Các bức ảnh đầu tiên của người Pháp ở Việt Nam
Sĩ phu Bắc kỳ (Lettrés annamites) ảnh của bác sĩ quân y
Charles-Édouard Hocquard. Tonkin 1883-1886. Nguồn : Thư viện Quốc gia Pháp
(Bibliothèque Nationale de France)
Kể từ ngày 20 tháng Ba
cho đến 20 tháng Năm năm 2014, Viện Lưu trữ Quốc Gia (Archives
Nationales) tổ chức cuộc triển lãm với tựa đề ‘‘Quan hệ Việt-Pháp qua bốn thế kỷ’’. Sau
khi được trưng bày ở Hà Nội và Sài Gòn, nay
cuộc triển lãm được đưa sang Paris, trong
khuôn khổ chương trình Năm Việt Nam tại Pháp.
Cuộc triển lãm miễn
phí của Viện Lưu trữ Quốc Gia Pháp với sự bảo trợ của Viện hàn lâm Khoa học
Hải ngoại Pháp gồm hai phần : phần đầu là các đoạn video thu hình từ những tấm panneaux từng được trưng bày ở Hà Nội và Viện bảo tàng Mỹ thuật ở Sài Gòn. Phần thứ nhì có thể được xem như bổ sung cho phần đầu, gồm 150 bức ảnh chụp của những người Pháp từng đặt chân đến Việt Nam vào thế kỷ XIX.
Các nhà ‘‘nhiếp ảnh’’ Pháp, tiêu biểu nhất là Emile Gsell
(1838-1879), Gustave Ernest Trumelet-Faber (1852-1916), Charles-Edouard Hocquard
(1853-1911), Aurélien Pestel (1855-1897), Firmin-André Salles (1860-1929),
Pierre Dieulefils (1862-1937) … đã thu vào ống kính những hình ảnh về Việt Nam dưới nhiều góc độ : danh lam thắng cảnh, nếp sống sinh hoạt, văn hóa xã hội, đất nước con người.
Chị Loan de Fontbrune
là chuyên gia đặc trách việc tổ chức và điều hành cuộc triển lãm tại Paris. Chị đã từng làm việc với hai viện bảo tàng châu Á nổi tiếng của Paris là bảo tàng Guimet và bảo tàng Cernuschi. Lần này, chị có nhiệm vụ tuyển lựa 150 tấm ảnh chụp trong số hàng ngàn bức ảnh đầu tiên mà người Pháp đã thực hiện tại Việt Nam. Chị Loan de Fontbrune
là khách mời của chương trình văn hóa
hàng tuần của ban Việt ngữ RFI.
***
Các thông tin liên quan đến các cuộc triển lãm :
‘‘Quan hệ Việt-Pháp qua bốn thế kỷ’’ : Centre d’accueil et de recherche des
Archives nationales - CARAN, 11 rue des Quatre-Fils 75003 Paris, từ 20/03 đến 20/05/2014. Vào cửa miễn phí từ 10 giờ đến 17giờ 30, ngoại trừ thứ Bảy và Chủ Nhật.
Triển lãm "Objectif Vietnam",
ảnh chụp Việt Nam vào thế kỷ XX của trường Viễn Đông Bác Cổ tại viện bảo tàng Cernuschi, 7
avenue Velasquez 75008 Paris, từ 14/03 đến 29/06/2014
Hội thảo quốc tế "De l'Indochine
coloniale au viet Nam actuel" (Từ thuộc địa Đông Dương đến Việt Nam hiện thời) với sự tham gia của các trường đại học Paris IV, Lyon
III và dậi học Nantes, từ 20/03 đến 22/03/2014.
Việt
Nam giữa ý thức hệ
và chủ nghĩa quốc gia
Tuần
hành tưởng niệm 40 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm tại vườn hoa Lý Thái
Tổ, Hà Nội, tháng 1 năm 2014.
Trong bài “Trận chiến chính trong thế kỷ 21”,
tôi nêu lên một số luận điểm của các học giả Tây phương: Tất cả đều cho yếu tố
chính làm phân hóa thế giới và dẫn đến các cuộc chiến tranh, lạnh hay nóng,
khốc liệt trong thế kỷ 20 đã thuộc về dĩ vãng là ý thức hệ. Rộng hơn cả chính
trị, trong toàn bộ lãnh vực nghiên cứu nhân văn hay khoa học xã hội hiện nay,
hầu như không ai nhắc đến ý thức hệ nữa.
Trước, các lý thuyết gia cho ý thức hệ
là một thứ đại tự sự hoặc siêu tự sự (grand narrative / metanarrative) và thời
đại của các siêu tự sự ấy đã qua và được thay thế bằng các tiểu tự sự. Sau,
nhiều người cho cả lý thuyết nói chung, vốn là kết tinh của các siêu tự sự ấy
cũng mất dần sức quyến rũ: Nhiều người gọi thời đại chúng ta đang sống hiện nay
là thời đại hậu-lý thuyết (posttheory).
Ở đây, Việt Nam là một ngoại lệ. Trên các diễn đàn chính thức và chính thống ở trong nước, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định là mâu thuẫn chính hiện nay vẫn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, là Việt Nam và Trung Quốc vẫn là hai nước đồng chí anh em trong khối xã hội chủ nghĩa, là Việt Nam vẫn cương quyết đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù, theo lời thú nhận của Nguyễn Phú Trọng gần đây, có khi đến tận cuối thế kỷ 21, vẫn chưa thực hiện được!
Ở đây, Việt Nam là một ngoại lệ. Trên các diễn đàn chính thức và chính thống ở trong nước, giới lãnh đạo Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định là mâu thuẫn chính hiện nay vẫn là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, là Việt Nam và Trung Quốc vẫn là hai nước đồng chí anh em trong khối xã hội chủ nghĩa, là Việt Nam vẫn cương quyết đi theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù, theo lời thú nhận của Nguyễn Phú Trọng gần đây, có khi đến tận cuối thế kỷ 21, vẫn chưa thực hiện được!
Những quan niệm như vậy không những lạc hậu mà
còn là một ảo tưởng, một ảo tưởng lạc hậu của những kẻ lú. Trên blog này, ở một
số bài, tôi có nhắc đến một ý kiến của Benedict Anderson, trong cuốn Imagined
Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism (1983): Ông
cho, với cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia năm 1978 và chiến tranh
giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 1979, chủ nghĩa quốc gia đã thay thế vai trò
của ý thức hệ chính trị trong việc quyết định các quan hệ quốc tế giữa nước này
và nước khác.
Việc thay thế ấy càng hiển nhiên hơn nữa sau năm 1991, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ hoàn toàn ở Liên Xô và Đông Âu. Từ đó, chính chủ nghĩa quốc gia chứ không phải là ý thức hệ chi phối (a) toàn bộ các quyết định tách rời hay gộp chung các biên giới chung quanh mỗi nước; (b) xác định ai là công dân và ai không phải là công dân; (c) khẳng định ngôn ngữ nào là ngôn ngữ quốc gia; và cuối cùng, (d), khẳng định các quyền dành cho người dân thiểu số. Tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột ở Trung Âu và Đông Âu sau năm 1991 đều gắn liền với chủ nghĩa quốc gia.
Việc thay thế ấy càng hiển nhiên hơn nữa sau năm 1991, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị sụp đổ hoàn toàn ở Liên Xô và Đông Âu. Từ đó, chính chủ nghĩa quốc gia chứ không phải là ý thức hệ chi phối (a) toàn bộ các quyết định tách rời hay gộp chung các biên giới chung quanh mỗi nước; (b) xác định ai là công dân và ai không phải là công dân; (c) khẳng định ngôn ngữ nào là ngôn ngữ quốc gia; và cuối cùng, (d), khẳng định các quyền dành cho người dân thiểu số. Tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột ở Trung Âu và Đông Âu sau năm 1991 đều gắn liền với chủ nghĩa quốc gia.
