NGUYÊN NHÂN XA GẦN VÀ
HẬU QUẢ CỦA CHẾ ĐỘ DIỆT CHỦNG CỘNG SẢN
Tổng
thống Hoa Kỳ Ronald Regean, vào cuối thập niên 80, khi các dân tộc Nga và Đông
Âu đứng lên lật đổ chế độ độc tài toàn trị, diệt chủng cộng sản, có nói :
« Lịch sử nhân loại có nhiều trang sử đau thương và đẫm máu. Nhưng chưa
có trang sử nào đau thương và đẫm máu bằng trang sử cộng sản. Dân tộc Nga và
các dân tộc Đông Âu đã can đảm đứng lên lật qua trang sử đau thương của mình,
để viết lên những trang sử mới.
Các dân tộc khác còn dưới chế độ cộng sản, hãy
can đảm đứng lên lật qua những trang sử cộng sản, để viết lên những trang sử
tốt đẹp cho tương lai, trang sử của tinh thần quốc gia, dân tộc, tự do, dân chủ
và nhân quyền. » Từ đó, có người cho rằng chế độ cộng sản là chế độ tàn
hại nhất của nhân loại nói chung và của Việt Nam nói riêng. Có phải thế không.
Chúng ta hãy cùng nhau xem xét nguyên nhân và hậu quả của nó.
I)
Hậu quả giết người, diệt chủng, tàn hại văn hóa và văn minh của chế độ cộng
sản.
Ngày
hôm nay, hậu quả giết người, diệt chủng, tàn phá văn hóa, văn minh của chế độ
cộng sản không những những người không cộng sản nhìn thấy, mà cả những người
cộng sản sáng suốt, chân thật. Ông Robert Hue, cựu Tổng Bí thư đảng Cộng sản
Pháp, hiện vẫn là cộng sản, trong quyển sách « Chủ Nghĩa Cộng Sản :
Sự Đột Biến Mới », có viết : « Chủ nghĩa Staline đầu tiên và
chắc chắn là một thảm họa của nhân loại : cả triệu nạn nhân, sự khủng
khiếp của những trại tập trung, tính cách rừng rú, man rợ của những cái gọi là
tòa án ; quả là một chế độ giết người. » ( Communisme : la
Mutation – trang 97 – Ed Stock – Paris).
Thật
vậy, theo Stéphane Courtois và một số sử gia Pháp, tác giả quyển Cuốn Sách Đen
về Chủ nghĩa Cộng sản ( le Livre noire du Communisme), thì nạn nhân của chủ
nghĩa này lên đến cả trăm triệu người. Theo bản Nghị Quyết 1481 của Hội Đồng Âu
Châu gồm 46 nước ngoại trừ Bìélorussie, đuợc biểu quyết với 99 phiếu thuận và
42 phiếu chống, kết án chế độ cộng sản là một chế độ diệt chủng, nạn nhân của
chế độ này trên toàn thế giới là : Liên sô, 20 triệu ngưới ; Trung
cộng, 65 triệu ; Việt Nam, 1 triệu ; Bắc Hàn, 2 triệu ; Căm bốt,
2 triệu ; Đông Âu, 1 triệu ; Châu Mỹ La tinh, 150 000 ; Phi
châu, 1,7 triệu ; A Phú Hãn, 1,5 triệu.
Con
số này so với thực tế còn là ít. Chỉ riêng Việt Nam, con số thực tế phải gấp ba
bốn lần. Đối với Trung Cộng, gần đây bà Chang Jung và nhà sử học John Halliday
có xuất bản quyển Mao trach Đông, nói về cuộc đời của ông này, thì số nạn nhân
của họ Mao phải kể ít nhất là 70 triệu người.
Nhưng
có người hỏi : Tại sao như vậy ? Nguyên do tại đâu ?
I
I) Nguyên nhân của chế độ giết người cộng sản
Có
người nói nguyên nhân của chế độ diệt chủng cộng sản chỉ bắt đầu từ Staline và
các con cháu sau này. Có người cho rằng nguyên nhân xâu xa của chế độ này bắt
đầu từ K. Marx, qua tới Lénine, Staline và những lãnh đạo cộng sản sau này như
Mao trạch Đông, Hồ chí Minh.
Thật
vậy, hành động thường được hướng dẫn bởi tư tưởng, nhất là những hành động lâu
dài và chủ ý. Những hành động, kế hoặch giết người cộng sản chính là bị hướng
dẫn bởi tư tưởng của Marx, mặc dầu ông không chủ trương giết người ; nhưng
vô tình hậu quả tư tưởng của ông đã trở nên giết người.
Tư
tưởng của Marx giết người ở chỗ quan niệm rằng lịch sử là lịch sử của bạo động
và của đấu tranh giai cấp.
Trong
Kinh Thánh có câu : « Nó tự ru ngủ bằng những lý luận đơn giản, sai
lầm và ảo tưởng. Nó tự khoác vào người nó một bộ áo đạo đức giả ; nhưng
bản chất chính thật của nó là lưu manh, lừa đảo, giết người. Nó đã hạ thấp hình
ảnh cao thượng của con người xuống hàng bò sát và rắn rết. » Câu này đã
được viết cả bao ngàn năm, nhưng nay suy ngẫm cho lý thuyết của Marx và những
người cộng sản, thì vẫn còn đúng.
Trong
khuôn khổ bài này, tôi không thể đi xâu vào việc phê bình lý thuyết của Marx,
xin mời quí Vị coi những bài của tôi trên những báo Việt ngữ hải ngoại như
những bài Phê bình Marx trên phương diện triết học, Sự hồ đồ của Parx trên
phương diện khoa học theo K. Popper, Sự không tưởng của lý thuyết Marx. Tuy
nhiên tôi có thể nói một cách ngắn gọn tổng quát là nếu chúng ta suy ngẫm lý
thuyết cũng như việc làm của từ K. Marx cho tới những giới lãnh đạo cộng sản,
thì chúng ta thấy họ là những người nói một đằng làm một nẻo, việc làm không
bao giờ đi đôi với lời nói. Chúng ta bắt đầu bằng K. Marx.
Chính ông nói lý
thuyết của ông thực tiễn, không không tưởng, phương pháp của ông thực tiễn, đi
từ cái gì thực tiễn, đơn giản, đến cái gì phức tạp, trừu tượng. Thực tế không
phải vậy. Chính ông mới đi từ cái gì thiếu thực tiễn, không tưởng, ông đi từ
một lời tiên tri, tiên tri rằng nhân loại sẽ đi tới thế giới cộng sản, thế giới
đại đồng, làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu. Từ đó, ông đã dồn hết nỗ
lực, sức học và nghiên cứu của mình để biện minh cho ý tưởng không tưởng trên
bằng cách bóp méo lịch sử, bẻ cong kinh tế, vặn vẹo xã hội học. Một cách đơn
giản chúng ta bắt đầu bằng lịch sử và kinh tế.
Về
lịch sử Marx viết lịch sử là lịch sử bạo động và đấu tranh giai cấp.
Chúng
ta không cần đi đâu xa, một cách cụ thể và thực tiễn, chúng ta bắt đầu bằng
lịch sử của chính chúng ta, của những người chung quanh chúng ta, rồi đến lịch
sử của các dân tộc, của con người nói chung. Chúng ta tự ngẫm chúng ta sinh ra
đâu phải là những người thích bạo động, chúng ta thích hòa bình và yên thân
hơn, ngay cả lịch sử của những dân tộc cũng vậy, thời gian hòa bình dài hơn là
thời gian chiến tranh, bất đắc dĩ mới phải chiến tranh. Nguyên điểm này chúng
ta đã thấy lý thuyết của Marx không thực tiễn.
Hơn thế nữa Marx cho rằng lịch
sử của nhân loại là lịch của đấu tranh giai cấp và giản tiện hóa chia xã hội
thành 2 giai cấp, lấy tiêu chuẩn kinh tế để định, đó là giai cấp nắm phương
tiện sản xuất kinh tế và giai cấp không có phương tiện sản xuất. Nếu thực tế,
thực tiễn mà quan sát, thì xã hội chia ra nhiều giai tầng khác nhau, chứ không
phải 2 giai cấp, và không phải chỉ có yếu tố kinh tế quyết định.
Giai tầng trí
thức đâu có phương tiện sản xuất, Những nhà tư tưởng, triết gia, những nhà đạo
đức đâu có giầu có, nhưng họ có ảnh hưởng rất mạnh trong xã hội. Lý thuyết của
Marx không những không thực tế, thực tiễn, mà còn đơn giản hóa mọi vấn đề, rồi
đưa lên thành định luật, cho đó là khoa học, nhưng chẳng koa học một chút nào.
Về
kinh tế, chúng ta cũng chẳng cần lý luận dài dòng, chúng ta chỉ lấy chủ trương
của Marx bãi bỏ quyền tư hữu để ròi suy luận. Marx viết trong Tuyên Ngôn thư
Đảng Cộng Sản : « Người cộng sản có thể tóm lược lý thuyết của mình
trong một câu duy nhất : Bãi bỏ quyền tư hữu. » ( Sách đã dẫn – trang
36) Đây mới là một quan niệm thiếu thực tế, thực tiễn và vô cùng ảo tưởng.
Không cần nói dài dòng, chúng ta chỉ cần nhìn thực tế tại các nước cộng sản,
cảnh cha chung không ai khóc, ruộng chung không ai cày và nhà chung không người
chăm sóc, thì chúng ta cũng rõ.
Hơn thế nữa, Marx đã lầm ở chỗ cho rằng quyền
tư hữu có thể bãi bõ, nhưng quyền tư hữu không thể bãi bỏ, mà chỉ có thể chuyển
nhượng. Quyền tư hữu đang ở trong tay của toàn dân, nay một số cán bộ cộng sản,
lợi dụng thời cơ, cướp chính quyền như Lénine, Mao, Hồ, rồi áp dụng lý thuyết
của Marx, thực hiện những cuộc đánh tư bản mại sản, bảo rằng bãi bỏ quyền tư
hữu, nhưng thực tế không phải là vậy, mà đã chuyển nhượng quyền tư hữu từ toàn
dân, vào tay một thiểu số đảng đoàn cán bộ.
Dân đùng một lúc trở thành vô sản,
đúng theo danh từ của Marx đã dùng, và các ông cán bộ đùng một cái trở thành
những ông tư bản thật giàu có. Hố ngăn cách giàu nghèo giữa toàn dân và các ông
tư bản đỏ thật to lớn. Ở điểm này quan niệm cách mạng tất yêu của Marx lại
đúng, nhưng không đúng với các nước tư bản, mà lại đúng với những nước cộng
sản. Xin quí Vị xem thêm bài của tôi Cách Mạng tất yếu không xảy ra tại các
nước tư bản, mà cách mạng tất yếu đã xẩy ra và còn xẩy ra ở những nước cộng
sản.
Lý
thuyết của Marx chỉ là một lý thuyết đơn giản, sai lầm và ảo tửơng. Lý thuyết
đơn giản, sai lầm và ảo tưởng này lại bị một số người bản chất là lưu manh, lừa
đảo, quỷ quyết, giết người dùng nó như tấm bình phong để che dấu bản chất thật
của mình. Nhưng rồi sự thật vẫn là sự thật. Những hành động dã man giết người
của những chế độ cộng sản từ từ được người dân biết đến và được phơi bày ra ánh
sáng.
Chính vì vậy mà có nghị quyết 1481 của Hội Đồng Âu châu lên án chế độ
cộng sản là một chế độ diệt chủng. Chúng ta nên nhớ trong 46 nước Âu châu,
ngoại trừ Bìlorussie, các nước kết án chế độ cộng sản nhất, chính là những nước
cộng sản cũ. Gần đây, Hung Gia Lơi có kỷ niệm trọng thể ngày 50 dân Hung nổi
lên chống chế độ cộng sản vào năm 1956, có mời 5 vị nguyên thủ của những nước
trước đây là cộng sản, không những vị lãnh đạo, mà cả báo chí cũng như dân qua
những cuộc thăm dò ý kiến thì phần lớn đều cho rằng kinh nghiệm cộng sản là kinh
nghiệm đau thương và đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc họ.
Nguyên
nhân xâu xa của những trang sử cộng sản đau thuơng và đẫm máu là lý thuyết của
Marx. Nguyên nhân gần đó là lý thuyết đơn giản, sai lầm và ảo tưởng này đã bị
một số ngừơi có quá nhiều lòng hận thù như Lénine, Mao và Hồ áp dụng, rồi sau
đó được tiếp tục bởi những người con cháu, vừa hận thù, vừa vô học, một loài
quỉ, tiếp tục. Nói như ông Lê xuân Tá, cựu cán bột cộng sản, cựu phó Trưởng ban
Khoa học và kỹ thuật Trung ương đảng :
«
Sự ngu dốt và thấp hèn tự nó không đáng trách và không làm nên tội ác. Nhưng
nếu nó được trao quyền lực và được cấy vào vi trùng ghen tỵ, thì nó trở thành
quỉ nhập tràng. Và nó ý thức rất mau là cái đe dọa quyền và lợi của nó chính là
sự hiểu biết, văn hóa và văn minh ; nên nó đã đánh những thứ này tàn bạo,
dã man, không thương tiếc.
Nhưng cũng vì là ngu dốt và thấp hèn, nên những thứ
này lâu ngày đã trở thành sọi mật, sạn thận, sơ gan cở chướng trong ngục phủ
ngũ tạng trong lòng chế độ, làm cho chế độ này không ai đánh mà tự chết. »
Thật
vậy, những chế độ cộng sản còn lại ở Tàu, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu Ba sớm muộn
sẽ sụp đổ, điều nàu này ai cũng thấy. Nhưng những dân tộc đó hãy can đảm đứng
lên đấu tranh, làm thế nào cho nó sụp đổ càng sớm càng tốt, để những cảnh đau
thương do những con quỉ lãnh đạo gây ra, sớm chấm dứt.
Paris
ngày 17 /7/2006
Chu
chi Nam
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment