất em bởi họ đã vào
chiến trường miền Nam để đi “giải phóng” và không bao giờ trở về nữa... “Giải
phóng” với dân miền Nam cũng có nghĩa là tù đày, là cải tạo nơi rừng thiêng
nước độc, là mất vợ... mất con, mất nhà cửa ruộng vườn, mất bao nhiêu người
thân trên biển cả và mất hết tự do dân chủ nhân quyền và mất luôn cả tổ quốc
nơi mình sinh ra!
Rồi
đến “giải phóng mặt bằng” cũng chỉ mang nguồn lợi lớn lao cho “muôn quan” địa
phương, nhưng lại là nỗi ám ảnh, nỗi hãi hùng của “muôn dân”, bởi sau “giải
phóng mặt bằng” là hàng trăm đồng bào lại phải vô tù ra khám bởi tội “chống
người thi hành công vụ”, bởi sau giải phóng mặt bằng là cái chết của thiếu niên
Lê Xuân Dũng và Lê Hữu Nam, là thương tật của nông dân Lê thị Thanh.
Chẳng
biết người dân Việt nam từ nay còn dùng cụm từ “trước ngày giải phóng” hay “sau
ngày giải phóng” để định mốc thời gian nữa không... Riêng tôi, tôi cảm thấy quá
căm thù nhân loại bởi đã bịa ra từ ngữ “giải phóng” và “giải phóng mặt bằng” mà
chi để dân Việt chúng tôi vì nó mà phải khổ lụy đến dường này.
Ðồng Tháp ngày 29
tháng 5 năm 2010
Tiến Sỹ Lê Hiển
Dương
Nguyên
Hiệu Trưởng Ðại Học Ðồng Tháp.
Bên cạnh nỗi kinh
hoàng của Tiến sĩ Việt cộng Lê Hiễn Dương, mọi người ai cũng thấy, sau năm
1975, không lâu sau khi người Miền Bắc tràn vào Miền Nam, vấn nạn “giải phóng”
xoay ngược chiều mau lẹ, khiến dư luận đặt ngay câu hỏi “ai giải phóng ai?” [xem
biếm họa của Babui trích từ DCV Online]
Thật
vậy, buổi đầu, người Miền Nam bị những kẻ cao ngạo Miền Bắc tự cho là “chiến
thắng” ép sống theo phong cách của người Miền Bắc, từ cách ăn mặc cho đến ngôn
ngữ và lối cư xử hằng ngày... Nhưng, trừ bọn “cách mạng 30”, và những kẻ theo
đuôi, chẳng có mấy ai theo.
Trong
khi đó, trái lại, hầu hết người Miền Bắc có dịp vào Nam, hay có dịp tiếp xúc
với người Miền Nam ra Bắc, họ đều học theo phong cách của người Miền Nam, cái
phong cách mà trong mấy ngày đầu 30 tháng 4 năm 1975 chúng cho là “đồi trụy”.
Họ ăn mặc theo kiểu cách của người Miền Nam, đua đòi theo thời trang của người
Miền Nam, say mê nghe “nhạc vàng”, tìm đọc sách của các tác giả Miền Nam mà
chúng từng cho là “đồi trụy”, từng bị chúng kiểm kê, tịch thâu, đốt bỏ, lấy làm
giấy gói đồ... Ngay cả nam cán bộ lãnh đạo hàng đầu của chúng cũng đua đòi mang
giày da, thắt cà vạt..., nữ cán bộ mặc áo dài may đúng thời trang... trang điểm
phấn son... đến độ coi như tất cả đã bị Miền Nam đồng hóa... khiến kẻ bại
nghiểm nhiên trở thành người thắng trên đủ mọi lãnh vực...
Xâm
lăng được Miền Nam Việt Nam rồi Cộng sản Bắc Việt không “giải phóng” được Miền
Nam mà chúng đã lần hồi được người Miền Nam “giải phóng” khỏi cái lạc hậu mấy
mươi năm trước, để chúng hãnh diện đua đòi sống theo phong cách Miền Nam.
Nhưng, bất hạnh thay, cái coi như “chiến thắng” của chúng không phải để phát
triển và xây dựng đất nước Việt Nam mà để từng hồi “bán nước” cho Tàu, gây
thành đại họa mất nước. Vấn nạn này đã từng được trình bày sống động qua cuốn
DVD Ðại Họa Mất Nước do Ðại Gia Ðình Nguyễn Ngọc Huy thực hiện và phát hành 3
năm trước [2010 ố Xem hình].
Hôm nay, theo dõi
những chuyển biến thời cuộc trong thời gian gần đây Giáo Già xin được ghi nhận
một số sự kiện tiêu biểu CSVN đã bán nước như thế nào, để thấy những nỗ lực
“chống Tàu diệt Việt cộng” cần được đẩy mạnh hơn nữa, khi đại họa mất nước đang
là những thực tế phũ phàng đè nặng đất nước và dân tộc Việt:
1. Cho tới nay,
rất nhiều lần Cộng sản Việt Nam tìm đủ mọi cách để cải chính, nhưng phần lãnh
thổ ở biên giới và lãnh hải bị Trung Cộng lấn chiếm từ thời Tổng Bí Thư Lê Khả
Phiêu không cách gì che giấu được khi nó đã rõ trong 3 văn kiện, gồm:
(1)
“Hiệp
ước biên giới trên đất liền” (30/12/1999);
(2)
“Hiệp
định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước
trong vịnh Bắc Bộ”; và
(3)
“Hiệp
định hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ” (25/12/2000).
Chính người của
CSVN là Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Ðại sứ của CSVN tại Bắc Kinh từ
1974 đến 1989, đã nói như sau:
“Ðánh ta năm 1979
một mặt gạt bỏ sự hàm ơn của ta đối với những giúp đỡ trước đây của nhân dân
Trung Quốc, mặt khác tự phơi bày ý đồ vụ lợi trong sự viện trợ cho ta. Khi
không đạt được thì trở mặt... Năm 1984, Trung Quốc huy động một Trung đoàn với
hỏa lực mạnh liên tục tấn công bắn giết phân đội quân ta đóng giữ cao điểm
1.502 ở huyện Vị Xuyên, cuối cùng chiếm lấy cao điểm ấy làm điểm quan sát từ
xa, nhòm vào nội địa ta. Ở biên giới phía Bắc nước ta từ trước đến nay, dân hai
bên đã có những việc xâm canh, xâm cư, dân ta cũng có một số điểm xâm canh sang
đất Trung Quốc, diện tích không đáng kể, dân Trung Quốc xâm canh, xâm cư sang
nước ta tại rất nhiều điểm, tổng diện tích khá lớn. Trong đàm phán phân định
biên giới, Trung Quốc luôn nêu lên “phân định theo hiện trạng”, tranh luận qua
lại, Trung Quốc luôn nêu “nhân nhượng lẫn nhau vì đại cục(?),cuối cùng Trung
Quốc vẫn ăn hơn thì mới chịu. Thác Bản Giốc vốn của ta nay họ chiếm đứt được
một nửa. Xưa Nguyễn Trãi tiễn cha đến tận ải Nam Quan, trước nay ta vẫn nói đất
nước ta từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, sau đàm phán, biên giới nước ta tụt lùi
xuống mãi đến chợ Tân Thanh, đối diện đã là trụ sở hải quan của Trung Quốc...” (17-03-2010,
Bauxite Việt Nam )
2. Tiếp theo sau
Lê Khả Phiêu, khi ông Nông Ðức Mạnh lên làm Tổng Bí thư liền hai khóa đảng IX
và X (từ 22/04/2001 đến 12/01/2011), ông này, với sự đồng thuận của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã để cho Trung Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù
không có phép của Ủy ban Trung ương đảng và của Quốc hội. Theo tiết lộ
WikiLeaks [ghi nhận được trên Google]: “Vụ Bauxite Tây Nguyên, Nông Ðức Mạnh
nhận 300 triệu USD và Nguyễn Tấn Dũng nhận 150 triệu USD là có thật. Tiết lộ
này cho biết những chuyển ngân cho gia đình Thủ Tướng Nguyền Tấn Dũng chỉ bắt
đầu vào cuối năm 2006 và đến tháng 6 năm 2009 thì tổng số cũng đã lên khoảng
gần 150 triệu đô la. Kể từ cuối năm 2001 đã có những giao dịch chuyển ngân hàng
chục triệu đô la từ Trung Quốc sang các tài khoản của gia đình Tổng Bí Thư Nông
Ðức Mạnh ở Thụy Sĩ và ở Cayman Islands . Vào thời điểm của điện văn này là
tháng 6 năm 2009 thì tổng số đã chuyển ngân lên tới gần 300 triệu đô la...” Ngoài
ra, Radio Chân Trời Mới ngày16/6/2009 cũng nói rằng “Theo nguồn tin cao cấp
từ giới lãnh đạo đảng CSVN vừa được tiết lộ và kiểm chứng qua một số thành viên
ngoại giao đoàn tại Hà Nội thì từ tháng 10/2008, nhà cầm quyền Trung Quốc qua
mạng lưới ngân hàng ngoại vi của họ đã chuyển nạp vào hệ thống kinh doanh của
gia đình Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tổng cộng hơn 150 triệu đô la Mỹ.Phần lớn số
tiền này nằm bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Vẫn
theo nguồn tin mà Radio Chân Trời Mới nhận được thì đây là món tiền để trao đổi
với việc ông Nguyễn Tấn Dũng chấp thuận và tiếp tục đẩy mạnh kế hoạch khai thác
Bô-xít Tây Nguyên tại 2 địa điểm hiện nay là Ðắc Nông và Tân Rai, bất kể các
phản đối từ công luận và thành phần chuyên gia công nghệ, quân sự Việt Nam”
[Xem thêm “Từ Bauxite đến Uranium, tiến trình đô hộ Việt Nam của Trung cộng,
của Mai Thanh Truyết, Trần Minh Xuân, Phan Văn Song, Mekong-Tỵnạn tái bản,
2012].
3.
Rất
nhiều Công ty của Trung Cộng đã được ưu tiên “trúng thầu” nhiều dự án kinh tế
với giá rẻ, chiếm nhiều vị trí chiến lược dọc theo bờ biển và dọc theo biền
giới... Ở những nơi Trung cộng hiện diện Nhà nước CSVN đều để chúng coi như
lãnh địa của chúng, cho thiết lập những làng xóm cho bọn người của chúng cư
trú, xem thường luật pháp Việt Nam ...
4. CSVN cũng cho
Trung cộng xâm nhập lãnh thổ Việt Nam qua kế họach cho thuê rừng dài hạn đến 50
năm, để chúng trọn quyền khai thác, phá rừng và trồng rừng... coi như lãnh thổ
của chúng; đặc biệt là phần lãnh thổ chiến lược dọc theo biên giới...
5. Ðến khi Nguyễn
Phú Trọng nhận chức Tổng Bí thư ngày 19-01-2011 tại Ðại hội đảng khóa XI; chỉ
10 tháng sau, Trọng sang Bắc Kinh ký 6 điểm thỏa hiệp với Tổng Bí thư đảng Cộng
sản Trung Cộng là Hồ Cẩm Ðào gọi là “Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển
Việt-Trung”, để “hợp tác cùng phát triển”. Ðược biết, thỏa hiệp Nguyễn Phú
Trọng ký ở Bắc Kinh ngày 11/10/2011 có điểm quan trọng là:
- Ðiểm
5: “Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến,
dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát
triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít
nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm,
cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai.
Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết
các vấn đề khó khăn hơn.”
Nhưng Trung Cộng
đâu có chủ quyền lãnh hải ở Biển Ðông trong lãnh hải của Việt Nam mà đòi “hợp
tác cùng phát triển”?.
6. Ngang ngược
hơn nữa là giờ đây, Trung Cộng đã gọi đấu thầu Quốc tế ít nhất là 9 lô tìm kiếm
dầu trong vùng “đặc quyền kinh tế” của Việt Nam, hoặc “nằm chồng lên” các lô
tìm kiếm mà chính Việt Nam đã gọi thầu Quốc tế trước Trung Cộng, ở giữa Quần
đảo Trường Sa và bở biển tỉnh Khánh Hòa! Trung Cộng cũng đã và đang khai thác
dầu trong vùng Vịnh Bắc Bộ mặc dầu hai bên chưa ngã ngũ về đường ranh giới chủ
quyền, theo Thỏa hiệp năm 2000, dưới thời Lê Khả Phiêu...
Hôm nay, lại đến
ngày Quốc Hận 30 tháng 4, ngày Cộng sản Bắc Việt hoàn tất cuộc xâm lăng Miền
Nam 38 năm trước (30/4/1975), và đang bán nước cho Tàu cộng, hầu hết mọi nơi ở
hải ngoại đều có tổ chức ngày tưởng niệm ngày tang chung của dân tộc, ngày đau
thương của đất nước, với nhiều nghi thức vinh danh những anh hùng dân tộc đã hy
sinh cho Tổ Quốc Việt Nam; và lên án Cộng sản đã và đang đưa đất nước đến thảm
họa; đã và đang cai trị toàn cỏi Việt Nam bằng độc đảng độc tài; đã và đang đưa
dân tộc vào đại họa Bắc thuộc lần thứ 5.
Hai ngày trước,
đề cặp đến vấn nạn này, ngày 28/4/2013, thông tín viên Hiền Vy, trong một bài
viết được đưa lên đài RFA đã nói rằng: “...38 năm trôi qua, những sự thật về
“chiến thắng”, “giải phóng”, hay “xâm lăng” đã hiện rõ, ai là bên thắng, ai là
bên thua và chính nghĩa ở đâu, đã phơi bày. Kỹ thuật tân tiến về thông tin đã
làm các mặt nạ “giải phóng” rơi xuống. Hiện tình đất nước đổi thay, Việt Nam
đang phát triển hay mất dần vào tay Trung Quốc? Sự thật bi đát đã phơi bày và
chính những người trẻ sống và lớn lên trong chế độ như Việt Khang, Ðoàn văn
Vươn, Nguyễn Ðức Kiên... là những nhân chứng sống hùng hồn cho những ai còn ảo
tưởng về Xã Hội Chủ Nghĩa. Người dân Việt trong nước vẫn tiếp tục hy sinh và
giai cấp độc quyền thống trị chỉ biết có quyền lợi riêng tư đang ngự trị trên
quê hương. Rất nhiều người cho rằng những người cầm quyền không hề quan tâm đến
sự tồn vong của đất nước. Không ít người tự hỏi, phải chăng “nhà nước” đang góp
phần tích cực phục vụ cho âm mưu biến Việt Nam thành một phần của Trung Quốc”.
Tại Pháp, cuộc
biểu tình ngày Quốc Hận cũng đã được tổ chức vào lúc 15 giờ ngày 27/4/2013 tại
Place du Trocadéro [xem bích chương đính kèm]. Tại Frankfurt ngày Quốc Hận cũng
được tổ chức vào ngày Thứ Bảy 27/4/2013 để cùng nhau tố cáo tội ác của tập đoàn
Cộng sản Việt Nam và cùng nhau lên án âm mưu xâm lược của Trung cộng với chương
trình sống động gồm biểu tình trước Tổng Lãnh sự CSVN và trước Tổng Lãnh sự
Trung cộng; sau đó là hội thảo và văn nghệ đấu tranh [xem bích chương đính
kèm].
Tại Hoa Kỳ, các
buổi lễ ở Miền Nam California gồm có:
§ Tưởng niệm Quốc Hận: Thứ Bảy 27/04/2013, từ 5:00g chiều đến 9:00g
tối, tại Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ. Cũng là dịp kỷ niệm “10 Năm thành lập
Tượng Ðài Chiến Sĩ Việt Mỹ”.
§ Ðặt Vòng Hoa; Cầu Nguyện; Niệm Hương; Trao Bằng Tưởng Lệ; Diễn Văn
Ba Thế Hệ; Văn Nghệ Ðấu Tranh...
§ Tưởng Niệm Thuyền Nhân : Chủ Nhật 28/04/2013, từ 1:00PM-4:00PM tại
Tượng Ðài Thuyền Nhân (trong Westminster Memorial Park ).
Ngoài
ra, hội Cựu Sinh Viên Quốc Gia Hành Chánh Nam Cali cũng đã tổ chức buổi “HÁT
CHO QUÊ HƯƠNG ÐANG ÐẤU TRANH CHO DÂN CHỦ” từ 1:45 PM- 5:00PM ngày Chủ Nhật
28-4-2013 tại Hội trường Việt Báo, 14841 Moran St,Westminster, CA 92683.
Ở
Miền Bắc California, ông Nguyễn Phú cũng đã huy động các cuộc biểu tình ngày
Quốc Hận 30 tháng 4 để tố cáo tội ác của Cộng sản Việt Nam trước Lãnh sự
quán của chúng tại San Francisco; và tố cáo hành động xâm lược cướp đảo
Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Ðông của Việt Nam trước Lãnh sự quán Trung cộng
cũng ở San Francisco.
Ngoài ra, Lễ Giỗ
Quân Cán Chánh Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức tại Khu Hội Cựu Tù Nhân Chánh trị
Bắc California , San Jose , vào lúc 4 giờ chiều ngày 27/4/2013 [xem hình đính
kèm và Youtube trên Diễn đàn Việt Vùng Vịnh]. Hôm
sau, sáng Chủ nhật, 28/4/2013, Hội Ái Hữu Người Việt Quận Marin cũng tổ chức Lễ
Tưởng Niệm quốc Hận 30 Tháng Tư tại Hồ Hoài Hương, khu công viên số 3501 Civic
Center Drive thành phố San Rafael, Quận Marin, tiểu bang California, thuộc
hướng bắc Vùng Vịnh, bên cạnh cầu Golden Gate, có hơn 3000 cư dân gốc Việt tại
đây. Bản tin cũng được phổ biến qua Youtube trên Diễn đàn Việt Vùng Vịnh
http://www.vietvungvinh.com
Mặt
khác, song song với hải ngoại, tại quốc nội, ngày 28 tháng 4 năm 2013, Luật sư
Nguyễn Văn Ðài cũng bày tỏ cảm xúc về ngày Quốc Hận 30 tháng 4 trong bài viết
được trích đăng như sau:
SAU 30-4-75
CẢM XÚC NGÀY 30-4
Từ Một Người Sống Giữa Lòng Hà Nội
Luật sư Nguyễn
Văn Ðài [xem hinh]
Hà Nội ngày 28
tháng 4 năm 2013
“Một
quốc gia đã giành được độc lập và thống nhất, mà nhân dân không được hưởng các
quyền tự do, dân chủ, nhân quyền không được tôn trọng, thì người dân của quốc
gia đó đã hy sinh xương máu một cách vô ích để thay thế sự cai trị của giặc
ngoại xâm bằng sự cai trị của giặc nội xâm. Mà giặc nội xâm thì lại tham lam và
gian ác gấp trăm ngàn lần giặc ngoại xâm.”
Mỗi
dịp 30-4 hàng năm, tôi lại nhận được câu hỏi của những người đồng bào Việt Nam
ở hải ngoại là “anh nghĩ và có cảm xúc gì khi sắp tới ngày 30-4?”. Tôi lại có
dịp kể cho họ nghe về suy nghĩ và cảm xúc của mình.
Từ
nhỏ cho đến năm mười chín tuổi, mỗi dịp 30-4 tôi thực sự vui mừng và tự hào bởi
đó là ngày chiến thắng và thống nhất của đất nước. Việt Nam đã chiến thắng
cường quốc số một thế giới về quân sự và kinh tế.
Cuối
năm 1989, tôi có cơ hội được sang CHDC Ðức (cũ) và được chứng kiến người dân
Ðông Ðức lật đổ chế độ cộng sản để thống nhất với chế độ tư bản, dân chủ ở Tây
Ðức. Tôi lại có dịp may mắn được sang Tây Berlin để xem cuộc sống sung túc và
tự do của chế độ tư bản, dân chủ. Và tôi hiểu tại sao người dân Ðông Ðức đã
không cam chịu sống dưới sự cai trị độc đoán, phi lý, lạc hậu của chế độ cộng
sản.
Cùng
thời điểm đó, tất cả người dân các nước Ðông Âu đã vùng lên đập tan sự cai trị
của các chế độ cộng sản. Và họ đã xây dựng lại từ đầu chế độ tư bản, dân chủ.
Cho đến nay, tất cả các nước Ðông Âu, người dân đều có cuộc sống sung túc và
hạnh phúc trong một chế độ chính trị tự do và dân chủ mà không có sự cai trị
của chế độ cộng sản.
Cuối
năm 1990, tôi trở lại Việt Nam, kể từ đó cứ mỗi dịp 30-4, tôi không còn cảm xúc
vui mừng, mà thay vào đó là sự hoài nghi và nuối tiếc.
Năm
2001 và 2003, tôi có dịp được sang thăm Hàn Quốc và thấy đó là một quốc gia
hùng mạnh về kinh tế và quân sự. Ở đó không bao giờ có sự hiện diện và tồn tại
của đảng cộng sản. Trong khi đó, Bắc Triều Tiên dưới sự cai trị độc đoán và tàn
bạo của chế độ cộng sản. Mỗi năm có cả trăm ngàn người chết đói mặc dù họ đã
nhận được sự giúp đỡ to lớn từ Hàn Quốc và cộng đồng quốc tế. Tôi cảm thấy buồn
và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Nhìn
lại Việt Nam chúng ta, sau ngày 30-4-1975, trong chế độ quan liêu bao cấp, ngăn
sông cấm chợ, nhân dân phải chịu đói khổ, lầm than. Khi tiến hành công cuộc đổi
mới, kinh tế có phát triển, đời sống người dân khấm khá hơn, đủ ăn, đủ mặc, có
được phương tiện sinh hoạt và đi lại hiện đại. Nhưng tham nhũng đã trở thành
quốc nạn, thành giặc nội xâm của dân tộc. Sự suy thoái đạo đức và lối sống diễn
ra một cách toàn diện, trên mọi phương diện của đời sống xã hội từ giáo dục, y
tế, ngành tư pháp, cơ quan hành chính,... và trên mọi cấp độ từ trung ương đến
địa phương.
Nhiều
người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh doanh nghiệp, quan chức chính
quyền, các lực lượng vũ trang và xã hội đen hợp sức với nhau để cưỡng chế người
nông dân lấy đi tư liệu sản xuất quan trọng nhất của họ là ruộng đất. Biết bao
người dân vô tội khi bước vào đồn công an thì khỏe mạnh, nhưng chỉ ít giờ sau,
họ chỉ còn là một cái xác không hồn. Và còn biết bao nhiêu những người dũng cảm
đứng lên đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ và sự toàn ven lãnh thổ quốc gia đã
bị sách nhiễu, đánh đập, và bị cầm tù. Thật sự đau lòng và xót xa.
Giờ
đây, mọi người lại hỏi tôi “anh nghĩ và có cảm xúc như thế nào về ngày 30-4?”
Tôi
trả lời: “Một chế độ dân chủ và văn minh đã thua một chế độ độc đảng toàn trị
và lạc hậu. Cái ác đã chiến thắng.”
Còn
cảm xúc thì buồn và nuối tiếc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, bởi tôi và rất
nhiều người đều cho rằng nếu ngày 30-4-1975, bên chiến thắng là Việt Nam Cộng
Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật
Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và
quân sự.
Có một vấn đề
Luật sư Nguyễn Văn Ðài không đề cặp tới. Ðó là “nếu ngày 30-4-1975, bên
chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây...” Cộng sản Việt Nam đâu có
từng bước bán nước cho Tàu; và Ðại Họa Mất Nước không là đại họa của đất nước
và dân tộc Việt Nam .
Hẹn con thư sau,
Giáo Già
[1]
Tăng Sâm: Người thời Xuân Thu, tính chất chân thật và có hiếu, học
trò đức Khổng Tử và mau truyền được đạo của Ngài.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment