Tuesday, September 25, 2012

Văn hóa và chính trị


 

 

Văn hóa và chính tr

Nguyễn Hưng Quốc



Có hai câu hỏi những người quan tâm đến chính trị thế giới thường nêu lên: Tại sao có những nước giàu hoặc rất giàu, càng ngày càng giàu và có những nước khác lại cứ nghèo mãi, lúc nào cũng kham khổ và triền miên chịu đựng đói khát? Tại sao có những nước dân chủ, biết tôn trọng nhân quyền và có những nước cứ chìm đắm mãi trong họa độc tài?

Trả lời cho cả hai câu hỏi ấy, trước, giới nghiên cứu thường tập trung vào các khía cạnh như dân số (dân số phát triển quá nhanh trên một vùng đất nghèo nàn về tài nguyên); địa lý (đất đai cằn cỗi, tài nguyên thiên nhiên ít, khí hậu khắc nghiệt), kinh tế (không có vốn, việc phân phối tài sản không đồng đều, bao nhiêu tiền của đều bị giới lãnh đạo hoặc giàu có vơ vét hết) và xã hội (tình trạng mù chữ cao, thiếu các kỹ năng lao động cần thiết, hệ thống an sinh xã hội thấp), v.v.
 
(1) Những cách giải thích ấy đều đúng. Nhưng lại bất cập. Gần đây, người ta chú ý đến một khía cạnh khác: văn hóa.
 
Theo họ, chính văn hóa mới là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Về vấn đề dân chủ, cũng vậy, trước, người ta giải thích bằng lý do kinh tế: dân chủ gắn liền với sự phát triển, như là kết quả của sự phát triển kinh tế; sau, người ta cũng lại chú ý đến yếu tố văn hóa: có những nền văn hóa thúc đẩy dân chủ, ngược lại, cũng có những nền văn hóa kiềm hãm hoặc loại trừ dân chủ.

Trong lời nói đầu cuốn Culture Matters: How Values Shape Human Progress do Lawrence E. Harrison và Samuel P. Huntington biên tập (2000), Huntington kể, đầu thập niên 1990, ông tình cờ đọc được một số tài liệu về hai nước Ghana và Hàn Quốc. Trước đó mấy chục năm, vào thập niên 1960, hai quốc gia này giống nhau vô cùng. Cả hai đều có số tổng thu nhập trên đầu người ngang nhau, cơ cấu kinh tế với những ngành sản xuất và dịch vụ xã hội giống nhau.
 
Cả hai cũng nhận được nguồn viện trợ từ nước ngoài như nhau. Vậy mà, ba mươi năm sau, Hàn Quốc trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn hàng thứ 14 trên thế giới với những tổ hợp liên quốc gia, những ngành sản xuất đòi hỏi kỹ thuật cao cấp, có khả năng cạnh tranh với bất cứ một quốc gia tân tiến nào khác.
 
 Hơn nữa, về chính trị, Hàn Quốc cũng càng ngày càng dân chủ hóa, và tính chất dân chủ ấy cũng càng ngày càng ổn định, càng vững chắc. Trong khi đó, tình hình Ghana thì khác hẳn: thu nhập trên đầu người ở Ghana hiện nay chỉ bằng một phần mười lăm (1/15) của Hàn Quốc.
 
 
Tại sao có sự khác biệt như vậy? Dĩ nhiên, có nhiều lý do, nhưng theo Huntington, lý do quan trọng nhất là văn hóa: Hàn Quốc đề cao sự cần cù, tinh thần kỷ luật, dám đầu tư, coi trọng giáo dục và tổ chức. Văn hóa Ghana, ngược lại, nhắm vào những giá trị khác.

Cũng theo Huntington, vào đầu thập niên 1990, nhiều học giả khác, với những đề tài nghiên cứu khác nhau, cũng đi đến kết luận tương tự: tất cả đều tập trung vào văn hóa và xem văn hóa như một trong những yếu tố chính quyết định sự phát triển cả về phương diện kinh tế lẫn chính trị của các quốc gia trên thế giới.

Thật ra, không phải trước đây người ta không quan tâm đến văn hóa. Có. Ngay từ thập niên 1940 và 1950, nhiều học giả nổi tiếng như Margaret Mead, Ruth Benedict, David McClelland, Gabriel Almond, Sidney Verba, Lucian Pye và Martin Lipset đã xem văn hóa như một yếu tố nòng cốt để tìm hiểu xã hội và những sự phát triển về kinh tế cũng như về chính trị.
 
 
Tuy nhiên, khuynh hướng này tự dưng nhạt và yếu hẳn trong mấy thập niên kế tiếp. Nó chỉ hồi sinh vào giữa thập niên 1980, chủ yếu với công trình nghiên cứu của Lawrence E. Harrison, “Kém phát triển là một tình trạng tâm thức – trường hợp châu Mỹ La Tinh” (Underdevelopment Is a State of Mind – The Latin American Case). Trong đó, ông chứng minh ở hầu hết các quốc gia châu Mỹ La Tinh, văn hóa là trở ngại đầu tiên của sự phát triển.
 
 
 Thoạt đầu, cuốn sách gây ra nhiều phản đối dữ dội. Tuy nhiên, về sau, dần dần người ta nhận ra cách phân tích của Harrison có nhiều sức thuyết phục. Từ đó, không những các nhà chính trị học mà rất nhiều học giả ở nhiều ngành khoa học xã hội khác nhau cũng đều quan tâm đến yếu tố văn hóa khi tìm cách giải thích các hiện tượng hiện đại hóa, dân chủ hóa, các chiến lược quân sự cũng như cách hành xử của các nhóm sắc tộc trên thế giới. Giới nghiên cứu gọi đó là “bước ngoặt văn hóa” (cultural turn) trong học thuật.

Trong bài “Sẽ có nhiều nước trở thành dân chủ?” (Will More Countries Become Democratic?) đăng trên tạp chí Political Science Quarterly, số 99, năm 1984, Huntington phân tích nhiều khía cạnh, trong đó có khía cạnh văn hóa như những tiền đề của dân chủ. Ông nhắc lại một nhận định đã được nhiều người nêu: tình hình dân chủ tương ứng với các tôn giáo lớn trên thế giới.
 
 
 Tất cả các quốc gia có nhiều người theo đạo Tin Lành (đặc biệt ở Mỹ và Âu châu, trừ Đông Đức) đều là nước dân chủ. Ở những nước theo đạo Công giáo, bức tranh dân chủ ít thuần nhất hơn: ở Âu châu, nói chung, những nước Công giáo dân chủ xuất hiện muộn hơn những nước theo đạo Tin Lành; ở châu Mỹ La Tinh, dân chủ càng xuất hiện muộn và thường đối diện với nhiều bất ổn.

Ở các nước theo Hồi giáo, dân chủ lại càng gặp khó khăn. Theo thống kê năm 1984, trong số 36 quốc gia Hồi giáo chiếm đa số, 21 quốc gia hoàn toàn không có tự do, 15 quốc gia tương đối tự do, và chỉ có một quốc gia duy nhất là thực sự tự do. Tương tự, phần lớn các quốc gia theo Nho giáo và Phật giáo đều độc tài, ngay cả ở những nơi kinh tế phát triển khá cao như Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore. Tại sao có những sự khác biệt ấy? Theo Huntington, “cả hai khía cạnh học thuyết và cấu trúc của tôn giáo có thể có vai trò nhất định.”

Xin mở ngoặc ngay để nói thêm về nhận định trên của Huntington: Từ năm 1984, năm Huntington xuất bản bài báo trên, trên thế giới đã có một số thay đổi. Thứ nhất, số lượng các quốc gia Hồi giáo được dân chủ hóa không thay đổi mấy.
 
 Ngoài Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey), chỉ có Indonesia là thực sự đang trong quá trình xây dựng dân chủ; còn ở các nước, ngay cả những quốc gia rất giàu có nhờ dầu lửa, dân chủ vẫn chỉ là một mơ ước.
 
Thứ hai, ba quốc gia Nho giáo và Phật giáo được Huntington nhắc đến, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore, đều, với những mức độ khác nhau, đã được dân chủ hóa. Người ta giải thích hiện tượng này như sau: tiến trình dân chủ hóa ở đó xuất phát từ lý do kinh tế hơn là văn hóa. Nói cách khác, luận điểm chính của Huntington vẫn có giá trị: ảnh hưởng tiêu cực đối với dân chủ của Nho giáo ít hơn là Hồi giáo.

Vượt ra ngoài phạm vi tôn giáo, trong cuốn Atlas of Pre-colonial Society (1999), Hans-Peter Muller nêu lên ba yếu tố văn hóa ảnh hưởng đến tiến trình dân chủ hóa: tính chất đa dạng về ngôn ngữ và sắc tộc, hệ thống gia đình và gia tộc, và ưu thế của nam quyền. Nói chung, quốc gia nào càng có nhiều sắc tộc và nhiều ngôn ngữ càng khó giao tiếp với nhau, do đó, những điểm chung trong quan niệm về giá trị giữa các công dân càng ít; hậu quả là nền pháp trị càng bấp bênh, cơ sở để xây dựng một xã hội dân sự và dân chủ càng hiếm hoi.
 
 
Về vai trò của gia đình và gia tộc cũng vậy: ở quốc gia nào chế độ đại gia đình càng mạnh và càng phổ biến, sự liên kết và tin cậy giữa các thành viên ngoài gia đình và gia tộc càng trở thành khó khăn, sự phát triển của dân chủ, do đó, cũng sẽ càng chậm. Về vai trò của nam giới cũng vậy nữa: ở đâu nam quyền càng thống trị, người ta càng tìm cách củng cố cơ chế chính trị có lợi nhất cho họ, nghĩa là loại trừ phụ nữ và phản dân chủ.

Wolf Linder và Andre Bachtiger, trong bài “What drives democratisation in Asia and Africa”, sau khi so sánh tình hình chính trị ở nhiều quốc gia khác nhau, phần nào bác bỏ quan điểm ấy: Họ không tin là tính chất đa dạng về sắc tộc và ngôn ngữ cũng như vị thế nam quyền là những sự cản trở đối với tiến trình dân chủ hóa.
 
 
 Tuy nhiên, họ thừa nhận là tinh thần gia tộc là một trở ngại chính: nó đi ngược chiều với tinh thần dân chủ. Trong khi dân chủ dựa trên sự liên kết và tin cậy giữa các thành viên trong xã hội, tinh thần gia tộc lại muốn chỉ giới hạn điều đó trong phạm vi những người cùng máu mủ với nhau mà thôi (2).

Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu cũng dùng văn hóa để giải thích con đường cách mạng dân chủ đầy gập ghềnh ở các nước Trung Đông và Bắc Phi trong năm 2011. Sau đó dân chúng ào ạt đổ xuống đường biểu tình làm sụp đổ hàng loạt các chế độ độc tài từng thống trị cả mấy chục năm, thoạt đầu, người ta ngỡ dân chủ đã xuất hiện và quyền tự do được tôn trọng. Nhưng một năm đã trôi qua, những biến động diễn ra tại các quốc gia ấy cho thấy dân chủ vẫn còn là một lý tưởng và một ước mơ xa vời.

Vời vợi.

***
Chú thích:

  1. Lawrence E. Harrison (2006), Developing Cultures – Case Studies, Hoboken: Routledge, tr. 253.
  2. Đăng trên European Journal of Political Research, số 44, năm 2005, tr. 861-880.

 

 

__._,_.___

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin buổi sáng-12/11/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link