Ở châu Á, văn hóa hay văn minh - nói theo chữ của
Samuel P. Huntington - cũng không phải là yếu tố gây đoàn kết hay chia rẽ trên
bàn cờ chính trị khu vực. Những tranh chấp về lãnh thổ, đặc biệt là lãnh hải
giữa Trung Quốc với Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản, hay ngay cả với Philippines
thời gian gần đây là một minh chứng: Trên lý thuyết, theo cách phân chia của
Huntington trong cuốn The Clash of Civilizations and the Remaking of World
Order, Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam đều có chung một nền văn minh, nền văn
minh dựa trên Khổng giáo. Giữa Trung Quốc và Nhật Bản cũng có rất nhiều điểm
chung. Ngay cả giữa Trung Quốc và Philippines, nhữngđiểm chung cũng không ít:
Mặc dù Philippines chịu nhiều ảnh hưởng của Tây phương, từ Tây Ban Nha đến Mỹ,
ở đó Thiên Chúa giáo đóng vai trò chủ đạo, nhưng vốn là một quốc gia đa sắc
tộc, một phần không nhỏ của Philippines có gốc rễ từ Trung Hoa và cùng với họ,
ảnh hưởng của Khổng giáo.
Vậy mà họ vẫn hục hặc với nhau. Ấn Độ và
Pakistan cùng chia sẻ với nhau, hoặc toàn bộ hoặc một phần, văn minh Hồi
giáo, nhưng họ vẫn đánh nhau.
Có thể nói, ở châu Á, đặc biệt ở Đông Á và Đông Nam Á, trong khi vai trò của ý thức hệ đã thuộc về quá khứ, vai trò của “văn minh” vẫn chưa nổi lên và chưa có ý nghĩa gì đáng kể, mối quan hệ quốc tế giữa các nước vẫn bị chi phối một cách mạnh mẽ bởi tinh thần quốc gia: Nước nào cũng muốn khẳng định bản sắc của mình dựa trên lịch sử và nước nào cũng nhắm đến mục tiêu có lợi cho chính mình; ở nước nào chính phủ cũng giương cao ngọn cờ quốc gia chủ nghĩa để tập hợp quần chúng và tạo thành sức mạnh.
Chỉ có ở Việt Nam là khác.
Có thể nói, ở châu Á, đặc biệt ở Đông Á và Đông Nam Á, trong khi vai trò của ý thức hệ đã thuộc về quá khứ, vai trò của “văn minh” vẫn chưa nổi lên và chưa có ý nghĩa gì đáng kể, mối quan hệ quốc tế giữa các nước vẫn bị chi phối một cách mạnh mẽ bởi tinh thần quốc gia: Nước nào cũng muốn khẳng định bản sắc của mình dựa trên lịch sử và nước nào cũng nhắm đến mục tiêu có lợi cho chính mình; ở nước nào chính phủ cũng giương cao ngọn cờ quốc gia chủ nghĩa để tập hợp quần chúng và tạo thành sức mạnh.
Chỉ có ở Việt Nam là khác.
Trong hơn một thập niên vừa qua, không phải
chính phủ mà là những người đối lập hoặc độc lập với chính phủ mới là những kẻ
hô to khẩu hiệu quốc gia nhiều nhất. Không phải chính phủ mà là những người ly
khai hay các nhà báo và các blogger bị chính phủ cấm đoán hay trấn áp mới là
những người hay bàn đến vấn đề độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nhất.
Không phải chính phủ mà những người dân thấp cổ bé miệng đứng ra tổ chức các
cuộc xuống đường biểu tình để, nhân danh chủ nghĩa quốc gia, chống lại âm mưu
bành trướng của Trung Quốc.
Nói một cách tóm tắt, ở Việt Nam hiện nay, có hai xu hướng đối lập nhau: nhà cầm quyền thì đề cao ý thức hệ, tiếp tục nhìn thế giới qua lăng kính ý thức hệ xưa cũ, trong khi đó, dân chúng, hoặc ít nhất một bộ phận càng lúc càng lớn của dân chúng, lại đề cao chủ nghĩa quốc gia, xem chủ nghĩa quốc gia như một lý tưởng để tranh đấu, trước hết, chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.
Nói một cách tóm tắt, ở Việt Nam hiện nay, có hai xu hướng đối lập nhau: nhà cầm quyền thì đề cao ý thức hệ, tiếp tục nhìn thế giới qua lăng kính ý thức hệ xưa cũ, trong khi đó, dân chúng, hoặc ít nhất một bộ phận càng lúc càng lớn của dân chúng, lại đề cao chủ nghĩa quốc gia, xem chủ nghĩa quốc gia như một lý tưởng để tranh đấu, trước hết, chống lại chủ nghĩa bá quyền của Trung Quốc.
Tính chất đối lập ấy có thể được nhìn thấy rõ
qua các cuộc biểu tình chống Trung Quốc trong gần một thập niên vừa qua: Trong
khi dân chúng xuống đường biểu tình chống Trung Quốc thì công an, theo lệnh của
nhà nước, lại trấn áp một cách tàn bạo. Không những trấn áp trong các cuộc biểu
tình với những dùi cui, cùi chõ và đế giày mà còn trấn áp sau các cuộc biểu
tình với những sự vu khống và những bản án thô bỉ căn cứ vào tội danh “trốn
thuế” hay “hai cái bao cao su đã qua sử dụng”.
Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại cứ khăng khăng bám víu vào cái ý thức hệ cũ kỹ như vậy để nhắm mắt trước nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc và sẵn sàng đạp vào mặt dân chúng như vậy?
Lý do tương đối dễ hiểu: Họ sợ Trung Quốc hơn sợ dân.
Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại cứ khăng khăng bám víu vào cái ý thức hệ cũ kỹ như vậy để nhắm mắt trước nguy cơ lấn chiếm của Trung Quốc và sẵn sàng đạp vào mặt dân chúng như vậy?
Lý do tương đối dễ hiểu: Họ sợ Trung Quốc hơn sợ dân.
Một số nhà báo nhiệt tình ở trong nước hy vọng
một ngày nào đó họ có thể làm thức tỉnh giới lãnh đạo để giới lãnh đạo nhận
thức được tính chất trầm trọng của nguy cơ bị Hán hóa, từ đó, biết sử dụng ngọn
cờ quốc gia chủ nghĩa để đoàn kết mọi người, hình thành một trận tuyến chung
bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia.
Tôi không tin và cũng không mong chuyện ấy xảy ra sớm. Tôi biết nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay sẽ không bao giờ công khai lên tiếng chống Trung Quốc cho đến khi nào họ đối diện với nguy cơ bị dân chúng Việt Nam lật đổ. Tất cả các nhà độc tài đều biết cách sử dụng chiến tranh, nhất là chiến tranh chống ngoại xâm, dù một cách vờ vĩnh, để đoàn kết dân chúng và để có cớ trấn áp những người đối lập một cách có… chính nghĩa (nhân danh an ninh quốc gia!)
Tôi không tin và cũng không mong chuyện ấy xảy ra sớm. Tôi biết nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay sẽ không bao giờ công khai lên tiếng chống Trung Quốc cho đến khi nào họ đối diện với nguy cơ bị dân chúng Việt Nam lật đổ. Tất cả các nhà độc tài đều biết cách sử dụng chiến tranh, nhất là chiến tranh chống ngoại xâm, dù một cách vờ vĩnh, để đoàn kết dân chúng và để có cớ trấn áp những người đối lập một cách có… chính nghĩa (nhân danh an ninh quốc gia!)
Trong tương lai, khi nhà
cầm quyền Việt Nam mạnh bạo lên tiếng chống Trung Quốc, tôi không
biết họ có chống được hay không; tôi chỉ biết chắc một điều: Họa độc tài sẽ kéo
dài thêm một thời gian nữa.
Nguyễn Hưng Quốc
Song Chi – Chuyện một chiếc máy bay
mất tích và sinh mạng con người ở VN!
Báo chí trong nước và quốc tế mấy ngày nay liên tục đưa tin về vụ mất tích bí ẩn của chiếc máy bay Boeing
777-200 số hiệu MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines, cất cánh rời Kuala Lumpur vào lúc 0h41 ngày
8.3 (giờ địa phương) và dự kiến tới Bắc Kinh khoảng 6h30 cùng ngày. Một cuộc tìm kiếm quy mô với đủ loại máy bay, tàu cứu hộ của 10 quốc gia khác nhau được triển khai, nhưng cho đến hôm nay vẫn chưa tìm ra nguyên nhân cũng như bất cứ dấu hiệu nào của chiếc máy bay mất tích.
Trong vụ này, nhà nước VN đã tỏ ra rất tích cực. VN huy động 10 máy bay các loại, 8 tàu hải quân, cảnh sát biển, kiểm ngư, chưa kể trực thăng, thủy phi cơ…, với sự tham gia của các bộ phận khác nhau từ lực lượng hải quân, Quân chủng Phòng không-Không quân, Cục Hàng không VN, Văn phòng Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn, lực lượng QĐND Việt Nam…, sự có mặt của hàng chục ông tướng tá, thứ trưởng, chuẩn đô đốc, chính ủy…, lập Sở chỉ huy trực tiếp chỉ đạo cuộc tìm kiếm ngay tại Phú Quốc v.v…
Vẫn biết VN phải có trách nhiệm chia sẻ việc tìm kiếm với các nước láng giềng, nhất là khi chiếc máy bay được cho là đã mất tích trong không phận, hải phận VN. Vẫn biết trước những sự việc như thế này, mỗi hành động tích cực hay không của VN đều có nước khác nhìn vào. Nhưng là người VN, chứng kiến sự nhiệt tình, không tiếc công tiếc sức, huy động lực lượng tối đa của nhà cầm quyền trong chuyện này, rồi nhìn lại mới đây, ngày 8.3, một tàu cá của ngư dân VN lại bị “tàu lạ” (hai chữ “tàu lạ” hèn hạ quen dùng) tấn công, khống chế, cướp tài sản vì không được bất cứ lực lượng nào bảo vệ khi ra khơi mà chạnh lòng.
Và đây không phải lần đầu tiên. Từ nhiều năm qua, khi sự tranh chấp biển, đảo giữa TQ và các nước láng giềng, đáng nói nhất là VN, trở nên căng thẳng, khi TQ ngày càng hung hăng trên biển Đông, thì việc ngư dân VN bị tàu TQ rượt đuổi, bắn hỏng tàu, cướp ngư cụ, hải sản, bị đánh đập, bị bắt cóc đòi tiền chuộc…cũng thường xuyên diễn ra.
Phải nói thẳng, TQ trong lời nói thì như một ông chủ lớn, tự cho vùng biển này là hoàn
toàn thuộc về họ, còn khi đụng độ trên biển, đối với những ngư dân Việt tay không tất sắt, họ đã hành xử như một bọn cướp biển!
Trong tất cả những lần như vậy, có mấy khi ngư dân được các lực lượng hải quân, cảnh sát biển, tàu chiến VN hỗ trợ, hoặc cứu hộ? Hay như bài báo trên
Thanh Niên “Ngư dân phải tự thuê tàu đi cứu nạn?”. Hay khi chuyện xảy ra, ngư dân một mặt phải gánh chịu tổn thất nặng nề, nợ nần chồng chất, mặt khác, cứ việc báo cáo, cầu cứu lên các cấp chính quyền, nhưng mọi chuyện vẫn cứ để đó, rồi lần sau ngư dân lại tiếp tục ra khơi trong tâm trạng bất an, sợ hãi?
Những câu chuyện về ngư dân VN chỉ là một trong vô số ví dụ cho thấy nhà cầm quyền không thực sự biết quý trọng con người, quý trọng sinh mạng nhân dân. Hàng ngày hàng giờ, trên khắp mọi lĩnh vực, mọi miền đất nước, chúng ta đều có thể nghe, xem, đọc, hoặc tận mắt chứng kiến, hoặc từ trải nghiệm của chính bản thân, về tình trạng tính mạng người VN đang bị rẻ rúng như thế nào.
Nếu nói đến tai nạn máy bay, sự tổn thất về sinh mạng thường rất lớn vì trên mỗi chuyến bay thường có vài trăm hành khách trở lên chưa kể phi hành đoàn, và khi xảy ra chuyện gì, việc có người sống sót rất hy hữu. Nhưng cứ thử so sánh với tai nạn giao thông đường bộ ở VN, mỗi năm có bao nhiêu người chết? Con số dao động từ 10,000-13,000 người. Thật kinh khủng! Trong đó ngoài nguyên nhân chủ quan do ý thức chấp hành luật lệ giao thông của người dân còn kém, đi sai luật, phóng nhanh phóng ẩu, có bao nhiêu
phần trăm do những nguyên nhân bên ngoài như mật độ xe cộ giao thông trên đường quá đông, chất lượng đường xá quá tệ hại v.v…?
Vậy nhưng nhà nước đã làm gì để giảm thiểu tai nạn giao thông trong những năm qua?
Các thành phố lớn nhất nước như Hà Nội, Sài Gòn với dân số từ 5,6-10 triệu người mà vẫn cứ xe gắn máy chạy loạn xạ trên đường, bao nhiêu năm rồi vẫn không phát triển nổi hệ thống giao thông công cộng hiện đại với metro, xe điện…Đi đường dài thì hàng không và đường bộ là chủ yếu, một việc nhà nước có thể làm được trong khả năng là mở rộng khổ đường ray, nâng cấp xe lửa để giảm bớt gánh nặng cho giao thông đường bộ, vẫn không được tiến hành…Và tai nạn giao thông tiếp tục xảy ra hàng ngày, cướp đi bao cuộc đời đang hạnh phúc, để lại bao nỗi đau cho người ở lại.
Ngay trong một lĩnh vực lẽ ra phải hết sức quý trọng sinh mạng con người như y tế, thời gian qua chúng ta đã quá bội thực với những thông tin không lấy gì làm vui về cách ứng xử của đội ngũ thầy thuốc, cán bộ công nhân viên ngành y đối với người bệnh, những vụ chết người do sai sót trong nghiệp vụ chuyên môn hoặc do thờ ơ, tắc trách, nạn “phong bì”, tình trạng quá tải tại các bệnh viện lớn, bệnh viện trung ương trong khi các bệnh viện nhỏ, trạm xá địa phương thì điều kiện chữa chạy quá thiếu thốn, yếu kém…
Ngành y đã mang một diện mạo “xấu xí” với hàng loạt sự cố nghiêm trọng: hàng chục trẻ chết oan sau khi
tiêm vaccine Quinvaxem 5 trong 1, nhưng Bộ Y tế vẫn cho là không phải tại vaccine và sau
một thời gian tạm ngưng, lại quyết định cho tiêm và lại có thêm những em bé vô tội tử vong; vụ “nhân bản” phiếu xét nghiệm” tại BV Đa khoa Hoài Đức, Hà Nội; vụ tráo thủy tinh thể tại BV Mắt, Hà Nội cho tới vụ bác sĩ làm chết người xong ném xác xuống sông Hồng để thủ tiêu…
Tất cả những sự cố này một phần do đạo đức ngành y bị xuống cấp nghiêm trọng, một số thầy thuốc, cán bộ nhân viên y tế thời nay làm việc chỉ biết có tiền, nhưng trên hết, là từ một nếp nghĩ, thái độ hết sức coi thường sinh mạng con người.
Nhưng không có lĩnh
vực nào mà danh dự, mạng sống con người lại bị coi rẻ như ngành công an và tòa án ở VN. Công an VN chưa bao giờ được xem là bạn dân mà ngược lại, ngày càng trở thành “hung thần” của dân. Công an giao thông là một trong mấy ngành tham
nhũng, hối lộ hàng đầu ở VN. Ngày càng nhiều những thông tin người dân sau khi được “mời”về đồn công an làm việc để điều tra, xét hỏi một vụ việc nào đó, đã bị công an đánh đập thậm chí đến chết, sau đó đổ cho là tự tử chẳng hạn.
Đây chỉ là một số vụ việc xảy ra trong vòng vài tháng qua: “Bốn công an dùng nhục hình, xát ớt bột vào hạ bộ một thanh niên” (Pháp luật VN), Vụ “Ói ra máu sau khi bị công an làm việc”: Công an nói nạn nhân tự té” (Pháp luật TP.HCM), “Trưởng công an xã gọi ra ủy ban rồi đóng cửa đánh dân tụ máu não” (Soha), “Một nghi can hiếp dâm bị chết tức tưởi trong trại tạm giam” (Giáo dục VN), “Học sinh chết bất thường ở đồn công an, dân vây quốc lộ phản ứng” (Một thế giới), “Thêm một người chết sau khi làm việc với công an”(Tuổi Trẻ) tại trụ sở Công an xã Đạo Nghĩa, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông. Đây cũng là nạn nhân thứ tư chết trong tay công an từ đầu năm 2014 đến nay…
Và sau tất cả những vụ việc như vậy, chỉ có vài trường hợp là được đem ra xử với bản án giơ cao đánh khẽ (như vụ nguyên trung tá
Nguyễn Văn Ninh, công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội, đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng vào tháng 2.2011, chỉ bị 4 năm tù).
Khi câu chuyện về vụ án oan 10 năm của ông Nguyễn Thanh Chấn ở Bắc Giang “nổ” ra trên báo chí như một trái bom, dư luận bàng hoàng trước cung cách điều tra cẩu thả, dùng nhục hình bức cung, phá án nhanh cốt lấy thành tích, sự vô cảm đến tàn nhẫn trước số phận một con người của cơ quan điều tra cho tới tòa án các cấp ở Bắc Giang. Nhưng câu chuyện của ông Chấn không phải là ngoại lệ.
Báo chí tiếp tục khui ra bao nhiêu vụ việc khác, từ trước đó “Những vụ án oan rúng động VN” (VNExpress) cho đến hiện tại: “Vụ Hàn Đức Long: 8 năm nghiệt ngã người vợ kêu oan cho chồng bị án tử” (Đời sống và Pháp luật), “Thả 7 thanh niên giam cầm nhờ có người khác tự thú” (Một thế giới), “Kỳ án Vườn Mít: cha Lê Bá Mai ra Hà Nội kêu oan cho con”(Tiền Phong), “Sóc Trăng: thêm một vụ tố điều tra bức cung, có dấu hiệu oan sai” (vụ án giết người liên quan đến một thanh niên bị bệnh tâm thần bị giam suốt 18 tháng nay, báo Một thế giới) v.v…
Điều đáng sợ là khi những người trong cuộc gặp phải những oan sai tày trời, bản thân họ và gia đình cất tiếng kêu oan thống thiết, gửi hàng trăm, ngàn bức thư đi khắp nơi, gõ cửa bao nhiêu cơ quan công quyền từ dưới lên trên, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng lạnh lùng, tàn nhẫn. Đôi khi, may mắn đến với họ nhưng không phải từ sự hồi tâm nghĩ lại, điều tra lại của các cơ quan có thẩm quyền, mà từ sự ra đầu thú của kẻ thủ ác, như vụ ông Chấn hoặc 7 thanh niên bị giam ở Sóc Trăng chằng hạn.
Với “thành tích” lẫy lừng trong việc chà đạp nhân quyền, coi thường sinh mạng người dân như vậy, chẳng trách gì những ngày qua, khi
nhà cầm quyền VN tỏ ra tích cực, thậm chí “ồn ào” trong việc tìm kiếm chiếc máy bay Malaysia mất tích, nhiều người dân, thông qua các trang blog, trang mạng xã hội, đã lên tiếng chỉ trích. Trong mắt họ, hành động của nhà cầm có cái gì đó như phô diễn, muốn chứng tỏ với các nước, thậm chí, muốn “lấy điểm” với Trung Quốc, quốc gia có nhiều người nhất đi trên chuyến bay định mệnh. Và đáng nói nhất, cuộc trình diễn này lại không hề rẻ!
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment