Thái-Dương
Thành, AUG-14-14
Còn ai thương xót
non-sông ?
Còn thương cháu Lạc con
Hồng Việt-Nam ?
NP
THÊM MỘT QUỐC-HẬN
“Biên-Bản Thành-Đô” mây phủ mù.
Nay mai đất nước thuộc
Tàu phù.
Chờ hoài chẳng thấy dân
Khoa-bảng.
Đợi mãi không nghe đám
sĩ-phu.
Hoặc cháu Quang-Trung
bao tuấn kiệt,
Hay nòi Trưng-Triệu lắm
anh-thư.
Đứng lên hiệu triệu lời
sông núi,
Cứu quốc vững bền vạn
vạn thu.
TDT, AUG-14-14
Ngô-Phủ
Ước chi :
Nhất trí toàn dân trừ Việt-cộng,
Đồng tâm cả nước đập
Tàu-phù.
Ngô-Phủ
============================================================================================================================================================
From: mailto:Daploisongnui
Sent: Wednesday, August 13,
2014 5:03 PM
To: QUANDANCANCHINH
Subject: [Daploisongnui] Thỏa
thuận Thành Đô: bước lùi lịch sử thảm họa cho dân Việt
Tuesday, August 12, 2014
Thỏa thuận Thành Đô: bước lùi lịch sử thảm họa cho dân Việt
Phát triển quan hệ không thù địch, hơn thế nữa còn phải
thân thiện với các nước láng giềng, là một chính sách đúng đắn của
mọi nhà nước yêu chuộng hòa bình công lý. Chính sách láng giềng thân
thiện lại cần được ưu tiên hơn, khi láng giềng là một cường quốc.
Bởi vậy, năm 1990, các nhà lãnh đạo Việt Nam tiến hành chính sách
bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng sau hơn một thập kỷ chiến tranh
và xung đột biên giới là việc cần làm.
Thế nhưng cái cách mà Việt Nam tiến hành chính sách
bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng thì thật không bình thường.
Không chỉ như vậy, nội dung bình thường hóa quan hệ mà Việt nam cố
gắng để đạt được, cụ thể hóa bằng Thỏa thuận Thành Đô (4/9/1990),
là một nội dung bất lợi cho Việt Nam. Không chỉ bất lợi, mà ngày
càng thêm thảm họa. Mức độ thảm họa tăng theo cấp số nhân cùng với
thời gian mà chính những người tham gia đàm phán Thỏa thuận Thành Đô
đã không lường trước được.
Hai mươi tư năm trôi qua kể từ ngày ký Thỏa thuận Thành
Đô, hậu quả khôn lường của nó đối với Việt Nam nguy hiểm đến nỗi mà
ai trong số họ còn sống, bề ngoài không dám thể hiện, hoặc cố viện
dẫn hoàn cảnh để thanh minh bào chữa, nhưng trong sâu xa tâm khảm, đều
cảm thấy hối tiếc.
BA SAI LẦM
1. Sự hoảng hốt lịch sử
Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã
làm cho một số lãnh đạo Việt Nam hoảng hốt. Lo sợ sự sụp đổ thể
chế, lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ đã đột ngột biến kẻ thù truyền
kiếp – từng xâm lược Việt Nam năm 1979, liên tục đánh chiếm biên giới
Việt Nam suốt trong thập kỷ 1980, và đã bị ghi vào Hiến pháp 1980 là
kẻ thù – thành người “anh em” cùng phe xã hội chủ nghĩa. Đó là kết quả
của Thỏa thuận Thành Đô ký ngày 4/9/1990 giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Đại diện Việt Nam là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
Đỗ Mười, có sự chứng kiến của Cố vấn Phạm Văn Đồng. Còn đại diện
phía Trung Quốc là Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng.
Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng là việc cần
làm. Nhưng quá hốt hoảng trước sự sụp đổ của phe xã hội chủ nghĩa,
các nhà lãnh đạo Việt Nam đã vội vã ký một thỏa thuận bất lợi cho
Việt Nam nhằm bảo vệ chế độ, bất lợi đến nỗi mà chính cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nhiều lần biểu lộ sự băn khoăn.
2. Ảo tưởng về chế độ
Sai lầm thứ hai là ảo tưởng về chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đáng lý ra sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và ở các nước
Đông Âu phải là vấn đề lý luận nghiêm túc để các nhà lãnh đạo Việt
Nam phân tích suy ngẫm. Rõ ràng chủ nghĩa xã hội đồng loạt sụp đổ ở
Liên Xô và các nước Đông Âu không phải do kẻ thù bên ngoài, mà do chính
các nguyên nhân phát triển nội tại của mô hình chủ nghĩa xã hội. Qua
thực tiễn tồn tại, không khó khăn để nhận ra rằng, mô hình chủ nghĩa
xã hội chứa đựng những lỗi hệ thống mang tính nguyên tắc, quyết định
sự sống còn của mô hình. Muốn sửa đổi các lỗi hệ thống đó thì
phải thay đổi mô hình. Điều đó chứng tỏ các nhà lãnh đạo Việt Nam
lúc bấy giờ, tuy dày dạn kinh nghiệm kháng chiến chống ngoại xâm –
mà thắng lợi giành được là do lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân
quyết định – lại chưa để tâm cần thiết đến mặt nghiên cứu lý luận.
3. Nhầm lẫn về Trung Quốc
Nhưng sai lầm đáng buồn hơn cả là nhận thức không nhất
quán về Trung Cộng. Trung Cộng công khai tham vọng xâm chiếm Việt Nam.
Trung Cộng gây ra cho Việt Nam những tổn thất to lớn trong Hiệp định
Genève. Trung Cộng phá hoại cản trở Việt Nam trong kháng chiến chống
Mỹ. Bất chấp bao nhiêu năm “cùng phe xã hội chủ nghĩa”, từng “anh em bè
bạn”, nhưng năm 1979 Trung Cộng đã ngang ngược mang 60 vạn quân tấn công
Việt Nam. Trong suốt 10 năm tiếp theo Trung Cộng liên tục tiến hành cuộc
chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam. Vô vàn cay đắng thâm thù từ
Trung Cộng, làm sao mà các nhà lãnh đạo Việt Nam lúc bấy giờ, trong
thời khắc sụp đổ phe xã hội chủ nghĩa, lại có thể cả tin rằng ý thức
hệ xã hội chủ nghĩa là phép màu hoàn lương được dòng máu bá quyền Tần
Thủy Hoàng – Mao Trạch Đông, để Việt Nam và Trung Cộng lại là “anh em”,
cùng chống kẻ thù ý thức hệ?
BỐN HẬU QUẢ THẢM HỌA
I. Lệ thuộc về chính trị
Thỏa thuận Thành Đô gây ra những hậu quả thảm họa to lớn
mà chính những người ký Thỏa thuận đã không ngờ tới. Từ Thỏa thuận
Thành Đô, Việt Nam mỗi ngày càng lệ thuộc chính trị hơn vào Trung
Cộng. Trung Cộng tiến hành một chính sách bắt Việt Nam dần phụ thuộc
chính trị rất thâm hiểm, tập trung trên mấy phương diện sau.
1. Gây ảnh hưởng về nhân sự lãnh đạo
Gây ảnh hưởng lên nhân sự lãnh đạo là nhân tố nguy hiểm
số một trong chiến lược bắt Việt Nam lệ thuộc của Trung Cộng. Trung Cộng
sẽ tìm mọi cách loại bỏ, vô hiệu hóa hay giảm ảnh hưởng của tất
cả những ai không theo hoặc không ủng hộ Trung Cộng. Sự can thiệp vào
công việc nhân sự lãnh đạo Việt Nam của Trung Cộng rất trực diện, thô
bạo. Việc yêu cầu loại bỏ Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ra khỏi Bộ Chính
trị trong Hội nghị Thành Đô là một ví dụ kinh điển. Đến thời Tổng Bí
thư Nông Đức Mạnh đã không dám đưa ông Phạm Bình Minh (con trai của cố
Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch) vào chức vụ Ngoại trưởng vì Trung Cộng
không chấp nhận. Gần đây Lễ tang của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng
bị cuộc viếng thăm của Thủ tướng Lý Khắc Cường phủ bóng tối.
2. Gây ảnh hưởng về chính sách song phương và đối
ngoại
Có được ảnh hưởng nhân sự, tổng hợp với các thế mạnh
về kinh tế quốc phòng địa lý, và các mánh khóe thâm độc gian xảo,
Trung Cộng gây áp lực lên các cuộc đàm phán song phương và chi phối lên
quan hệ bang giao quốc tế của Việt Nam.
Việt Nam đã phải nhượng bộ cho Trung Cộng trong Hiệp định biên
giới đất liền năm 1999, cũng như trong thỏa thuận phân chia đường biên
giới trên biển năm 2000. Việt Nam không dám công khai ủng hộ Philippines
kiện Trung Cộng ra tòa án quốc tế mặc dù Việt Nam được lợi từ vụ
kiện này. Việt Nam không thân mật đến mức liên minh với các nước lớn
bởi e dè Trung Cộng. Việt Nam tuyên bố không liên minh với ai để chống
nước thứ ba thực chất là để thanh minh với Trung Cộng.
3. Gây ảnh hưởng về kinh tế
Dùng ảnh hưởng về chính trị, dùng sức mạnh kinh tế,
Trung Cộng quyết tâm giành thắng lợi trong đấu thầu các dự án kinh tế
chủ chốt của Việt Nam và biến Việt Nam thành một thị trường tiêu
thụ hàng hóa của Trung Cộng.
Khi đã có được ảnh hưởng kinh tế, tiến đến lũng đoạn
nền kinh tế Việt Nam và gây áp lực lại về chính trị, bắt lệ thuộc
về chính trị. Vòng xoay đó luân hồi kiềm tỏa Việt Nam, bắt Việt Nam
không thể rời quỹ đạo xoay quanh Trung Cộng.
II. Lệ thuộc về kinh tế
Bị lệ thuộc chính trị, nền kinh tế Việt Nam bị phụ
thuộc vào Trung Cộng toàn diện. Sự phụ thuộc toàn diện của nền kinh
tế Việt Nam vào Trung Cộng thể hiện qua mấy điểm chủ chốt sau đây.
1. Việt Nam trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa
của Trung Cộng
Từ các thiết bị máy móc cho đến hàng tiêu dùng, khắp
nơi đâu đâu cũng tràn ngập hàng Trung Cộng. Cay đắng hơn đến các mặt
hàng nông sản đời sống thường ngày nhỏ nhặt như quả trứng, trái cam,
củ tỏi… mà Việt Nam tự sản xuất được thì nay cũng bị hàng Trung Cộng
lấn át.
Để biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa
mạnh hơn nữa, Trung Cộng thúc đẩy mở cửa biên giới để hàng Trung Cộng
tràn vào Việt Nam, đồng thời khuyến khích cho phép buôn lậu qua biên
giới những mặt hàng có lợi cho Trung Cộng. Đi xa hơn, Trung Quốc thiết
lập mạng lưới đại lý phân phối hàng hóa và đưa cả người Trung Cộng
sang sinh sống bán hàng tại Việt Nam.
Việt Nam thực sự đã trở thành một thị trường thuộc địa
hàng hóa của Trung Cộng. Trong quan hệ buôn bán hai chiều, Việt Nam còn
kém vị thế một tỉnh của Trung Cộng. Bởi lẽ một tỉnh của Trung Cộng
còn bán được thiết bị máy móc cho tỉnh khác của Trung Cộng, còn
Việt Nam thì chỉ thuần túy mua, mà không bán lại được cho Trung Cộng
máy móc thiết bị công nghệ.
2. Trung Cộng thắng thầu hầu hết các dự án
xương sống trụ cột của Việt Nam
Trong đấu thầu xây dựng các công trình kinh tế chủ chốt
của Việt Nam, Trung Cộng là nước thắng thầu nhiều nhất. Trung Cộng
tiến hành một chiến lược đơn giản với chủ trương chào thầu thấp để
thắng thầu. Sau đó bằng mọi cách đội giá thầu lên, khiến cho chi phí
xây dựng công trình đắt lên rất nhiều, đắt hơn cả giá chào thầu ban
đầu của các đối tác khác.
Điều nguy hại hơn là, tuy giá thành rất đắt, nhưng Việt
Nam lại bị phải sử dụng các thiết bị công nghệ lạc hậu, năng thuất
thấp, chất lượng kém, độc hại cho con người và môi trường. Sản phẩm
làm ra kém chất lượng, nhanh hư hỏng.
Tất cả các công trình mà nhà thầu Trung Cộng tham gia xây
dựng, không có công trình nào có chất lượng đảm bảo như của các
nước hàng đầu G7, và tai họa hơn là hiệu quả kinh tế rất thấp.
3. Trung Quốc khai thác thu mua nhiều tài nguyên
khoáng sản của Việt Nam
Với chính sách “Dùng của người, để dành của nhà” Trung
Quốc đã tiến hành chính sách thu mua khai thác nguồn tài nguyên
khoáng sản của các nước khi giá còn thấp, để dành tài nguyên khoáng
sản của Trung Quốc cho tương lai. Trung Quốc đã tập trung vào các nước
chậm phát triển ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh.
Việt Nam là nước láng giềng của Trung Cộng nên càng bị
Trung Cộng tận thu hết công suất. Việt Nam không phải là nước có nhiều
khoáng sản, nhưng tất cả những khoáng sản tiềm năng chủ chốt của
Việt Nam đều bị Trung Cộng thâu tóm. Trung Cộng là khách hàng lớn của
Việt Nam về than. Hai dự án lớn về bôxít ở Tây Nguyên cũng nhường
thầu xây dựng trọn gói cho Trung Cộng, và sẽ bán nguyên liệu thô cho
Trung Cộng. Dự án thép ở Vũng Áng cũng bị Trung Cộng mua lại. Riêng
dầu khí ở Biển Đông, không hợp tác khai thác được, Trung Cộng trắng
trợn mang giàn khoan dầu vào vùng biển Việt Nam để tự khai thác. Thâm
hiểm ngang ngược đến thế là cùng.
4. Trung Quốc đầu tư kinh doanh hầu khắp các
huyện tỉnh thành Việt Nam
Công nghệ lạc hậu, ô nhiễm độc hại, chất lượng tồi, giá
thành rẻ, Trung Cộng ồ ạt đầu tư khắp các huyện tỉnh thành của Việt
Nam. Đi xa hơn Trung Cộng lập các công ty, cửa hàng đại lý thương mại
khắp nơi nơi, tạo nên các làng phố người Hoa khắp cả nước Việt Nam.
Bằng cách này Trung Cộng đã hình thành một mạng lưới kinh tế riêng
của Trung Cộng trên lãnh thổ của Việt Nam, cả hàng hóa lẫn con người.
III. An ninh quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng
Chưa bao giờ an ninh của Việt Nam bị Trung Cộng đe dọa như
bậy giờ. Có thể lược nêu một số hiểm họa an ninh quốc gia sau đây.
1. Đội quân người Hoa trên lãnh thổ Việt Nam
Trung Cộng đã rất thành công trong việc đưa người lao động
đến khắp sơn cùng thủy tận của Việt Nam, lấy vợ đẻ con, lập nên nhan
nhản các làng phố người Hoa. Đây là mối hiểm họa bậc nhất cho an
ninh quốc gia.
2. Mạng lưới gián điệp dày đặc
Với làng phố người Hoa khắp mọi nơi, với sự thâu tóm
các công trình yết hầu kinh tế, mạng lưới gián điệp là ưu thế đặc
biệt của Trung Cộng không chỉ trong chiến tranh mà trong mọi đối phó
ứng xử với Việt Nam.
3. Nguy cơ bị đánh sập nền kinh tế
Nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào Trung Cộng. Các
công trình do Trung Cộng đầu tư cũng như do Trung Cộng thắng thầu xây dựng
đều tiềm ẩn những nguy cơ khôn lường. Nền kinh tế Việt Nam có nguy cơ
bị tê liệt toàn bộ khi xung đột với Trung Cộng xẩy ra.
4. Các cơ sở quốc phòng của Trung Cộng trên
đất Việt Nam
Dưới danh nghĩa đầu tư, kinh doanh và nhà thầu, Trung Cộng
có thể bí mật xây dựng những công trình quân sự, cài đặt những
thiết bị phá hủy khắp mọi nơi trên đất Việt Nam. Các vật tư thiết
bị Trung Cộng bán cho các công ty Mỹ đã từng bị Mỹ phát hiện về những
chip gián điệp, thì tất cả những điều đã nêu là hoàn toàn thực tế.
Chẳng hạn, tử huyệt xung yếu như Đèo Ngang với chiều dài
Đông Tây khoảng 50Km đã bị Trung Cộng án ngự bằng dự án cảng Vũng
Áng trong 70 năm. Trước đây cố Tổng bí thư Lê Duẩn từng nhận định
vùngThanh Nghệ Tĩnh là căn cứ địa khi Trung Cộng huy động 2 triệu quân
tấn công Việt Nam từ phía Bắc. Nhưng bây giờ với cảng Vũng Áng và
rừng phía Lào đã được Trung Cộng thuê lâu dài, thì việc chia cắt Việt
Nam tại Đèo Ngang, nếu không đề phòng trước, đối với Trung Cộng có
thể là dễ như “trở bàn tay”. Điều tương tự cũng có thể xẩy ra ở Tây
Nguyên khi Trung Cộng tham gia khai thác bôxít và rừng Campuchia giáp biên
giới Việt Nam đã được Trung Cộng thuê đến 99 năm.
Phải một lần nữa nhấn mạnh rằng, chưa bao giờ an ninh
của Việt Nam lại mong manh đến vậy từ mối đe dọa Trung Cộng.
VI. Độc lập và toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm
Bị lệ thuộc về chính trị và kinh tế thì độc lập Dân
tộc bị đe dọa là điều đương nhiên. Không chỉ thế, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã bị xâm phạm. Thực tế cho thấy Việt Nam
đã phải nhân nhượng cho Trung Cộng một phần lãnh thổ trên đất liền
trong Hiệp ước biên giới Việt –Trung năm 1999. Trong Hiệp ước phân định
ranh giới Vịnh Bắc Bộ năm 2000, Việt Nam cũng phải nhường lại cho
Trung Cộng một phần lãnh hải so với Công ước Pháp –Thanh năm 1887.
Việc Trung Cộng đưa dàn khoan HD981 và tàu chiến vào sâu
lãnh hải Việt Nam và đang xây sân bay ở đảo Gạc Ma cũng là hệ quả
của Thỏa thuận Thành Đô. Dã tâm xâm lược Biển Đông của Trung Cộng là
công khai ngang ngược trắng trợn. Phải khởi kiện Trung Cộng ngay ra Tòa
án quốc tế, dựa vào sự ủng hộ quốc tế để vạch mặt và làm chùn
bước chân xâm lược của Trung Cộng. Nếu không hành động cương quyết,
lãnh hải sẽ bị Trung Cộng lấn chiếm thêm nữa.
Thỏa thuận Thành Đô, đúng như cố Ngoại trưởng Nguyễn Cơ
Thạch đã nhận xét: Một thời kỳ Bắc Thuộc mới rất nguy hiểm.
NĂM BIỆN PHÁP GIẢI THOÁT
I. Từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô
Lịch sử nhắc đến Nỏ thần và sơ đồ Loa thành mà Trọng
Thủy có được. Lịch sử nhắc đến Hiệp ước cắt ba tỉnh miền Đông Nam
kỳ cho Pháp. Lịch sử sẽ nhắc đến Thỏa thuận Thành Đô. Đó là điều
chắc chắn.
Bởi vậy, muốn giảm bớt hậu quả tai hại của Thỏa thuận
Thành Đô trước lịch sử, thì điều cần làm là từ bỏ Thỏa thuận
Thành Đô. Thực ra vấn đề cứu vớt sai lầm cho những người đã ký Thỏa
thuận Thành Đô chỉ là vấn đề thứ yếu. Điều quan trọng nhất chính
là từ bỏ Thỏa thuận Thành Đô để cởi trói cho Dân tộc khỏi sự lệ
thuộc vào Trung Cộng. Thoát Trung là cơ hội lịch sử và là vấn đề hệ
trọng nhất hiện nay, bởi nó liên quan đến độc lập của Dân tộc và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
II. Xóa bỏ tư duy tương đồng thể chế
Hiện nay một số người Việt Nam, và ngay cả một số tướng
lĩnh, vẫn cho rằng Việt Nam và Trung Cộng là cùng thể chế xã hội
chủ nghĩa, cùng tương đồng ý thức hệ. Và bởi vậy Trung Cộng sẽ thân
tình ưu ái với Việt Nam, Việt Nam với Trung Cộng là cùng một phe. Đây
là một điều lầm tưởng vô cùng nguy hiểm.
Bản thân Trung Cộng đã tự xưng là chủ nghĩa xã hội mang
màu sắc Trung Cộng. Cái gọi là chủ nghĩa xã hội ở Trung Cộng hoàn
toàn khác biệt với các nước khác. Chủ nghĩa Marx hay bất cứ học
thuyết bất kỳ nào khác được lãnh đạo Trung Cộng vận dụng đều bị
“Hán hóa” hoàn toàn. Chủ nghĩa Đại Hán là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
trong chính sách đối ngoại của lãnh đạo Trung Cộng, dù có được trá
hình dưới bất cứ vỏ bọc nào.
Việc Việt Nam và Trung Cộng đều do độc đảng lãnh đạo
không có nghĩa là Việt Nam và Trung Cộng là anh em, là cùng chung mục
đích lý tưởng. Mục đích của Trung Cộng là bá chủ thế giới, bành
trướng quyền lực và lãnh thổ, là chiếm được càng nhiều lãnh thổ
của Việt Nam càng tốt, và bắt Việt Nam phải hoàn toàn lệ thuộc vào
Trung Cộng. Mục đích này đã được Mao Trạch Đông trắng trợn công khai
tuyên bố với cố Tổng bí thư Lê Duẩn, và được giới lãnh đạo Trung Cộng
tiến hành không khoan nhượng ngày càng hung tợn hơn trong suốt mấy
chục năm qua.
Không có tương đồng thể chế, không có tương đồng ý thức
hệ, không phải cùng một phe. Việt Nam là miếng mồi của giới lãnh
đạo Trung Cộng.
Lời phát biểu tại Philippines ngày 21/5/2014 của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng “Không chấp nhận đánh đổi chủ quyền lấy hữu nghị
viển vông lệ thuộc nào đó” phải biến thành hành động. Một trong
những hành động thực tế là xóa bỏ tư duy đồng thể chế cùng phe với
Trung Cộng để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Trung Cộng.
III. Đặt quyền lợi Dân tộc trên quyền lợi của thể chế
Ngay cả cố Tổng bí thư Lê Duẩn, người hiểu âm mưu xâm
lược thâm độc của lãnh đạo Trung Cộng, buộc phải cương quyết chống
lãnh đạo Trung Cộng, vẫn đã có lúc nghĩ rằng, khi chủ nghĩa xã hội
thành công trên toàn thế giới, thì mối đe dọa từ Trung Cộng sẽ mất
đi.
Chủ nghĩa xã hội sẽ không bao giờ thành công trên toàn
thế giới. Chủ nghĩa xã hội, mặc dù trên lý thuyết chứa đựng những
ý tưởng cao đẹp, nhưng trên thực tiễn tồn tại, là một mô hình què
quặt không khoa học. Bởi vậy, vừa mới ra đời chưa lâu, chủ nghĩa xã
hội đã bị tiến trình phát triển của xã hội loài người đào thải.
Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ngay ở nước Nga, nơi đã sinh ra mô hình
chủ nghĩa xã hội, sau 74 năm. Chủ nghĩa xã hội bị đào thải ở Đông
Âu sau 40 năm.
Đối với một nước, mô hình chủ nghĩa xã hội có tồn tại
trong một thời gian nào đó, thì đấy chỉ là vấn đề tồn tại của một
thể chế, một mô hình nhà nước. Một thể chế chỉ là một khoảng thời
gian ngắn so với lịch sử phát triển của một Dân tộc. Thay đổi thể
chế chỉ liên quan đến thay đổi chính sách, đường lối và quyền lợi
của một bộ phận thuộc Dân tộc. Không nhóm người này lên cầm quyền
thì sẽ có nhóm người khác lên nắm quyền. Nhưng tất cả họ đều thuộc
một đất nước. Khi đề cập đến thể chế là nói đến vấn đề nội bộ.
Còn khi nói đến độc lập Dân tộc, chủ quyền lãnh thổ là đề cập đến
mối quan hệ với các nước khác. Bởi vậy không thể đặt quyền lợi của
thể chế trên quyền lợi Dân tộc.
Từ đó suy ra: Bất cứ điều gì có lợi cho thể chế mà
không có lợi cho Dân tộc thì dứt khoát không làm. Điều gì có lợi cho
Dân tộc nhưng không có lợi cho thể chế thì cũng cứ làm.
Dân tộc trường tồn hơn thể chế. Nhắc đến Dân tộc trên
bình diện quốc tế là đề cập đến vấn đề quan hệ Quốc gia. Bởi vậy,
bất luận có chủ nghĩa xã hội hay không, mối đe dọa từ Trung Cộng không
bao giờ triệt tiêu, chí ít là cho đến khi triệt tiêu phạm trù Dân
tộc.
VI. Cách mạng thể chế
Chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói đến phải Đổi mới
thể chế trong thông điệp 2014. Đổi mới hoàn toàn thể chế tức là đã
Cách mạng thể chế. Một thể chế mới văn minh dân chủ tiến bộ sẽ có
nội dung hoàn toàn khác biệt với thể chế Trung Cộng hiện hành, và
tự nó là một phép thoát Trung màu nhiệm hiệu quả nhất.
Việt Nam cần Đổi mới thể chế nhanh, vì bản thân nhân dân
Trung Cộng cũng muốn Thay đổi thể chế, và dứt khoát nhân dân Trung Cộng
sẽ làm được điều đó. Vấn đề chỉ ở thời gian. Việt Nam cần thoát
Trung trước khi Trung “thoát Việt”.
V. Hòa nhập thế giới dân chủ văn minh
Xây dựng một nhà nước dân chủ văn minh, hòa nhập với thế
giới dân chủ văn minh hiện đại là biện pháp tốt nhất để bảo đảm
nền độc lập của Dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ Quốc.
Một mình một đường không giống ai, không phải là sáng
tạo độc đáo, mà là tự tụt hậu yếu nghèo, tự cô lập chính mình.
Mà đã nghèo khó thì sẽ bị ức hiếp phụ thuộc, sẽ mất đi độc lập
Dân tộc và không có khả năng bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
Quốc.
Khăng khăng duy trì một thể chế lạc lõng để bảo toàn
quyền lực, làm đất nước bị tụt hậu yếu nghèo, sẽ có tội trước Dân
tộc, có lỗi với cháu con, và sẽ không tránh được sự phán xét khắc
nghiệt của hậu thế.
Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ cho phép xây
dựng được một nước Việt Nam thực sự giàu có hùng cường – nhân tố quyết
định sự thắng lợi trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
Quốc. Một nhà nước Việt Nam dân chủ văn minh sẽ huy động tổng hợp
được sự đồng lòng nhất trí của toàn dân, tạo nên sức mạnh vô địch
trước mọi kẻ thù.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, nhưng hào kiệt đời nào
cũng có, lời của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo còn sang sảng
núi sông. Chắc chắn những Hào kiệt mới sẽ xuất hiện để từ bỏ Thỏa
thuận Thành Đô, Cách mạnh thể chế, và đưa Đất nước hòa nhập với
thế giới văn minh dân chủ hiện đại.
Vương Trí Dũng
Feb 18, 2013
Nếu như thế thì thống nhất làm sao được với bọn Tây Tạng, bọn Nội
Mông, bọn Mãn Châu, bọn Hồi Bột. Chính chúng nó đang muốn cái đó để xưng độc
lập, hoặc tự trị trong liên bang. Trên nguyên tắc thì đúng, là cái gì cũng ...
Aug 08, 2014
Thế là họ xin đến TC, xin có Hội nghị Thành Đô để qui hàng để có
thể tiếp tục giữ thể chế cộng sản của mình ở VN, bằng bạo lực Tàu như họ đã thể
hiện trên Thiên An Môn. Nhưng mức độ thần phục TC đến thế nào, tức nội ...
7 hours ago
Ông Hùng dẫn lời cựu Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch nói về hội nghị
Thành Đô hồi năm 1990 khi các lãnh đạo Việt Nam và Trung Cộng bí mật ký thỏa
ước về quan hệ song phương: "Đó là một thời kỳ đô hộ mới của Trung ...
Aug 11, 2014
Ba thằng đến tận Thành Đô Rước voi giày xéo mả mồ tổ tiên. Cơ đồ
một phút ngả nghiêng. Việt Nam một phút lại tra gông xiềng. Ác lai ác báo nhãn
tiền. Chết đi phơi xác , bốn mươi năm sầu. Xà Mâu tham nhũng mà giàu
Aug 07, 2014
Quan sát cách mà lãnh đạo cấp cao Việt Nam đánh giá lại tác động
của Thành Đô, xem xét lại cách đối xử với Trung Cộng, chúng ta có thể phán đoán
tương lai của đất nước sẽ đi về đâu," ông Hùng viết. Canh bạc đã thua.
Jul 29, 2014
Họ yêu cầu minh bạch hóa sự thật về quan hệ Việt – Trung và những
điều quan trọng đã ký kết với Trung Cộng như thỏa thuận Thành Đô năm 1990, thỏa
thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và vịnh Bắc Bộ, những ...
Jul 31, 2014
Lạ thật, tưởng giới trẻ dị ứng với chế độ, ai ngờ sinh viên rần
rộ phô trương khí thế trước Sứ quán Mỹ, bao vây, ném đá, đốt xe, đốt cà nhà của
tổng lãnh sự Mỹ ở Thành Đô. Lửa ấy, sách báo thế giới đã nói nhiều. Nhưng, để
...
7 hours ago
Cái gọi là hội chứng Việt Nam trong một số thành phần dân chúng
Mỹ vẫn còn sâu đậm. Những người ấy không ... Hội nghị Thành Đô của đảng CSVN
với CSTQ năm 1990 ... Về việc biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”.
Aug 01, 2014
Ví dụ liên quan đến thực phẩm, chẳng hạn, tất cả các công ty sản
xuất phải ghi rõ các thành phần hoá chất trên nhãn để đáp ứng quyền được biết
của người tiêu thụ. Về phương diện xã hội, ví dụ để sửa một khúc đường vốn ...
Jun 06, 2014
Còn với Việt Nam thì Trung Quốc nắm rất kỹ nội tình, đang thu tóm
kinh tế Việt Nam và nghĩ có thể xử ép, có khả năng xúi bẩy các cấp và cả người
dân sau Hội nghị Thành Đô 1990. Vì sao lúc này? image. Thời điểm sau ngày ...
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment