Tuesday, December 31, 2013

Tam thu dau nam cua TS NGUYEN VAN LUONG

 
Ngày 01 tháng 01 năm 2014

Kính thưa Quý vị và các Bạn,
Nhân dịp đầu năm Giáp-Ngọ, tôi xin cầu chúc tất cả quý vị được an-lành, hạnh phúc, thịnh vượng, và luôn thành công, và quan tâm suy nghĩ thêm đến Đất Nước Việt Nam thân-yêu của chúng ta.
Tôi cũng xin nhân dịp này, chia xẻ tâm tình với quí vị về Đất Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Với niềm tin mới, động lực mới, chúng ta hãy cùng nhau quyết tâm giải thể chế đó cộng sản Việt Nam hiện tại để mang lại sự thịnh-vượng, an bình cho hơn 90 triệu dân tộc Việt Nam đang đau khổ.   



Quan thầy của CSVN là Trung Cộng (TC) đang bị áp lực nặng nề về quân-sự, kinh-tế, chinh-trị, và xã-hội... Những thay đổi, những biện pháp mạnh đang được thi-hành cấp tốc bởi lãnh tụ Tập-Cận-Bình và Lý Khác-Cường... nhưng đã quá trễ! Qua những dấu diếm bưng bít, tới nay thì 22/24 kỹ-nghệ của TC đang thất-bại, không thể sửa đổi trong ngắn hạn. Hoa-Kỳ đang đập thẳng vào nền kinh tế TC bằng mãi lực (buying power). Trong kế hoạch này, Hoa Kỳ đã thả lỏng cho 90% hàng tiêu thụ của dân chúng (consumer products) được chế tạo ở ngoại quốc. Do đó, kể từ năm 2008 tới nay, ở Hoa Kỳ có khoảng 70 triệu người thất nghiệp, phải sử dụng tiền để dành, tiền trợ cấp, tiền hưu trí... để sinh sống. Chính vì thế, sự thất nghiệp to lớn của HK đã gây ra một sự khủng hoảng kinh tế thế giới, trực tiếp đến những quốc gia bán hàng tiêu thụ cho người dân HK.



Những người Mỹ thất nghiệp này có khuynh hướng chỉ mua thực phẩm và nhu yếu phẩm cho gia đình, ảnh hưởng tâm lý đến toàn quốc;  Họ bớt sắm sửa, khiến thế giới bị khủng hoảng kinh tế, và TC bị thiệt hại nặng nề, vì TC là quốc gia sống nhờ xuất cảng, tuỳ thuộc vào hàng hoá bán được vì sự chi tiêu của dân Mỹ hay Tây Âu. Nạn thất nghiệp tại TC đang gia tăng, mà không có chương trình trợ cấp, không có tiền để dành vì đồng lương thấp kém. Cho nên, sự kiện các nước lớn như Hoa-Kỳ, Nhật -Bản và các quốc gia Âu Châu rút ra khỏi TC khiến nền kinh-tế TC càng thêm bi-đát.


Dân TC nổi dậy hàng ngày, hàng tuần, tạo thêm xáo trộn xã-hội và kinh tế. Phe chính trị đang thanh trừng lẫn nhau. Họ thành-lập Hội Đồng An-Ninh Quốc-Gia để đàn áp dân, nhưng tiên đoán là sẽ bất lực vì sự tổng nổi dậy của toàn dân. Lạm phát gia tăng, nợ nần chồng chất từ chính quyền địa phương đến trung ương, khiến ngân-hàng ngoại quốc đang có chiều hướng không cho Trung Quốc muợn tiền để phát-triển và làm ăn nữa. Về mặt quân sự thì Trung Quốc đang bị Hoa-Kỳ bao vây với lực lượng Hải Quân với 6 hạm-đội hùng mạnh, mà nửa lực lượng quân sự TC cũng không thể chống được 1 hạm đội của Hoa-Kỳ.


Nói chung, nhà nước Trung Cộng đang đối diện với biết bao khó khăn chập chùng, chắc chắn sẽ sụp đổ như Liên bang Sô Viết vào thập niên 1990s... Đông đảo "đại gia" TC đang ồ ạt tẩu tán tài sản ra ngoại quốc.  Đa số họ định cư tại Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi, Anh Quốc. Vùng Irvine, California là "làng" định cư của Tàu cộng. Họ mua nhà tại vùng này bằng bất cứ giá nào, trả tiền mặt, để được định cư theo luật định là "có tài sản" quy định bởi sở Di-Trú Hoa-Kỳ.  Ti số đại gia TC quyết định xa quê hương vào năm 2014 đã được tiên đoán là sẽ gấp ba (3) lần năm 2013


Trong khi đó thì bọn lãnh đạo CSVN ngu xuẩn, muốn cứu sống chế độ, giúp cho Trung Cộng bằng tiền bạc thu được của cộng-đồng người Việt hải ngoại qua hình thức mậu dịch: Một quốc gia Việt Nam nhỏ bé 90 triệu người, mà mua hàng TC hàng năm cỡ 30 tỉ dollars, bán cho Trung Cộng thì 10 tỉ, một con số thâm thủng, làm kiệt quệ nền kinh tế tài chánh của Việt Nam.
Trong quyết tâm giật sập chế độ CSVN đang khủng khoảng, chúng ta hãy đồng lòng thi hành vài biện-pháp khả thi, trong tầm tay mình, ai ai cũng làm được: xiết chặt tài chánh của Việt cộng. Xin đề nghị đồng bào như sau:


1) Hạn chế tối đa, KHÔNG gửi tiền về Việt Nam vài tháng, dù chỉ $200, $300 mỗi tháng.
Tương tự như kế hoạch của Hoa Kỳ "giảm mãi lực" đang áp dụng cho nên kinh tế TC, người Việt hải ngoại cũng cần tiếp tay làm giảm "mãi lực" tại Việt Nam, khiến nền kinh tế CSVN thêm èo uột, thúc đẩy toàn dân phải nổi dậy đồng loạt, cùng với sự yểm trợ của tư-bản quốc tế. Việt Nam chưa nổi dậy đồng loạt và mãnh liệt như các nước láng giềng Cam Bốt, Thái Lan, Burma (ngoại trừ dân oan không tài sản, tiền của). Mạng lưới cán bộ công an Việt cộng còn tồn tại được, chính là do tiền bạc của người Việt hải ngoại gửi về Việt Nam!


Cuộc nổi dậy đồng loạt như thế sẽ khiến guồng máy Việt cộng tê liệt! Sẽ không có một lực lượng nào đàn áp nổi! Đây là kinh nghiệm của Đông Âu và Liên Bang Sô Viết 30 năm trước đây! Khi chúng ta không gửi tiền về thân nhân tại Việt Nam, thì Việt cộng sẽ không có tiền để trả nợ tiền lời hàng năm là khoảng 5 tỉ mỹ kim. Thế giới sẽ tuyên bố CSVN hết tiền, và chế độ Việt cộng  sẽ sụp đổ với sự yểm trợ hữu hiệu của quốc tế, chính vì chế độ Việt cộng không có tiền trả nợ cho họ mỗi tam cá nguyệt.

Khi chúng ta không gửi tiền về Việt Nam, thân nhân chúng ta sẽ hy sinh hơn một chút, sống thắt lưng buộc bụng hơn, tuy cực khổ nhưng không sao đâu! Người dân quen sống chịu đựng giỏi hơn chúng ta tưởng! Người miền bắc đã sống dưới chế độ Việt cộng hơn 70 năm, sức sống của họ vẫn mạnh mẽ! Ngược lại, thân nhân sẽ càng khỏe mạnh, vì không dư dã tiền bạc mua đồ ăn đầy hoá chất của TC nhập cảng vào Việt Nam. Ngược lại, họ sẽ trồng rau lấy để ăn, đi câu cá để sống, và chỉ trong vòng một thời gian ngắn mà thôi. Chúng ta cần phải đồng lòng, đừng gửi tiền về Việt Nam khoảng 6 tháng, thì chế độ Việt cộng sẽ sụp đổ mau hơn!
Nhìn chung, kinh-tế Việt cộng đã kiệt quệ trầm trọng, hệ thống ngân hàng sụp đổ, chế độ gặp khó khăn thu thập đô-la để trả nợ. Bất động sản thì tiêu tùng. Doanh nghiệp của chế độ Việt cộng đang phá sản với tỉ lệ nhanh khủng khiếp. Thất nghiệp gia-tăng. Dù có việc làm, tiền lương không theo kịp sự lạm-phát của một nền kinh-tế bắt chước bọn Tàu chẹt phương bắc. Xã hội thì trụy lạc, suy đồi, trác táng, thanh niên sinh viên, học sinh không thấy được tương lai.  Vậy mà chế độ CSVN không có khả năng xây dựng đất nước, nhưng ngược lại, dùng từng công an, du đảng để củng cố quyền lực mà thôi.  Xin nghe LM Nguyen Van Khai noi (hay vao Web site: WWW.YOUTUBE.COM search NGUYEN VAN KHAI)  http://www.youtube.com/watch?v=rScQkou9F9I
Do đó, đây là cơ hội tốt nhất mà chúng ta cần hành động ngay. Cần lập tức giảm thiểu gửi tiền về thân nhân tại Việt Nam. Sinh viên Việt Nam đi du học, không thèm trở về nước, thà ở lại trau giồi học vấn, thấy rõ Việt Nam như thế nào rồi.
Tiền giảm, bọn công an không còn chỗ áp bức dân, đòi hối lộ. Họ sẽ tan rã. Bọn công an chỉ bám vào dân kiếm sống qua hình thức hối lộ và tham nhũng mà thôi, chứ họ chẳng trung thành với đảng. Nếu nạn hối lộ và tham nhũng không còn hiệu quả, thân nhân chúng ta cũng không còn bị phiền phức, theo dõi (vì có tiền). Bọn công an khó có thể đứng đầu đường xó chợ, nạt nộ dân kiếm tiền. Giảm gửi tiền về thân nhân, thì giảm "mãi lực" mua bán, tiền không chạy, kinh tế ngưng trệ, cùng tắc biến, biến tắc thông, dân chúng khắp nơi sẽ dễ dàng đồng loạt nổi dậy!


2) Chúng ta phải giảm thiểu du-lịch đi Việt-Nam: Việt cộng tuyên truyền Việt-Kiều là khúc ruột ngàn dậm của bác Hồ (chúng ta là khối người tị nạn cộng sản, không phải Việt-Kiều). Khi về Việt Nam, họ phải mua chiếu khán (VISA), vào phi-trường phải hối-lộ để được yên thân. Ra hải ngoại, những kẻ du lịch này có thể hành xử như tay sai, gia nô cho chế độ Việt cộng. Họ có thể tuyên truyền, bưng bít cho chế độ Việt cộng. Họ có thể hoạt động cho Việt cộng để thủ lợi cá nhân ( http://youtu.be/6YQGSfph4nw ).
Như vậy thì thật là nhục nhã, ích kỷ! Họ có thấy chăng đồng bào quốc nội đang đấu tranh, đang bị tù đầy khổ cực. Trong khi đó, Việt cộng tuyên bố với quốc tế là Việt Nam có tự do, có nhân quyền, tuyên bố rằng "người tị nạn Việt Nam là những người bất đồng chính kiến, nhưng chế độ Việt cộng này nhân đạo cho họ trở về thăm thân nhân, đâu có bắt bớ người tị nạn, chỉ bắt bớ tội phạm thôi".
Du lịch là phản quốc, là vô ý thức. Càng làm tăng thêm những bắt bớ, tù đày, đàn áp những người dũng cảm đấu tranh ở quốc nội. Họ ích kỷ, họ tiếp tay cho bọn Việt cộng nô lệ Tàu cộng để đồng hoá Việt-Nam không cần gươm súng. Nếu những người du lịch Việt Nam là cựu quân nhân, thì chính là đâm vào lưng chiến sĩ đồng đội của mình, làm ô uế màu cờ sắc áo Việt Nam Cộng Hòa mà họ từng phục vụ và bảo vệ. Họ là hư hỏng chính nghĩa chống cộng sản.
Nếu nghĩ về tình người Việt Nam, người du lịch có thể đến Houston (TX), Westminster, San Jose (CA), hoặc đi chơi ở Canada như Vancouver BC, Toronto (Canada)  ... là những nơi đông đảo người Việt cư ngụ, thực phẩm an toàn (không mất vệ sinh, không có thức ăn uống giả hiệu đầy hoá chất như ở Việt Nam). Họ có thể thư dãn vui chơi (không bị cướp bóc, ô nhiễm, lường gạt, nguy hiểm... như ở Việt Nam). Họ được hưởng một nền y-tế văn minh, được cứu cấp an toàn khi ngã bệnh (không có hối lộ, không lạc hậu thiếu thốn, thiếu khả năng, thiếu kỹ thuật như ở Việt Nam). Phải chăng về Việt Nam là để thoả mãn chơi bời hí hố đĩ điếm?
Tư cách những người du lịch về Việt Nam còn thua xa bọn tàu đỏ Trung cộng. Chúng vào Việt Nam tùy tiện, không cần mua chiếu khán, không bị công an kiểm soát. Bọn Tàu chẹt nầy là những kẻ thất nghiệp, tội phạm, du đảng kiếm sống, vượt ngục tù đầy, những kẻ sống đầu đường xó chợ. Đây là sự nhục nhã lớn của những kẻ tị nạn Việt cộng trở về du lịch Việt Nam. Họ thiếu suy nghĩ vậy sao! Lẽ nào họ chỉ nghĩ đến mình thụ hưởng, bất cần 90 triệu người đau khổ trên Đất Nước?

3) Chúng ta phải giảm thiểu tiêu thụ hàng hoá của chế độ Việt cộng xuất cảng đến nơi mình cư ngụ. Hàng Việt Nam tới Hoa Kỳ có sự kiểm soát lỏng lẻo của Foods & Drugs Administration (FDA), vì là hàng hóa của nhóm Ethnics, ít được bán tại các siêu thị của Hoa Kỳ.
Người Việt tị nạn có tỉ lệ bệnh viêm gan khá cao, một phần lớn do bởi đi du-lịch Việt Nam, ăn uống và sử dụng những thứ mất vệ sinh và bị ô nhiễm. Có những cơ sở kinh tài tại Việt Nam vì lợi nhuận, dù có hại cho sức khoẻ, như thuốc lá rượu mạnh, thức ăn biến chế độc hại. Tại hải ngoại, chúng ta có thể tẩy chay hàng Trung Quốc và Việt Nam, hãy mua hàng hoá an toàn tại siêu thị địa phương. Thí dụ, dùng Spaghetti hay Angel Hair thay cho Bún, hoặc Fettuccine thay thế bánh phở. Dùng gạo Fancy #1 thay gạo Jasmine. Rẻ, bổ dưỡng, vệ sinh, an toàn.

4) Chúng ta cũng cố gắng giảm đóng góp cho chùa chiền, nhà thờ ở Việt Nam.
Có những tổ chức bất vụ lợi do người Việt tổ chức, móc nối với Việt cộng để làm ăn, chuyển tiền. Việt cộng hứa hẹn với các tu sĩ là sau này họ sẽ được cấp đất đai tại Việt Nam để xây chùa tu học tu hành tại những ngôi chùa quốc doanh to lớn tại Việt Nam.

40 năm qua, cộng đồng người Việt tị nạn vừa đấu tranh chống cộng sản, vừa gởi tiền và nhởn nhơ du lịch nuôi sống chế độ Việt cộng. Họ gửi tiền về Việt Nam, du-lịch về Việt Nam,  đóng góp cùng dường các chùa chiền quốc doanh hay nhà thờ ở quốc nội. Tại hải ngoại, họ mua bán hàng ở siêu thị Việt Nam, tích cực đóng góp cho những tổ chức kinh tài gọi là thiện nguyện vô vụ lợi.
Đối với người tị nạn, với tiền lương cao, từ những quốc gia văn mình trù phú, vài trăm bạc, không đáng giá là bao. Nhưng số tiền này, người trong nước phải làm cực khổ cả tháng mới có được. Chính vì thế, người tị nạn đã vô tình tạo một "mãi lực" hữu hiệu nhất, khiến dân Việt trong nước ăn chơi thoả mãn, không thể nổi dậy đồng loạt như những nước khác đã làm, vì có cơm no áo ấm, ăn uống đầy đủ.
Chúng ta phải ý thức những việc chúng ta đang và sẽ làm.
Giờ đây, CSVN đang ở bên bờ vục thẳm. Người Việt ti nạn chúng ta cần đồng lòng:
(1) không gửi tiền về Việt Nam
(2) không du lịch Việt Nam
(3) không đóng góp cho các chùa chiền nhà thờ Việt Nam
(4) không đóng góp cho các tổ chức vô vụ lợi cho Việt Nam và
(5) không mua hàng từ các siêu thị Việt Nam
Thì trong vòng 6 tháng, nhà nước Việt cộng sẽ không có tiền để trả nợ cho những món nợ khổng lồ, sẽ bị thế giới tuyên bố là Việt Nam không có tiền nữa. Và rồi chế độ Việt cộng sẽ mau chóng sụp đổ như những quốc gia Đông Âu và Liên bang SôViết.
Hoa Kỳ không coi Việt Nam là ưu tiên hàng đầu, vì Hoa Kỳ quan niệm rằng khi Trung Cộng sụp đổ thì Việt cộng sẽ phải sụp đổ theo. Hơn thế nữa, vì danh dự và trách nhiệm là người ViệtNam, chúng ta phải hành động cho đất nước của chính chúng ta. 


Kính thưa quí vị:


Khi Việt Nam thay đổi, hết chế độ cộng sản, chúng ta lập tức có cơ hội cùng các quốc gia dân chủ hiệp lực xây dựng Đất Nước, dễ dàng phục hưng nước Việt Nam mọi mặt, nhất là bằng khả năng tài chánh & tài năng của khối người Việt hải ngoại.Với sự đóng góp của hàng trăm ngàn chuyên gia Việt Nam tại hải ngoại (không còn ở trong giai đoạn kiếm kế sinh nhai nữa, mà là cạnh tranh với dân bản xứ để tiến thân). Rất nhiều trong số này đang nắm quyết định điều hành nhiều công ty và cơ sở lớn tại Hoa Kỳ). Do đó, chỉ cần từ 6 đến 10 năm, nước Việt Nam sẽ dễ dàng trở thành một quốc gia hùng mạnh số 1 của Đông Nam Á Châu.
Người Việt hải ngoại chúng ta chạnh lòng thương 90 triệu người dân trên Đất Nước đau khổ dưới chế độ Việt cộng. Ta cần phải ngày đêm tưởng nghĩ tới dân tộc Việt Nam nhiều hơn nữa. Nếu không nghĩ đến việc giải thể chế độ cộng sản, nếu không nghĩ tới tương lai tươi sáng của Đất Nước Việt-Nam, phải chăng tập thể người Việt hải ngoại sẽ bị coi là lũ người ích kỷ, ươn hèn? Hay là những loại người gia nô, nô lệ cho chế độ Việt cộng, chỉ vì quyền lợi riêng tư?
Năm mới, nghĩ đến tương lai Việt Nam THỰC SỰ CÓ NHÂN QUYỀN, TỰ DO, THỊNH VƯỢNG và VĂN MINH và văn minh hơn, trân trọng kính chúc quí vị và các bạn, đầy nghị lực trong niềm tin sáng suốt,và hành động tích cực để thay đổi Việt Nam!



Nguyen Van Luong, PhD,                                                                                                                                                                                                                                                                                                            Florida, 2014


    
Bonne Année - Happy New Year

  Chuùc  Möøng  Naêm  Môùi

Jukebox      
                                                                                  SAIGONOCEAN.COM
                      


 




VN ĐAI HỌA DIỆT VONG CẬN KỀ,QUA SỰ KHỦNG BỐ CỦA TRUNG CỘNG, TỪ CÁC ĐẬP THỦY ĐIỆN



--
Kính Chuyển
MG
 VN ĐAI HỌA DIỆT VONG CẬN KỀ,
QUA SỰ KHỦNG BỐ CỦA TRUNG CỘNG, TỪ CÁC ĐẬP THỦY ĐIỆN
MƯỜNG GIANG

            Năm 2006, Cao Guangjing, phó giám đốc quản lý công trình thủy điện của Hoa Lục, đã tuyên bố với báo chí trong và ngoài nước, rằng Trung Cộng sắp hoàn thành Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp, lớn nhất thế giới, trên sông Dương Tử và hãnh diện xác nhận : Ðây là một kỳ quan cũng như biểu tượng kinh tế của Tàu, trong thế kỷ XXI.

            Có điều lạ trong lần khoe tốt này, ngay chính đương sự cũng không dám khẳng định, công dụng của đập thủy điện trên tốt xấu thế nào, mà chỉ nói bâng quơ rằng phải chờ tới những ba chục năm sau, hay đúng hơn phải coi nó có thể ngăn chống được sự tàn phá hằng năm của lũ lụt thường trực trên sông Dương Tử, lúc đó mới có thể kết luận.

            Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lý Trường Thành, xưa nay ai cũng nói do Tần Thủy Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa giáng sinh, từ lâu được đanh giá là một công trình kiến trúc vĩ đại, chẳng những của nước Tàu, mà còn là của nhân loại. Tuy nhiên huyền thoại này, vào năm 1969 đã bị đánh đổ, bởi Arthur Waldron , giáo sư khảo cổ tại Trung tâm nghiên cứu về Ðông Á, thuộc Trường Ðại học Harvard (Hoa Kỳ).

            Trong tác phẩm ‘ The great wall of China ‘ , trình bày những nghiên cứu lịch sử và khảo cổ tại chổ sau nhiều năm đi khắp nước Tàu, cuối cùng tác giả đã khẳng định rằng Vạn Lý Trường Thành, đã tồn tại suốt bao chục thế kỷ qua, thực chất chỉ là huyền thoại. Theo ông, từ năm 700 trước Tây lịch tới nay, khắp nước Tàu đã có rất nhiều thành lũy được xây dựng rãi rác mọi nơi, mọi thời. Nên câu chuyện bức tường thành được kiến trúc duy nhất thời nhà Tần, là không đúng sự thật. Ðể chứng minh,tác giả dựa vào lịch sử Trung Hoa, từ thời nhà Hán cho tới thế kỷ thứ XIII, khi Nhà Nam Tống bị quân Mông Cổ xâm lăng và tiêu diệt, cho thấy Tàu lúc đó không hề có một bức tường thành nào cả, nên đã không thể ngăn cản được vó ngựa trường chinh của Thành Các Tư Hản ở phương Bắc. Ngoài ra ông còn dựa vào các tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Hoa qua bao thời dại, xác nhận các văn nhân lúc đó, chẳng hề xử dụng tới danh từ nào đồng nghĩa với ‘ The great wall’, mà Tây phương chỉ mới dùng sau này.

            Ngay đến tài liệu phòng thủ của nhà Minh (1368-1644), cũng không hề nhắc tới Vạn Lý Trường Thành. Mãi đến nửa thế kỷ thứ XVI, trước nguy cơ đe dọa của các dân tộc du mục phuơng Bắc như Mãn, Mông, Tạng.. đã làm cho các Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh, mới nghĩ tới việc xây dựng Trường Thành, mục đích phân biệt ranh giới địa lý và nhân vân của Trung Nguyên với các dân tộc trên. Ðó chính là hình ảnh mà người Tây phương đầu tiên đã mang tới cho thế giới bên ngoài, hồi thế kỷ XVIII và phổ biến tới ngày nay. Còn huyền thoại về Vạn Lý Trường Thành do Tần Thủy Hoàng xây dựng, theo Waldron cũng không phải phát xuất từ sách vở của người Tàu, mà được Mao Tôn Cương, hồi thế kỷ XIX do các nhà thám hiểm và khảo cổ Châu Âu. Riêng nhũng ghi chú về Trường Thành, trên bản đồ mà Bắc Kinh phổ biến hiện nay, cũng là sản phẩm của các Giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, thuộc Dòng Tên, vào thời Nhà Thanh (1644-1912) . Tóm lại, theo các nhà nghiên cứu trong hội nghị quốc tế vừa được tổ chức tại Bắc Kinh, thì Vạn Lý Trường Thành , phần lớn được xây dựng từ thời Nhà Minh. Còn quan niệm cho rằng nhửng thành lũy thời Chiến Quốc, được nhà Tần nối lại với nhau, thành bức Trường Thành, ngày nay kể cả người Tàu vẫn nghi ngờ về phương diện khảo cổ, còn các sử gia thì nói đây là sự giả định, vì không có tài liệu nào minh chứng.

            Nhưng đó là chuyện của nước Tàu, nó chỉ liên quan đến chúng ta, là liệu đập thủy điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử, có ảnh hưởng gì tới những đập thủy điện khác, mà Trung Cộng đã xây dựng trên thượng nguồn của sông MeKong và Hồng Hà,trong tỉnh Vân Nam, trước khi chảy vào lãnh thổ nước ta, được đánh giá như là một sự khủng bố trắng trợn, đối với vận mệnh của Dân tộc VN. Ðây là nguy cơ trước mắt, được cả thế giới thấy rõ, cho dù Ðảng VC đang đô hộ cả nước, vì sợ Tàu, nên đã cố tình bưng bít nội vụ một cách công khai.  

            Bao chục năm qua, người Việt trong và ngoài nước đã căm thù đến tận xương tuỷ, trước những sự việc Trung Cộng xâm lăng cưởng chiếm lảnh thổ của chúng ta. Nhưng đó cũng chỉ là một trong ngàn muôn nổi buồn của thân phận nhược tiểu VN, trong biển máu lệ nước mắt thống hận. Bởi vì cùng lúc, giặc Tàu còn gây ra nhiều cuộc khủng bố khác, mà tàn khốc nhất là đang xữ dụng những đập thủy điện trên các dòng sông phat nguyên trên đất Tàu, chảy vào VN, như một thứ vũ khí môi sinh chiến lược,liên quan  tới sự sống còn của dân tộc.

            Ai có thể ngăn được sự phẩn uất , trước lời tuyên bố xấc xược và ngạo mạn của Wang Xiaodong, chuyên viên nghiên cứu của Trung Cộng, về việc khai thác sông Mekong ‘ Ðây là đất nước Tàu, nên muốn làm gì cũng được , ai dám ngăn cản ‘.

            Mới đây báo chí tại Trung Cộng đã đồng loạt đăng tải sự lên tiếng của các chuyên gia môi trường tại Hoa Lục, trong đó có Giáo sư Ðại học về môn đia chất là Yuan Aiguo. Theo họ thì tình trạng ô nhiễm đang xãy ra trên sông Dương Tử rất nguy kich, ngoài việc gây bệnh ung thư vì nước uống, dòng sông có thể chết trong 5 năm sắp tới, do việc đổ xuống đây tất cả các loại rác rưởi, trong đó có hóa chất độc hại và cả xác tàu thuyền bị chìm. Hiện 80% nguồn nước ngọt của Thượng Hải là do sông Dương Tử cung ứng (80% thiếu vệ sinh và có chứa hoá chất). Dù Tàu Cộng cố bưng bít nhưng thảm trạng cũng đã bị phanh phui trên dòng sông Tùng Hoa.

            Xem như vậy làm sao các dòng sông thiêng của VN như Hồng Hà, Ðà Giang, Lô Giang và quan trọng nhất là sông Cưu Long, đều phát xuất từ bên Tàu, chảy qua tỉnh Vân Nam, trước khi vào lãnh thổ chúng ta, chắc chắn cũng đang mang chung số phận của sông Dương Tử. Có điều chừng nào VC mới dám công khai lên tiếng phản đối Tàu và thông báo tình trạng ô nhiểm nguy kịch chết người, để đồng bào cả nước biết., một sự kiện đáng làm trước hết hơn là phung phí ngân khố quốc gia, để lãnh tụ và ca sĩ quốc doanh xuất ngoại làm trò cười cho đồng bào tị nạn khắp nơi trên thế giới.

1- ÐẬP THỦY ÐIỆN : VŨ KHÍ MÔI SINH CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG .

            Giang Nam là tên gọi của lưu vực hạ nguồn sông Dương Tử, do nhà Thanh (1644-1912) đặt ra, gồm các tỉnh Giang Tây, Giang Tô và Triết Giang. Miền này thời Ðường,Tống được gọi là Giang Châu, nguyên là đất đai của Bách Việt (Ngô Việt, Mân Việt,Âu Việt và Lạc Việt..), thủ công tinh xảo, dân trí thanh lịch, non nước hữu tình.

            Sông Dương Tử còn có tên là Trường Giang, đứng thứ ba trên thế giới sau sông Amazone (Nam Mỹ) và sông Nil (Ðông Phi), có chiều dài 6380km, phát nguyên tại vùng rừng núi Thanh Hải (Tây Tạng), từ trên độ cao 6600m, chảy qua phía tây Tứ Xuyên, xuống phía bắc Vân Nam, rồi đổi hướng chảy ngược lên phía đông Tỉnh Tứ Xuyên , ngang qua các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Giang Tô và ra Biển Ðông tại Hoàng Hải. Nếu tính luôn các phụ lưu, chi nhánh chằng chịt khắp miền Hoa Trung, thì chiều dài của sông Dương Tử lên tới 80.000 km, với hơn 12 triệu dân, gồm 55 sắc tộc, sinh sống ở hai bên bờ sông với đủ nghề.

            Trên thượng nguồn, sông Dương Tử có 3 khe núi lớn gồm 25 thác đổ, nhiều nơi nước chảy xiết nhất là vào mùa mưa, khiến cho các ghe thuyền xuôi ngược dễ bị chìm vì đá ngầm. Ðó là hẽm Kingtanxia dài 5km, hẽm Wuxia dài 25km và hẽm Xilingxia dài 47km., tuy ngày nay đã được nạo vét nhưng tàu qua lại vẫn phải có hoa tiêu hướng dẫn để tránh nguy hiểm.

            Lưu vực sông Dương Tử hiện nay có hơn 400 triệu người sinh sống. Ngoài ra vùng này còn có 5 hồ lớn, thường đước nhắc nhớ trong các tác phẩm thơ văn của Trung Hoa . Phân Dương Hồ, chứa nước ngọt , rộng tới 5000 km2, nằm trong tỉnh Giang Tây, gần thành phố Vũ Hán. Ðộng Ðình Hồ có các sông Tiêu và Tương đổ nưóc vào và thông với Trường Giang qua sông Hán. Hồ nằm phía tây tỉnh Hồ Nam,nổi tiếng với Nhạc Dương Lầu, măng tre Thần Châu và quít ngọt Ðộng Ðình Hồng. Thái Hồ chứa nước mặn nằm giữa hai tỉnh Giang Tô và Giang Tây. Sào Hồ và Tây Hồ .

+ ÐẬP THỦY ÐIỆN TAM HIỆP TRÊN SÔNG DƯƠNG TỬ :

            Tháng 12-1994, Trung Cộng chính thức khởi công xây dựng Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp (Three Gorges Dam), trên khúc sông Dương Tử , chảy trong tỉnh Hồ Bắc, vừa để khống chế nạn lụt hàng năm, đồng thời xây dựng một nhà máy thủy điện với công suất tổng cộng lên tới 12.000 MW. Ðể thực hiện công trình trên, đảng cộng sản đã đuổi hơn 1,5 triệu người dân bản địa, đồng thời làm xáo trộn sinh hoạt của 20 thành phố lớn nhỏ trong vùng.

            Tam Hiệp, địa điểm được chọn để xây dựng đập thủy điện, là tên một khúc sông Dương Tử dài hơn 200km, từ phía tây tỉnh Tứ Xuyên, chảy qua phía đông tỉnh Hồ Bắc, được coi như điểm nối của vùng thung lũng Tứ Xuyên với các đồng bằng miền Hoa-Trung, phía dưới hạ nguồn. Khúc sông này chảy qua ba hẽm núi lớn và 25 thác đổ. Theo nhận xét của nhiều bậc thức giả trong và ngoài nước, thì dự án Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp tuy đã được manh nha từ thời Dân Quốc, do Tôn Dật Tiên đề xướng. Nhưng bị các hội bảo vệ môi trường sinh thái địa cầu chống đối, vì nó sẽ hủy diệt vĩnh viễn cãnh quan thiên nhiên trong vùng, đồng thời xóa tên 140 thành phố lớn nhỏ, 4500 làng mạc, 30.000 ha đất trồng trọt, hằng ngàn di tích lịch sử và tiêu phí một ngân khoản khổng lồ, mà không chắc đạt được kết quả mong muốn.

            Với nước Tàu, từ trước tới nay sông Dương Tử là nguồn nước tưới cho cả khu vực đồng bằng Hoa Trung, miền đất cá và gạo, chiếm nửa tổng sản lượng của cả nước. Nhưng đồng thời sông Dương Tử cũng là tai ương ngàn năm của Hán Tộc, riêng trong thế kỷ XX lụt lội đã gây cho hơn 300.000 dân chúng trong vùng thiệt mạng. Giống như sông Mekong, sông Dương Tử cũng phát xuất từ Tây Tạng, chảy qua khu vực Tam Hiệp, trước khi vào thành phố Trùng Khánh, được coi như lớn nhất hiện nay tại Hoa Lục.

            Từ nhiều lý do, trong đó quan trong nhất cũng vẫn là mục tiêu chính trị,khiến cho Bắc Kinh đã nhắm mắt lao vào một công trình rất tốn kém về tiền bạc, sức người lẫn thời gian,gây ảnh hưởng nặng nề đến vấn đề tâm lý, khi đàn áp đuổi dân, phá hoại các công trình kiến trúc bao đời trong vùng. Thực hiện được đập thủy điện này, về quốc tế Trung Cộng sẽ hãnh diện có thêm một kỳ quan, sau Vạn Lý Trường Thành. Về kinh tế, Ðảng Cộng Sản nuôi hy vọng, nhờ nó giúp mức phát triển 11% hàng năm qua nguồn cung cấp điện cho công nghệ và sinh hoạt.

            Ðây là một cái đập khổng lồ , kinh phí dự chi tốn khoảng 30 tỷ đô la, thực hiện trong 14 năm. Chiều cao của dập 607 bộ, chiếm một diện tích hơn 1 dặm vuông., bao gồm một hồ chứa nước dài 370 dặm và một hệ thống khóa đặc biệt : Hút nước từ các nguồn nước khác khi thiều, cũng như xã nước vào mùa lụt, vừa giúp sự giao thông trên sông Dương Tử, đồng thời vét vơ nước từ các con sông khác, qua hệ thống kênh đào, để tưới cho các vùng đất khô hạn xa xôi ở phía tây.

            So với các đập thủy điện khác trên thế giới, dập Tam Hiệp không cao và rộng hơn nhưng lại trội nhiều về sức mạnh, với 26 Turbin mà trọng lượng mỗi chiếc 400 tấn/1 chiếc, sẽ tạo ra 18.200 magawatt điện, công suất tương đương với 18 nhà máy điện nguyên tử. Ðập này mạnh hơn các đập Itapu (giữa Brazil và Paraguy có công suất 12.600 megawatt ), dập Guri ở Venezuela có 10.300 megawatt, dập Grand Coulee ở Colorado của Mỹ có 6809 megawatt và đập Sayano Shushensk ở Nga với 6400 megawatt.

            Theo nhận xét của thế giới, Trung Cộng đã tốn hết 75 tỷ Mỹ kim cho công trình vĩ đại này (chứ không phải 19 tỷ như tuyên bố của đảng) . Vì mục tiêu chính trị, Trung Cộng không cần biết tới tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án, hầu như đều bị sự phê bình chỉ trích của các nhà đầu tư và tài chính quốc tế. Bởi thế nên không làm lạ khi nghe Phó giám đốc xây dựng đập là Cao Guangjing, nói rằng muốn biết đập có hoàn hảo hay không, phải đợi tới 30 năm sau mới thấy được.

            Chưa hết, Trung Cộng còn cho biết sau khi hoàn tất đập Tam Hiệp vào năm 2008, Ðảng lại tiếp tục xây thêm 10 đập khác trên thượng nguồn sông Dương Tử, nối tiếp vùng Tam Hiệp. Ðiều lo lắng nhất của người Tàu hiện nay, là làm thế nào để có thể giảm nhanh chóng một biển nước khổng lồ , luôn được chứa trong hồ với độ cao từ 512-574 ft, khi mùa mưa tới. Thãm kich về đập thủy điện Banqiao ở Hồ Nam, vào năm 1975 mưa nhiều vở đê kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống đập chung quanh, gây lụt lội làm chết hơn 230.000 người. Nhưng Trung Cộng đã ém nhẹm tới gần đây thế giới mói biết. Ngoài ra đập thủy điện Tam Hiệp chưa khánh thành nhưng nhiều dấu hiệu bể nứt đã thấy xuất hiện. Ðiều này cũng dễ hiểu, vì trong thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (Tàu,Nga, VC,Bắc Hàn, Cu Ba), gần hết ngân khoản của các công trình xây dựng, đều bị cán đảng và quan quyền lớn nhỏ, móc ngoặc với nhà thầu, chia, chặt, xén, bỏ túi.. cho nên đâu có kiến trúc nào được toàn vẹn, vì vậy chưa bàn giao đã lung lay hay sứt mẽ là cái chắc.

+ HỆ THỐNG ÐẬP THỦY ÐIỆN TẠI TỈNH VÂN NAM, TRÊN SÔNG MEKONG VÀ HỒNG HÀ CHẢY VÀO VN :

            Sông MeKong phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa, Lào, Thái Lan, Miến Ðiện, Kampuchia và VN rồi ra Biển Ðông tại chín cửa lớn nhỏ, nên phần sông chảy trong lãnh thổ VN, mới có tên là Cửu Long Giang. Cũng vì dòng sông có sự liên quan của nhiều nước, nên đã có chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong, do nhiều tổ chức và các định chế tài chính quốc tế tham gia. Trên lý thuyết, đã có tới sáu chương trình và dự án phát triển con sông trên. Chương trình Ủy ban sông Mekong (MRC), do LHQ khởi xướng từ năm 1957, nhằm quản lý nguồn nước và tài nguyên của sông, được xúc tiến mạnh sau năm 1975, khi chiến tranh Ðông Dương lần 2 chấm dứt.

            Năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) lại khởi xướng chương trình hợp tác sông Mekong, giữa các nưóc liên hệ (GMS), thúc đẩy sự đầu tư khai thác của các nước trong vùng, qua các dự án đầu tư do ADB chi phối. Năm 1993, Nhật Bản đề xướng diễn đàn phát triển toàn diện Ðông Dương (F&DI), chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng có sông Mekong chảy qua. Tiếp theo Nhật lại đưa thêm dự án AEM-MITI nhằm giúp Miến Ðiện, Lào, Kampuchia chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Cũng năm 1993, Thái Lan lại đề xướng chương trình hợp tác sông Mekong, nhằm phát triển khu vực sông chảy qua các nước Tàu, Miến Ðiện, Thái Lan và Lào.

            Tháng 12-1995, Tân Gia Ba và Mã Lai lại đề xướng dự án hợp tác phat triển sông Mekong của các nước thành viên Asean có sông Mekong chảy qua, ưu tiên là đặt hệ thống đường sắt.. Nhưng tất cả đều là lý thuyết, vì Trung Cộng là nước ở thượng nguồn sông Mekong, chẳng bao giờ tôn trọng các ảnh hưởng, sự tác động và lợi ích kinh tế của những nước khác ở hạ nguồn. Trung Cộng đã ỹ mình nước lớn, nên đã bất chấp sự phản đối của các nước liên hệ, bao chục năm qua đã xây dựng cả hệ thống Ðập Thủy Ðiện trên sông Mekong, trong tỉnh Vân Nam, gây thiệt hại nhiều nhất cho hai nước hạ nguồn là Kampuchia và VN.

            Thật ra âm mưu khống chế sông Mekong, được Trung Cộng manh nha từ năm 1970. Do sự cô lập và bưng bít nên mãi tới năm 1989 khi Ðặng Tiểu Bình mở cửa đón tư bản vào cứu đảng, người ta mới biết được đại khái là Hoa Lục đang xúc tiến các dự án đập thủy điện tại Vân Nam. Theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam và lời xác nhận của Hiroshi Hiro, người Nhật, một chuyên gia về sông Mekong, cho biết Trung Cộng đã xây dựng tới 14 con dập bậc thềm, trên thượng nguồn sông này, đó là chưa kể các con đập khác ở các phụ lưu và trên sông Hồng Hà. Theo thứ tự từ Bắc xuống Nam, ta thấy các đập thủy điện Liutongsiang, Jiabi, Wunenglong, Tuoba, Huangdeng, Tiemenkan, Guongguoqiao, Công Quả Kiều, Xiaowan, Tiêu Loan, Manwan, Daichaoshan, Ðại Triều Sơn, Nuozhado, Nọa Trát Ðộ, Jinhong, Cảnh Hồng, Ganlanba và Mãnh Tòng.

            Sông Mekong hay Dza-Chu (Nguồn nước của đá), phát nguyên từ cao nguyên phía đông Tây Tạng, dài hơn 4000 km, chảy về hướng Nam, băng qua những hẽm núi sâu và rừng núi hoang lạnh của tỉnh Vân Nam với cái tên Lan Thương Giang (Lancang Jiang). Riêng khúc sông chảy giữa biên giới Lào-Thái mang tên Mae Nam Khong. Tại Cam Bot sông lại có tên là Tonle Thom và cuối cùng Cửu Long Giang trong lãnh thổ VN.

            Trong cuốn sách ‘ Lan Thương Giang - Tiểu Thái Dương ‘ , do Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn hành bằng tiếng Tàu, từ đầu tới cuối chỉ đề cao tới tiềm năng của sông cần khai thác, tuyệt nhiên chẳng thấy nói tới hậu quả nào do chuổi đập gây thiệt hại tới các nước ở hạ lưu. Ðiều này dễ hiểu,vì Trung Cộng luôn coi đó như một bí mật quốc phòng, thứ vũ khí môi sinh chiến lược, để khủng bố VN, quốc gia cuối cùng nơi dòng sông thoát ra biển.

            Tóm lại chỉ riêng với ba con đập đầu tiên được xây dựng trên thượng nguồn Mekong là dập Mạn Loan, Ðại Triều Sơn và Cảnh Hồng, với các triền núi cao dùng làm vách hồ chứa nước vào mùa mưa và xã nước trong mùa nắng. Hậu quả sông Mekong sẻ không còn những cơn lụt hằng năm, mang phù sa và các loại thủy tộc, từ thượng nguồn xuống Biển Hồ, sông Tiền, sông Hậu. Cuối cùng các hồ chứa nước tại Vân Nam, sẽ giữ lại hết phù sa và nước ngọt tại chuổi đập bậc thềm , làm cho Biển Hồ khô chết, còn đồng bằng miền Nam ven biển Ðông, sẽ bị ngập mặn vì lòng sông thấp hơn mực nước biển.

            Trước mắt những con đập tại Vân Nam, thường trực gây bất thường cho dòng sông Mekong, làm xói lở hai bờ , đọng nhiều muối trên đất, nguồn phù sa hằng năm từ thượng nguồn bị giữa lại, làm cho ruộng thiếu nguồn phân bón thiên nhiên. Tai hại hơn, là Trung Cộng đã trút đổ những chất phế thải độc hại từ các nhà máy công nghệ như chì, kẽm, cyanide.. gây ô nhiểm nước uống và hệ thủy sản trên sông, nhất là các loại cá .

            Tháng 12-2001, theo tin Asian Pulse cho biết là Trung Cộng lại khởi công xây đập Tiểu Loan trên khúc giữa Lạn Thương Giang, lớn thứ nhì trên nước Tàu, chỉ thua đập Tam Hiệp. Ðập này có công suất điện 4200 MW, cao nhất thế giới 292 m, riêng hồ chứa nước lên tới 15 tỷ m3 khối nước, từ nguồn sông Mekong. Ðập hoàn thành năm 2010 với kinh phí 4 tỷ đola.

            Ngày nay Trung Cộng đã công khai đe dọa thế giới, trực tiếp đối đầu với Mỹ, Nhựt, Liên Âu và LHQ, nên đâu có lạ khi thấy người Tàu toàn quyền khai thác sông Mekong và từ chối tham dự Ủy hội bảo vệ con sông này vào năm 1995 cũng như không cầm đếm xỉa tới thảm họa môi sinh của 5 nước dưới hạ nguồn. Thế giới ai cũng nhìn thấy rõ, nhát là mưu đồ dùng sông Mekong như một thủy lộ, khi có cuộc chiến trong tương lai gần.

2- ÐỒNG BẰNG VÀ SÔNG NGÒI VN, TRƯỚC THẢM HỌA KHỦNG BỐ CỦA TÀU :

            Diện tích VN hiện nay là 331.000 km2, trong đó hai đồng bằng Bắc và Nam Việt, xưa nay được coi như là vựa lúa gạo của cả nước. Miền châu thổ Bắc Việt hình thang, giới hạn bởi tứ giác Phủ Lạng Thương, Ðồ Sơn, Việt Trì và Phát Diệm., với diện tích 15.000 km2, chỉ chiếm 12% Bắc Phần (115.700 km2), được hình thành bởi phù sa sông Hồng Hà và Thái Bình.

+ SÔNG HỒNG HÀ : Phát nguyên từ rặng Ngụy Sơn, kế Ðại Lý Hồ trong tỉnh Vân Nam (Tàu), có chiều dài 1200 km, phần chảy trên đất Trung Hoa gọi là sông Ma Lung hay Nguyên Giang. Riêng 500 cây số trong lãnh thổ VN, được gọi là Nhĩ Hà, Hồng Hà hay Sông Thao.

            Sông vào địa phận Bắc Việt tại Hà Khẩu (Lào Kai), trước khi ra biển Ðông, đã tiếp nhận nhiều phụ lưu quan trọng như sông Lô ở tả ngạn. Sông này còn có tên là Thanh Giang, cũng phát nguyên từ bên Tàu và chảy vào VN tại Hà Giang, rồi đổ vào sông Hồng ở Việt Trì. Sông Lô còn có hai phụ lưu là sông Gầm va sông Chẩy thông với hồ Ba Bể.

             Sông Ðà bên hữu ngạn,cũng phát nguyên từ Vân Nam, chảy vào VN song song với sông Hồng và đổ vào sông này tại Việt Trì. Ngoài ra còn có nhiều sông nhỏ khác, cũng đổ vào Nhĩ Hà như Nậm Pò, Nậm Na, Nậm Mấc, Ngòi Thia, Ngòi Lao ở thượng nguồn. Phía gần biển, có thêm các phụ lưu Sông Luộc, sông Ðuống, sông Ninh Cơ, Trà Lý.. Tất cả đã mang phù sa bồi đắp cho cánh đồng lúa mùa, miền Hạ Du, ngay từ thời Văn Lang lập quốc cho tới bây giờ. Từ Hà Nội lên Lào Kai, xuyên biên giới đi Vân Nam ,có con đường sắt được thiết lập từ thời Pháp thuộc, chay song song với tả ngạn sông Hồng, qua những nhà ga Bảo Hà, Trái Hút, Phố Lu.. mang đầy huyền thoại trong kho tàng văn học dân gian, về các câu chuyện ‘ Ma-Cọp ‘.

            Lào Kai là tỉnh địa đầu của miền tây bắc, chỉ cách Trung Cộng có cây cầu biên giới Cốc Lếu, nên trong cuộc chiến năm 1979, giặc Tàu gần như làm cỏ thành phố, mãi cho tới năm 1991 mới chỉ có 1700 gia đình trở về nhà cũ của mình.. Ngày nay nhờ chương trình du lịch Sapa và nhất là buôn lậu ,nên Lào Kai dân số gần 100.000 người. Thị xã nằm ngay trên ngả ba sông Nậm Thị từ Vân Nam đổ vào sông Hồng. Cầu Hồ Kiều dài 200m, ngăn đôi hai nước, bên này là Lào Kai, phía bên kia là thị trấn Hà Khẩu, thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.

            Sông ra biền bằng cửa Ba Lạt và Trà Lý ở thị xã Thái Bình. Trước đây khi Trung Cộng chưa xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn của sông chảy trong tỉnh Vân Nam, thì Nhĩ Hà có lưu lượng rất lớn và thay đổi tuỳ theo mùa, từ 300m3/1 giây - 28.000 m3/1 giây nhưng trung bình là 700m3/1giây.. Nước sông dâng cao thường vào mùa mưa, tại Hà Nội có khi dâng cao tới 12m, trong khi mùa nắng mực nước chỉ có 2m.. Từ trước tới nay vùng Hoa Nam và Bắc Phần có nhiều mưa về mùa hè, làm cho mực nước sông Nhị dâng cao rất nhanh. Lúc trước tại Vân Nam, rừng chưa bị đốn để dựng đập nước, nên mùa mưa, phần nào giữ được nước tuôn từ thượng nguồn về.

            Nay Trung Cộng xây đập khắp nơi, mùa nắng thì giữ nước ngọt lại trong hồ chứa để mà tưới , trái lại mùa mưa thì mở đập để nước trên sông lẫn trong hồ, tuôn về hạ nguồn, cho nên mấy năm qua, Hà Nội và các tỉnh Bắc Phần luôn bị nạn lụt. Trong khi đó , hệ thống đê điền ở miền Bắc tuy dài hơn 4000km, nhưng lại có quá nhiều khuyết điểm, chẳng hạn như đê phải đắp cao theo tình hình mực nước, khiến cho đê thường bị vở. Ngoài ra vì bị đê ngăn chặn phù sa, khiến cho đồng bằng Bắc Phần lần hồi không được bồi đắp, nên càng lúc thêm cằn cổi, thu hoạch kém, tốn nhiều phân bón.

            Riêng hệ thống sông Thái Bình, dài độ 340km, chảy từ Phả Lại, qua Hải Dương ra biển, với các phụ lưu là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu, đều phát nguồn trong nội địa VN. Tuy nhiên vì Sông Nhị có hai phụ lưu ở tả ngạn là sông Ðuống và sông Luộc, đều chảy vào sông Thái Bình, cho nên hệ thống sông này cũng bị ảnh hưởng khi nguồn nước hay dòng chảy của sông Hồng bị tắt nghẽn hay bất thường. do những ảnh hửng từ thượng nguồn bên Vân Nam gây ra.

+ ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :

            Ngày nay đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh miền tây Nam phần : Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Ðồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bac Liêu và Cà Mâu. Khu vực này chiếm một diện tích 40.000 km2 với hơn 16 triệu dân, gồm người Việt, Khmer, Hoa và Chàm. Do cấu tạo môi trường thiên nhiên khác nhau, ảnh hưởng từ sông, biển và khí hậu, nên khu vực này được chia thành bốn vùng riêng biệt :

            - Vùng phù sa nước ngọt : Từ nguồn sông chính tại Kampuchia, Mekong chảy vào Nam Phần bằng hai nhánh tại Châu Ðốc và Hồng Ngự, xuống tận Mỹ Tho, Bến Tre. Khu vực này chiếm một diện tích hơn 1 triệu Ha, phần lớn là vườn cây ăn trái đủ loại, mọc bạt ngàn theo hai bờ sông Tiền và Hậu, cùng với một hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện. Ðặc biệt giữa dòng sông thường có nhiều cù lao lớn nhỏ như Cồn Phụng, Lân, Qui tại Mỹ Tho, cù lao Ông Hổ ở An Giang, cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt-Cần Thơ), cù lao Bình Hòa Phước tại Vĩnh Long..

            - Vùng phù sa nước mặn : Chiếm diện tích khoảng 900.000 Ha, bao gồm lưu vực các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau. Ðặc điểm vùng này là có nhiều rừng nguyên sinh ngập măn, nhiều khu vực tập trung hàng ngàn loại chim cò đủ loại tại Vàm Hồ (Ba Tri-Bến Tre), Bạc Liệu hay Chùa Dơi (Sóc Trăng)..

            - Vùng bán đảo Cà Mau : Nằm cuối miền Nam nước Việt, rộng chừng 1 triệu Ha và hằng năm được phù sa của sông Hậu, bồi đắp thêm làm cho Mũi Cà Mâu càng lấn ra biển từ 60 ố 80m. Tại đây còn nhiều khu rừng tràm, đước được dùng làm củi đốt từ xưa tới nay Khắp khu vực có nhiều Sân Chim Cò, Cốc hơn 40 loại, sống tại Ngọc Hiển, U Minh, Hòn Khoai. Ðây cũng là vựa tôm, cá và đặc biệt là mật ong nổi tiếng của Miền Nam.

            - Vùng Ðồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên : Rộng 1 triệu ha, được coi như là những hồ chứa nước thiên tạo, vào mùa sông Tiền-sông Hậu lụt lội, nhờ vào năm miền trũng thấp. Trong số này quan trọng nhất vẫn là Ðồng Tháp Mười, với các khu rừng tràm Xẻo Quít (20 Ha), Tràm Chim (2441Ha).. có hơn 141 loài chim sinh sống, nhiều nhất là loài sếu đầu đỏ.

            Nói chung đồng bằng sông Cửu Long được tạo thành bởi phù sa của hai nhánh sông Mekong, gọi là sông Tiền (Dòng chính) và sông Hậu, được chia thành chín nhánh nhỏ hình rẽ quạt, đổ ra biển bằng chín cửa, lại tạo thành nhiều cù lao rất phì nhiêu. Trong lãnh thổ VN, phía thượng nguồn, sông Cửu Long làm thành vùng trũng như những hồ chứa nước thiên nhiên trong mùa lụt. Về phía biển, đồng bằng được phù sa bồi đắp cao ráo, thành những giồng để cất nhà cửa, lập vườn cây ăn trái . Dòng sông cho nhiều tôm cá quanh năm, bù đắp phù sa như một thứ phân bón hữu to rất tốt cho đồng ruộng. Toàn vùng, Mỹ Tho được coi là lý tưởng nhất cho nghề nông vì đất đai phì nhiêu, sông rạch đầy tôm cá, người dân làm chơi ăn thiệt, cuộc sống sung túc, tạo thêm dân trí lễ nghĩa với các thú vui nghệ thuật, mà phát triển nhất nếp sống miệt vườn tao nhã qua đờn, ca, hát xướng, thơ ngâm, hò đáp khi chèo thuyền giả gạo.

            Sông Tiền Giang chảy ngang qua thành phổ cổ kính Mỹ Tho, trước khi ra biển bằng nhiều nhánh. Giữa những nhánh sông có các cù lao rộng lớn phì nhiêu, làm thành tỉnh Bến Tre nổi tiếng với rặng dừa xanh lơn nhất nước. Trường Trung Học danh tiếng Nguyễn Ðình Chiểu tại Mỹ Tho, được coi như là ngôi trường đầu tiên của người Việt tại Nam Phần, trong lúc Sài Gòn mới có ngôi trường Trung học dành cho con cái người Pháp (nay là trường TH.Lê Quy Ðôn) , lập hồi cuối thế kỷ XIX. Vào năm 1926, Sài Gòn mới có trường TH.Petrus Ký, dành cho người Việt.

            Ðất Gò Công sát biển, nổi tiếng với Ðức Từ Dũ (Mẹ ruột vua Tự Ðức nhà Nguyễn), căn cứ chống thực dân Pháp của anh hùng Trương Ðịnh (1863). Ngược về phía nam, xuyên QL4 (nay là QL1), trước khi đến cầu Mỹ Thuận (thay thế phà), hai bên đường lẫn bờ sông, nhà cửa san sát, xen lẫn với vườn đủ loại trái cây và đồng ruộng lúa nước xanh um ngút mắt.

            Qua cầu, quẹo về hướng biển non 10 cây số, là tới Vĩnh Long, miền đất hiền lành xinh đẹp nằm trên Sông Cổ Chiên, một nhánh của Cửu Long. Chợ tỉnh trải dài theo bờ sông bồng bềnh những giề Lục Bình hắt hiu trong màu phù sa làm cho nước vàng đục. Thành cổ xưa còn đó với cây đa cổ thụ, làm nhớ tới Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông.. người uống thuốc độc quyên sinh để đền nợ nước, kẻ thỉ rời bỏ quê làng chôn nhau cắt rút, dắt díu gia đình ra tận Bình Thuận tị địa vào năm 1867, khi thành Vĩnh Long bị thực dân Pháp đánh chiếm. Gần chợ nay vẫn còn Văn Thánh Miếu được lập ra thờ Khổng Tử, nhưng ngày nay người Việt đến cúng bái, gần như chỉ biết tới Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông mà thôi.

            Bên kia sông Hậu là thành phố Cần Thơ, sung túc bề thế và xinh đẹp chỉ thua Thủ đô Sài Gòn. nên xưa nay vẫn được đời xưng tụng là Thủ phủ của Miền Tây-Nam Nam Phần, phát triển ngay từ đầu thế kỷ XX, ngay khi miền Hậu Giang trở thành vựa lúa gạo nuôi sống cả nước. Nhờ vậy mà cả cánh đồng lau sậy, tràm được, cá sấu, muỗi mòng, giữa sông Hậu và Vịnh Phú Quốc, được khai thác, đào kênh, đắp đường, mở mang làng xóm, trù phú như ngày nay. Thời Pháp thuộc, Cần Thơ có Chi nhánh Ngân hàng Ðông Dương, Nhà máy Ðiện lực rất lớn, cung cấp điện cho các tỉnh lân cận. Trường Trung học Công lập Phan Thảnh Giản thành lập từ năm 1926,hơn trăm năm qua đã đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài của đất nước, trong đó không thể không nhắc tới Nhà Quân Sử nổi tiếng hiện nay tại hải ngoại là Pham Phong Dinh..

            Cuối nước Việt, về hướng biên giới,đầu tiên là Cảng Cá,nằm ngay Vàm sông Ông Ðốc, qui tụ nhiều tàu đánh cá lớn khắp vùng. Xa hơn là Ngư Cảng Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang, nổi tiếng nhất nhì trong nước, ngang hàng với Ngư Cảng Phan Thiết-Bình Thuận. Biển ở đây cạn, nhiều bùn lại nhiều muỗi mòng nhưng ngược lại đầy tôm cá. Ngoài khơi Rạch Giá có hằng trăm đảo thuộc chủ quyền VN, trong đó có Hòn Tre diện tích lớn, dân đông.Kế bên là Hòn Sơn Rái nổi tiếng làm nước mắm cá biển

            Sát biên giới Việt-Kampuchia là Thị Xã Hà Tiên,phong cảnh hữu tình với Ðông Hồ, núi Tô Châu, ngôi chợ tuy nhỏ nhưng đây cổ kính. Ðối diện là Hải Ðảo Phú Quốc, lớn nhất VN, chuyên trồng tiêu, làm nước mắm, ngư nghiệp

            Từ Chợ Hà Tiên đi ngược lên dọc theo biên giới có Kênh Vĩnh Tế do Thoại Ngọc Hầu đào vào thập niên 1920, thời Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn. Kênh này như một thủy đạo, nối liền sông Hậu thông ra Vịnh Phú Quốc. Vùng này trũng thấp, đất phèn mặn, nên ruộng đồng hoàn toàn bị ngập, vào mùa lụt do sông Cưu Long dâng cao. Bảy Núi hay Thất Sơn bao gồm nhiều hòn lớn nhỏ, chạy dài trên 30km, mà đỉnh cao nhất là ngọn Núi Cấm (700m),mây trắng che mịt mù vào mùa đông, trong nuí có nhiều hang động thiên nhiên, trên sườn mọc đầy sắn, đậu, hoa quả và các cây thuốc Nam.

            Kế cận là Thị Xã Châu Ðốc, nổi tiếng ba miền là Miểu Thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, được xem là chốn linh thiêng, quanh năm có rất nhiều thiện nam tín nử tới hành hương cúng kính.. Chợ Châu Ðốc xây trên bờ sông Hậu, dưới sông tấp nập ghe thuyền. Phia bên kia sông có nhiều Làng Chàm Hồi giáo, chuyên sinh sống bằng ngư nghiệp và nghề dệt dệt tơ lụa.

            Thành phố Long Xuyên là thủ phủ của tỉnh An Giang, lúa gạo sung túc, đang phát triển mạnh nghề nuôi cá bè trên sông Hậu. Ðây là miền đất được mở mang sớm nhất ở Nam Phần, ngay từ năm 1700 khi Thống Suất Nguyễn Hửu Cảnh, được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, tới đây cũng cố biên giới, vì vậy các lưu dân từ Thuận Quảng theo chân đoàn quân vào đậy lập nghiệp rất đông đảo. Tại An Phú, đầu nguồn của sông Hậu trong tỉnh An Giang, nay còn sót lại Búng Bình Thiên, có diện tích rộng hơn 30.000 m2, là một vùng đất bị bỏ hoang vì nước sâu không thể trồng lúa được. Láng mọc đầy Sen và cỏ dại, là nơi chung sống của đủ loài thủy tộc, từ cá tôm, cho tới rắn rùa, sống dưới rừng củ co, bông súng, rau tràng.. cảnh sắc không gì thay đổi như từ hai ba thế kỷ trước. An Phú còn có tới 4 chợ trời biên giới và đông đảo người Chàm theo Hồi giáo cư ngụ.

            Sa Ðéc hiện nay chỉ là thị trấn, trong khi Cao Lãnh trở thành thị xã tỉnh lỵ của Ðồng Tháp. Nằm bên hửu ngạn sông Hậu, Sa Ðéc là vùng đất cổ, nổi tiếng với những vườn cây ăn trái của Nam Phần,nhờ khí hậu trong lành so với các tỉnh khác. Chợ Sa Ðéc đẹp, vùng lân cận nổi tiếng về sản xuất hoa hồng. Trên con đường từ chợ tới Bắc Vàm Cống, có hai làng nghề truyền thống là Nem Lai Vung và Chiếu Lấp Vò. Ngoài ra tại làng Ðịnh Yên, còn có một Chợ chiếu độc đáo, mà người điạ phương gọi là ‘ Chợ Ma hay Chợ Âm Phủ ‘, vì chợ chỉ nhóm họp hằng đêm từ 12 giờ khuya tới hừng sáng thì dẹp. Ðây là truyền thống đã có từ 100 năm qua, chuyên bán sĩ và lẽ hai loại chiếu ‘ Hà Niên’là loại chiếu bông vuông nhỏ và loại ‘ Vẩy Ốc ‘ màu trắng, bông được in bằng khuôn, làm rất công phu, để lâu không bị bay màu và lên mùi mốc.

            Ðồng Tháp Mười là vùng đất trũng, nhiều phèn, vào mùa lụt nước sông dâng cao tới 4m, cá tôm nhiều nhưng muốn có phải mua sắm dụng cụ mới khai thác được.. Tại đây còn có một loại lúa trời, mọc tự nhiên, ăn được nhưng không ngon. Trước đây Ðồng Tháp Mười coi như một đồng cỏ khổng lồ, ngày nay nhiều khu vực đã được khai khẩn để trồng lúa. Dân cư tứ xứ tới đây làm ăn rất đông, nhất là khu vực tiếp xúc với hai con sông Vàm Cỏ Ðông và Tây.

            Tại những tỉnh về phía Nam, nơi hạ nguồn của sông Hậu như Trà Vinh, Sóc Trăng, đồng bằng được phù sa bồi đắp, thành những giồng đất cao ráo, không bị úng lụt vì nước rút ra biển rất nhanh. Ðây là địa bàn cư trú cũa người Việt gốc Khmer và người Minh Hương (Tiều Châu chiếm đa số) . Ngoài những cánh đồng lúa, ruộng muối cò bay thẳng cánh ở Bạc Liêu, dân địa phương còn trồng nhiều hoa màu phụ như cải, dưa hấu, cây ăn trái.. Với người Việt gốc Khmer, thì thu nhập chính vẫn là cấy lúa ngắn hạn loại Thần Nông, trên đất cao không cần nhiều nước.

3-TRỜI HÀNH LỤT LỘI MỖI NĂM TẠI ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :

            Từ trước tới nay, các tỉnh từ Hà Tĩnh vào tới Quảng Trị, thuộc Miền Trung nước Việt, luôn luôn hứng chịu thảm trạng chiến tranh và sự khắc nghiệt của thời tiết,thêm vào đó Rặng Trường Sơn lấn ra sát biển, làm cho đồng ruộng cằn khô vì cát lẫn với đá núi. Cho nên trong dân gian đã có câu ca dao ‘ Trời hành cơn lụt mỗi năm, mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm ‘.Lời than thở này bây giờ đã vượt biên giới và trở nên thân quen đối với đồng bào miền Châu Thổ Sông Cửu Long,vì năm nào cũng phải cât lực đối phó với tình trạng lụt lội, đã trở nên thường trực trong cuộc sống của mọi người.

            Trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt, tổ tiên ta bao đời vừa phải ngăn chống giặc ngoại xâm, đồng thời cũng luôn luôn diễn ra cuộc chiến sống chết chống thiên tai bảo lụt, khắp ba miền Trung, Nam , Bắc., mỗi miền có một địa hình, thời tiết khác nhau nên cách phòng chống cũng vô cùng phức tạp.

            Dựa vào tài liệu của bao đời lưu lại, ta thấy người xưa đã biết rất rõ ràng phương pháp trị thủy. Miền Trung điạ hình hẹp và dốc, sông ngắn nên lụt lội dâng lên rất mau., phải luôn đề phòng để kịp thời phòng chống. Ở Bắc phần, đồng bằng thấp hơn mực nước sông vào mùa lụt từ 5m ố 7m, vì vậy cần phải đắp đê rất cao để ngăn lụt. Hằng năm vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn bên Tàu chảy về, cộng thêm nước từ miền Trung Du và đồng bằng, lại còn thủy triều và nước biển dâng cao, do ảnh hưởng của bảo, là nguyên nhân mà các thời đại VN trong lịch sử, phải đắp đê ngăn ngừa lụt ở miền Bắc.

            Năm 886 sau Tây lịch, miền Bắc đã bắt đầu khởi công xây dựng hệ thống đê điền, doc theo các con sông Hồng,Thái Bình và nhiều con sông quan trọng khác.. Hiện nay qua báo cáo, hệ thống đê tại Bắc Việt dài tới 3500 km,tổng khối lượng đất đá xữ dụng là 400 triệu m3, gồm 260 bờ kè, 800 cống thoát nước. Những con đê với bờ cao, dốc thoải,thảm cỏ xanh rờn, uốn lượn hai bờ sông, đã vẽ nên bức tranh quê làng VN, thật là êm đềm hạnh phúc. Khắp nơi chen chúc ruộng đồng, vườn tược và nhà cửa đình làng, ân hiện sau lũy tre xanh, đã nói lên thể phách văn minh văn hiến của Dân tộc Hồng-Lạc.

            Từ khi Trung Cộng lén lút xây dựng các đập thủy diện trên hệ thống sông ngòi chảy qua tỉnh Vân Nam vào năm 1971, thì đại họa cũng bắt đầu đổ ập một cách âm thầm vào non nước VN, qua cảnh dòng sông không còn êm đềm chảy, mà dâng cao đục ngầu, mang đầy rác rưởi, gổ tre, khắp nơi đầy những vực xoáy hung dữ. Năm 1971, mực nước sông Hồng dâng cao tới 14,8 m,gần như lưu lượng nước (80-88%) đổ vào Sơn Tây, trung tâm của đồng bằng Bắc Việt. Từ năm 1920, bờ đê tại Hà Nội chỉ mới cao 11,5m. Năm 1932 là 13,3m và hiện nay đã cao tới 15-15,5m. Ngoài ra còn hy vọng vào các hồ chứa sông Ðà, Lô, Gầm, Chảy và Ba Bể.. để hạ bớt mực nước lụt. Câu chuyện thần thoại ‘ Sơn Tinh Thủy Tinh ‘ thời Tổ Hùng dựng nước, được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hồi tiền chiến, vẽ lại bằng bức tranh thơ, đã nói lên cuộc chiến quyết liệt của Dân Tộc Việt,trước thảm nạn lụt lội và giặc thù truyền kiếp, cả hai đều xuất phát từ nước Tàu. Vậy mà từ Hồ Chí Minh tới các chóp bu kế tiếp sau này, lúc nào cũng to miệng bưng bợ Trung Cộng, rằng là đồng chí đồng rận, chủ nghĩa xã hội anh em, môi hở răng lạnh, sông liên sông núi liền núi.. cho nên VC mới đem không biết bao nhiêu đất đai biên giới, biển đảo để mà dâng cúng cho quan thầy,cũng đâu có gì lạ.

            Ðồng bằng sông Cửu Long trái lại bằng phẳng,cho nên trước đây người dân bản địa có tập quán là cứ sống chung với lủ lụt cho tới khi nước rút hết, chứ không làm gì cả. Ta biết Sông Mekong tuy phát nguồn tận Tây Tạng và chảy qua các nước Miến Ðiện, Thái Lan, Lào, Kampuchia mới vào Nam VN. Quan trọng nhất, là dù phần cuối của sông Mekong, với tổng diện tích tự nhiên chỉ có 3,9 triệu ha, chiếm 5% toàn bộ lưu lượng của cả dòng sông. Trong lúc đó hằng năm,miền tây nam Nam phần, phải nhận của sông Cửu Long, hơn 460 tỷ nước, cùng 200 triệu tấn phù sa, tạo nên miền châu thổ phì nhiêu sông Tiền, sông Hậu ngày nay.

            Lãnh thổ VN, chỉ có địa hình Nam Phần bằng phẳng, thấp không có đồi núi nhiều (trừ núi Bà Rá, Bà Ðen ở miền Ðông-Bắc,Thất Sơn ở biên giới phía Tây). Nên dù khắp nơi có đầy kênh rạch, sông ngòi nhưng vào mùa nước lụt, vẫn không chịu nổi ảnh hưởng của thủy triều và lượng nước tuôn về từ thượng nguồn, khiến cho lòng sông không tải kịp nước ra biển, gây nên hiện tượng úng ngập tràn lan kéo dài hằng tháng.

            Trước đây khi dòng sông Cửu Long chưa bị biến thái vì các đập thủy điện trên thượng nguồn tại Trung Cộng, Thái Lan, Lào.. thì hằng năm nước ngập, đã mang đến thật nhiều phù sa bồi đắp cho miền châu thổ , làm cho Mũi Cà Mau lấn thêm đất ra biển, sông rạch có thêm nhiều tôm cá và đủ cac loại thủy sản.. Từ năm 1961 tới 1994, miền Tây Nam Phần đã bị sáu trận lụt lớn, làm ngập 1.828.000 Ha ruộng, kéo dài từ 3-6 thang mới rút hết nước.

            Thật ra vấn đề lụt lội tại Nam Phần, đã được người Pháp quan tâm từ năm 1926, khi Ðông Dương là thuộc địa của thực dân. Qua những hồ sơ lưu trữ, ta biết tới nay vùng này đã bị 31 lần lụt lội lớn nhỏ. Quan trọng nhất là năm 1966, vào mùa lụt, nước sông Cửu Long tại Tân Châu lên tới 5,28m (trước đó mực nước tối đa là 4,6m), đã làm cho toàn thể đồng bằng miền Tây chìm ngập trong biển nước. Trước đây người ta thường có quan niệm về sự lụt lội của Nam phần, là điều phải xãy ra theo chu kỳ qui định của thiên nhiên trong 4 năm. Ðó là những giai đoạn 1937-1940, 1946-1949.

            Nhưng giai thoại trên, kể cả lụt lội đem phù sa bồi đắp cho đồng ruộng, coi như đã chấm dứt từ năm 1980, nguyên do vì Trung Cộng đã phá vở gần như tất cả những môi trường thiên nhiên tại thượng nguồn nhưng VN lại lãnh đủ hậu quả, nhưng cứ đem hiệu ứng nhà kính, đã gây ra sự thay đổi thời tiết, khí hậu, để mà đổ thừa hay che dấu sự thực.

            Hiện nay có tới 12 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cưu Long, chiếm diện tích 3,9 triệu Ha nhưng vùng lụt lội hằng năm thường tập trung vào 7 tỉnh đầu nguồn là An Giang, Ðồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang và Long An. Lụt lội hằng năm, làm cho 1 triệu Ha ruộng bị chìm ngập dưới nước sâu trong nhiều tháng, gần 10 triệu đồng bào địa phượng bị thiệt hại , từ nhân mạng tới vật chất. Lụt bây giờ ngập sâu và kéo dài hơn trước, lại đến sớm nhưng rút muộn, ảnh hưởng nặng nề tới nông vụ vốn là chén cơm manh áo bao đời của tầng lớp cư dân miệt vườn. Mặc khác lụt lớn, làm cho đất đai bị mòn xói, phá vở các công trình xây dựng hai bên bờ sông, kể cả đường xá kênh rạch. Riêng trận lụt năm 1996, làm cho 217 người chết trong đó có tới 162 trẻ nít, gây tổn hại tới 2182 tỳ tiền Hồ.

            Sông Mekong khi chảy tới Kampuchia , trong tỉnh Kompong Cham thì lòng sông không đủ sức chuyển vận lưu lượng nước từ thượng nguồn, nên phần lớn ruộng đất trong vùng cũng bị ngập nước nhiều tháng, từ tháng 7-12 hằng năm. Nhờ nước tràn bờ nên lưu lượng giảm. Thêm vào đó tại NamVang, sông Cửu Long có một chi nhánh lớn là sông Tonle Sap, đã dẫn nước về chứa trong Biển Hồ có thể tích tới 80 tỷ m3.Nước này lại chảy ngược ra sông chính vào mùa khô.

            Cũng tại Kompong Cham, sông Cửu Long lại chia thành hai nhánh : Nhánh chính tới Neak Luong và chảy vào VN tại Tân Châu gọi là Tiền Giang. Nhánh Phụ còn gọi là sông Bassaac vào Châu Ðốc, đó là sông Hậu và ra Ðông Hải bằng chín cửa nhưng nay cửa Ba Lai tại Bến Tre đã bị cát biển và phù sa bít kín. Tại đầu nguồn, vì lưu lương nước quá mạnh, nên dòng sông thường bị tràn bờ, đã tạo nên vùng nước úng thủy Ðồng Tháp Mười và Khu trũng Tứ Giác Long Xuyên. Ngoài ra vùng này còn phải tiếp nhận một khối lượng nước phèn, hơn 77% từ Kampuchia tràn sang trong mùa lụt.

            Từ năm 1961 tới nay, miền Tây Nam Phần đã bị nhiều trận lụt rất lớn và thiệt hại, vào các năm 1961-1966-1984-1991-1994 với mực nước dâng cao từ 4,67m ố 5,28m. Năm 1978 tại Tân Châu, nước lên cao 4,88m làm 87 người chết, gây hư hại 307.000 Ha lúa và 9000 căn nhà. Năm 1994 mực nước lụt lên tới 5,11m làm chết 407 người, gây tổn thất 283.000 Ha lúa, 2799 căn nhà bị nước cuốn, thiệt hại tới 2284 tỷ tiền Hồ.Năm 1995 lại lụt, làm 150 người thiệt mạng, cuốn trôi nhiều nhà cửa và ruộng lua.

            Nguy cơ trùng trùng nhưng Ðảng chẳng những chẳng giải thích một lời nào về thảm họa vì đâu nên nổi, trái lai vẫn cứ ru ngủ đồng bào nạn nhân bằng luận điệu tuyên truyền như Mùa Nước Nổi Hay Sống Chung Với Lũ.. nhờ đó mà đồng ruộng Miền Nam được kéo dài tuổi trẻ, vì có sự bồi đắp của phù sa. Trong khi đó,thực chất gần như đất đai màu mở, cá tôm thủy sản quý của thiên nhiên ban cho các dòng sông Hồng Hà, Mekong.. đã bị chuổi đập lớn nhỏ trên 14 cái, được xây dựng tại Vân Nam giữ lại. Kế tiếp những gì may mắn thoát được, lại bị kẹt ở chuổi đập của Lào-Thái. Cho nên ngày nay, Kampuchia và VN chỉ còn nhận đủ những thứ cặn bã, trong đó có hơn 80% các quặng, hóa chất.. được thải từ hằng trăm nhà máy bên Tàu, đổ xuống dòng nước, tống ra biển, như chúng đã làm trên sông Dương Tử, mà chính báo chí tại Trung Cộng, vừa to tiếng tố cáo.

            Khôi hài nhất là bọn Tàu trắng Á Châu và các nước Tây Phương, trong cái gọi là Ủy Ban hợp tác và bảo vệ sông Mekong, lúc nào cũng to miệng về những chuyện trên mây,mục đích vẫn là những dự án đầu tư kiếm lời, chứ đâu thấy ai nhắc tới hiểm họa, khủng bố mà Trung Cộng đã gây cho các nước ở hạ nguồn sông Cửu Long.

4- ÐỒNG RUỘNG MIỀN NAM KÊU CỨU VÌ NẠN XÂM NHẬP NƯỚC MẶN :

            Từ năm 1980 tới nay, các sông ngòi ở VN hầu hết đều biến đổi kỳ lạ : Mùa mưa thì tràn nước gây nên lụt lội, trái lại về mùa nắng nước thiếu gây nên cảnh khô hạn. Tại Nam Phần, chính việc thiếu hụt nước tại các sông, đã liên quan tới sự tấn công, xâm nhập của nước mặn từ biền tràn vào sông, trong các đợt thủy triều.

            Ðã có trên hằng triệu Ha lúa và hoa màu tại các tỉnh hạ nguồn sông Cửu Long, bị nước mặn xâm nhập khốc liệt, vừa gây tổn hại tới thu hoạch cũng như làm cho mọi người trước nguy cơ thiếu nước ngọt để ăn uống,tắm giặt. Ðây là thảm họa chỉ mới xãy ra tại Nam Phần từ sau thang 5-1975, hiện tượng nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa các tỉnh sát biển, nơi cửa sông Cửu Long. Sở dĩ có tình trạng trên,vì ảnh hưởng của hai yếu tố từ lưu lượng nước tại thượng nguồn và vùng hạ lưu, cộng thêm lượng nước mưa cũng như sự bốc hơi vào mùa nắng.

            Thông thường hằng năm, từ cuối tháng 4-5, nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa, khiến cho nước ngọt tại các kênh rạch không còn dùng được để mà tưới ruộng lúa và hoa quả, gây nên cảnh hạn hán thất thu. Theo định luật khoa học, thì tiêu chuẩn độ mặn cần có trong lượng nước ngọt để phục vụ cho nông nghiệp là 4%. Trong khi đó nguồn nước lợ (nước ngọt đã bị nước mặn xâm nhập), độ mặn chỉ có 2% nhưng cũng chỉ để tưới ruộng tạm thời khi không còn một lối thoát nào khác. Nguyên do vì thứ nước lợ này, chỉ có tác dụng cứu khô ngắn hạn, nếu để lâu, nước bốc hơi làm cho nồng độ muối trong ruộng tăng lên cao, làm chết hết lúa.

            Do phần lớn đồng ruộng ở miền Nam, không có hệ thống bờ ruộng và kè đê tốt, nên đã lãnh đủ sự xâm nhập của nước mặn chảy vào ruộng,với số lượng bị ảnh hưởng lên tới 1,1 ố 1,3 Ha theo báo cáo của các cơ sở Nông Nghiệp. Ngoài ra nước mặn còn gây tổn hại rất lớn đối với những đồng bào nuôi các loại thủy sản như tôm, cá , ốc.. để xuất cảng.

            Nạn nước mặn xâm nhập đồng ruộng được đánh giá trầm trọng, bắt đầu từ năm 1977, trên sông Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang. Tại đây nước mặn chảy sâu vào nội địa từ 8-12km, nhiều hơn những năm trước. Trên sông Vàm Cỏ Tây, nước mặn theo thủy triều vượt qua Tuyên Nhơn về hướng thượng nguồn hơn 30km và kéo dài tới 10 ngày mới rút. Tại Mỹ Tho, nước mặnvào sông Tiền ít hơn và chỉ ở lại có 4 ngày. Nhưng vì nhu cầu nước tuới, đồng bào đã vô tình giúp nước mặn tràn lan nội địa. Những năm 1985-1986, vùng Tuyên Nhơn-Ðồng Tháp, tình trạng nước mặn xâm nhập có giảm so với các năm trước, nhờ con kênh Hồng Ngự mới đào, dẫn nước Vàm Cỏ Tây thông qua sông Tiền. Bắt đầu từ thập niên 1990 Ðồng Tháp Mười được khai thác triệt để diện tích ruộng lúa, nên lượng nước ngọt dùng để tưới trở thành thiếu thốn, tạo điều kiện cho nước mặn càng ngày càng dâng cao, xâm lăng tới tăp vào sâu trong nội địa.

            Năm 1993, nước mặn theo sông Vàm Cỏ Tây, lên tới thượng nguồn và ở lại Tuyên nhơn tới 50 ngày. Trên Tiền Giang, do nhu cầu xữ dụng quá nhiều nước, nên ranh giới giữa nước ngọt và nước mặn cũng thay đổi từng năm. Tại Mỹ Tho, nước mặn đã vượt qua vài cây số và nằm lai tới 17 ngày mới rút ra biển. Năm 1998, tình trạng trên lại tái diễn một cách khốc liệt. Nguyên do vì mùa nước nổi tại đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1997, diễn ra thật bất thường, nước từ thượng nguồn đổ về rất ít và rút đi rất sớm Tình trạng trên gây ra khô hạn kéo dài, tạo điều kiện để nước mặn dâng lên cao và ùn ùn kéo vào sông Vàm Cỏ Tây, chảy sâu vào nội địa tới 15-20km.

            Trên sông Tiền, sông Hậu, Cổ Chiên tuy lưu lượng có kém so với các năm trước, nhưng vẫn còn sức mạnh, làm giảm thiểu phần nào sự xâm nhập của nước mặn, tuy nhiên cũng đã gây thiệt hại cho hơn 200.000 Ha ruộng lúa. Trong khi đó, vùng tứ giác đầu nguồn Long Xuyên và phía Tây sông Hậu, lại bị ảnh hưởng rất nặng bởi sự xâm nhập của nước mặn, vào sâu trong nội địa từ 16-20 km và ở lại hơn 3 tháng.

            Sự xâm nhập của nước mặn vào các sông ngòi miền Nam, là nguyên nhân chính làm các nhà máy đường phải đóng cửa ngưng hoạt động, vì nước ngọt từ năm 1999 đã tăng lên 30.000/1m3 tiền Hồ. Từ đây nước mặn tấn công vào đất liền sớm hơn mấy năm trước. Tóm lại , không riêng gì Tuyên Nhơn, Mỹ Tho.. mà hầu như các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long như Vàm Mỹ Hoá (sông Hàm Luông-Bến Tre), Trà Vinh,, An Thuận, Bến Trại, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ.đều bị nước mặn xâm nhập phá hoại tàn khốc và không có triệu chúng nào, báo hiệu thảm họa trên sẽ ngừng hay chấm dứt. Thêm vào đó, từ mấy năm nay thời tiết lại thay đổi đột ngột, gió chướng thổi manh hơn mấy năm trước,dồn nước mặn vào sông nhiều hơn, đồng lúc thủy triều tại cửa sông hoạt động thêm dữ dội, trong khi lưu lượng dòng sông từ thượng nguồn chảy xuống càng lúc càng yếu dần, không đủ triều cường giữ giới hạn giữa hai con nước như mấy thập niên trước.

            Hởi ơi viết chuyện nước mà đau lòng với nước ‘

            ‘ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
            Thương nhà mõi miệng cái gia gia
            Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
            Một mảnh tình riêng ta với ta ‘
             (Bà Huyện Thanh Quan)
Hay ‘ Non cao đã biết hay chưa
            Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn ‘
            (Tản Ðà)

            Vẽ hửng hờ và êm ả của giòng sông, vào lúc chiều tà hay khi trăng treo trên đầu núi, không biết Nguyễn Du tiên sinh sống lại, đứng trước những thảm họa trên,đang ào ạt trút xuống những giòng nước thân thương đó, từng phút, từng giây, từng trong hơi thở của nhip sống Dân Tộc Việt, có còn đủ cảm hứng để hạ bút đề thơ :

‘ Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác, biết là về đâu ‘ -/- 

Xóm Cồn Hạ Uy Di

Cuối năm 2013 - MƯỜNG GIANG                 

TRĂM NĂM BIA ÐÁ CŨNG MÒN NGÀN NĂM BIA RƯỢU VẪN CÒN SAY SƯA


--
Kính Chuyển
MG

                                 TRĂM NĂM BIA ÐÁ CŨNG MÒN
                      NGÀN NĂM BIA RƯỢU VẪN CÒN SAY SƯA
                                                  Mường Giang


            Bình Ðịnh trước đây là đất vua, nơi có thành Ðồ Bàn từng là đế kinh của vương quốc Chiêm Thành, kéo dài từ thế kỷ thứ X-XV (sau tây lich) mới chấm dứt. Thành này lại được Thái Ðức Hoàng đế Nguyễn Nhạc vào năm 1776 cho mở rộng để xây hoàng cung. Ðặc biệt ở ngoại ô có một chợ rượu rất vui vẽ tấp nập, nhờ nằm trên một địa thế thuận lợi cả đường bộ lẫn đường sông, nên mọi người có thể tới đây bằng ngựa xe hay ghe thuyền.Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết chợ rượu thời đó thuộc tổng Háo Ðức Thượng, nay là xã Nhơn An, huyện An Nhơn, được xem như là chốn phồn hoa đô hội vào thời đó.

             Ngoài kinh thành Ðồ Bàn, đây cũng là nơi tụ tập ăn chơi hưởng thụ của giới quan quyền và thượng lưu sang giàu khắp vùng. Vì vậy đã tập trung gần như tất cả các giai nhân tài tử tứ phương cùng với nhiều loại danh tửu trong thiên ha, từ rượu nếp hương, nếp lưu niên, cơm nếp Phú Ða, Háo Lễ tới rượu gạo tăm Cảnh Hàng, An Tây, Chánh Mẫn, rượu nho tươi Kim Châu và đệ nhất đế ‘ Bàu Ðá ‘ tới nay tiếng tăm vẫn còn nguyên vẹn. Sỡ dĩ đế Bàu Ðá ngon và nổi tiếng khắp Bình Ðịnh, vì xóm Bàu Ðá xưa có một cái bàu nước ngọt trong và xanh vắt được đem về nấu rượu bằng nồi đất và ống dẫn được làm bằng tre. Rượu chẳng những dùng để uống mà còn được ngâm với thuốc bắc để các nam nữ vỏ sĩ thoa bóp hay uống trong lúc luyện võ.Ai đã từng uống được thứ rượu ngon này mới cảm nhận hết cái mùi vị vừa thơm vừa nhẹ, nên chỉ vài chén đã thấy tâm hồn sảng khoái, nồng nàn thú vị, nên dẫu có say cũng không lâu hay bị nhức đầu.

            Ngoài rượu của miền xuôi, tại đây còn bày bán các thứ rượu cần của người Chàm và Bahnar ở vùng Tây Sơn thượng đạo (Bình Khê, An Túc ngày nay), được chở tới với trầu nguồn, măng le .. bằng các thuyền buôn xuôi ngược trên sông Côn. Rượu bày bán khắp các hàng quán có dâng đèn kết hoa rực rở và được chứa trong các chai lọ, bình ché độc đáo. Tất cả đều là loại đồ cổ quý giá lâu đời, làm bằng sứ men xanh hay đồng, thau, bạc, thủy tinh, đất nung cho tới da lươn, vỏ bầu nậm, bong bóng lợn.. Bên cạnh còn có những cốc, chén, ly hay tô lớn đủ màu đủ kiểu có chân hay không, được đặt trên những đài, kỷ và khay làm bằng gổ được chạm trổ, để các người hầu rượu hay đào nương kỷ nữ dâng rượu ngang mày cho khách.

            Thường chợ rượu họp năm ngày một tuần nhưng đông vui nhất vẫn là phiên cuối tháng với khách kinh thành đổ về mua vui trong các quán rượu do người đẹp làm chủ. Nhưng rồi ‘ thành cũ lâu đài bóng tịch dương ‘, tất cả cũng tan biến theo thời cuộc và nổi thăng trầm khi Nguyễn Nhạc chết năm 1793 mang theo sự sụp đổ của Hoàng đế thành

            Quê người những ngày xa xứ, ngồi trong quán cốc bên đường lặng lẽ nhìn cuộc đổi thay nhanh chóng của thời gian, để rồi ngậm ngùi trước cảnh đổi đời phế hưng với người xưa cảnh cũ đâu còn. Thuở còn làm lính trận, những ngày sắp xuân có dịp dừng quân trên các thôn làng sông nước Hậu Giang, là dịp thưởng thức mùi hương lúa mới, các món ngon vật lạ của ruộng đồng, trong đó có đờn ca và nhắm nháp một thứ mỹ tữu : “ Rượu đế nổi tiếng Gò Ðen”, những thứ ở Phan Thiết quê tôi không có. Rượu đế ở đây trong veo và cháy nồng như một ngọn lửa bốc cao, hòa điệu cùng với lời ca tay đờn ngẩu hứng lồng lộng khi hơi men chếch choáng, cứ thế cổ bàn rộn theo những bản vọng cổ, xàng xê, nam xuân, văn thiên tường , phượng cầu, bản lớn bản nhỏ xen lẫn những bản tân cổ giao duyên, mượn ý nhạc của Trịnh Lâm Ngân như Xuân này con không về, thư xuân trên rừng cao, mùa xuân của mẹ.. khiến cho lính trận cũng phải khóc ngất theo những cung bậc nĩ non hờn oán của tiếng lục huyền cầm, vì đêm xuân xa nhà, nhớ quê, nhớ mẹ, nhớ em.

             Nay thì vèo xa tất cả, ở một chốn rầt là buồn, trong giờ khắc giao thừa, giữa lúc nhà nhà cài then khóa cổng để xum vầy năm mới, thì người lữ khách tị nạn cũng “ rũ áo phong sương “ lặng nhìn thiên hạ rồi hướng về cố quốc, để thấy mình lạc lỏng trơ trọi. Rốt cục cũng chỉ mình ta nâng chén để mừng ta thêm một tết buồn. Hởi ôi :

“ Trăm năm sông núi cũng mòn,
nghìn năm bia rượu, vẫn còn như xưa.”

1-ÐI TÌM DÁNG RƯỢU TRONG DÒNG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI :

            Mổi khi xuân về, người ta thường làm thơ viết đối với những lời chúc tụng tốt đẹp và nồng nàn nhất để dành cho nhau trước những ngày đầu năm mới. Ngoài ra chuyện ăn uống ngày tết cũng là một biến chuyển quan trọng , so với cuộc sống thường nhật vì nhà nhà đều ăn nhiều,ăn ngon như là một ước nguyện mong mõi được sung túc quanh năm. Cái vui của ngày tết, là trong lúc phụ nữ bận rộn lo chuyện ăn mặc, gạo cơm thì các chàng hầu như chỉ biết tới bia rượu để cùng bạn bè vui vầy say xỉn.

            Ngày xưa rượu tượng trưng cho quyền lực, do đó chỉ có vua chúa mới tha hồ thưởng thức các loại mỹ tửu và theo sử liệu, thì đây là nguyên cớ chính khiến cho các hoàng đế Trung Hoa cũng như các nước trên thế giới bị giảm thọ. Người quân tử dùng rượu trong việc lễ “ vô tửu bất thành lễ”, cho nên rượu trước hết là một phạm trù văn hóa trong sinh hoạt của mọi dân tộc,nhất là VN. Ngày tết mà thiếu rượu là thiếu đi một phần đáng kể trong ngẩu hứng của con người, cho nên ngay cả các bà vợ khó tánh , ghét nhậu.. cũng ráng sửa lại cái dáng “ mặt lớn, mặt nhỏ” chỉ làm xui cho cả năm, để sẳn đầy ắp rượu ngon mồi quý, cho chồng và bạn vui xuân.

            Tới nay các nhà khoa học vẫn chưa biết chắc thời điểm xuất hiện đầu tiên của rượu. Căn cứ vào sử liệu Trung Hoa, thì ngay thời huyền sử Tam Hoàng, Ngủ Ðế đã xuất hiện ruợu, trong đó có nói tới chuyện Ðổ Khương tình cờ đem nếp ngâm làm mạ để gieo trồng nhưng sơ ý khiến nếp hỏng nhưng tiếc của không bỏ lại lấy số nếp hư đem nấu và phát hiện được một thứ nước màu hồng sậm, nồng mà ngon ngọt, về sau gọi là rượu.

            Tuy nhiên đó cũng là huyền thoại, còn thực chất thì theo Chiến Quốc Sách ghi rõ, Nghi Ðịch là người đầu tiên sản xuất rượu, đồng thời với các vật dụng bằng sành như chum vại ly chén, dùng để đựng và uống rượu. Tại lưu vực sông Nil thuộc Ai Cập, qua các công trình khảo cổ cho thấy cách đây hơn 6000 năm, người xưa đã biết cách làm bia rượu.Tại Cố cung Bắc Kinh, có một viện bảo tàng, tập hợp hầu hết những tác phẩm văn hóa nghệ thuật trân quý của nhiều triều đại, trong đó có các thứ ly cốc chén dùng để uống rượu, làm bằng vàng, bạc, đồng, ngọc, thủy tinh, sừng tê giác, phần lớn là của các bậc đế vương, quan quyền, thượng lưu trí thức, có cái thực dụng, có cái làm chỉ để ngắm chơi.

            Nhưng trong tất cả, chỉ có chiếc ly ‘ Kim âu vĩnh cố ‘ làm bằng vàng khảm ngọc, chạm khắc hoa mỹ, được coi là độc đáo nhất về phương diện nghệ thuật và giá trị kim tiền. Theo sử liệu, chiếc ly này do Phủ nội vụ thực hiện theo lệnh vua Càn Long (1736-1796). Ly làm toàn bằng vàng y, cao 12,5 cm, đường kính miệng ly là 8cm chung quanh khảm toàn là trân châu, tay cầm là hai con rồng đứng, trên đầu đính ngọc quý, thân ly chạm hoa với 11 trân châu, 9 viên bảo thạch đỏ, 12 đá quý màu lam, vành miệng ly khắc hoa văn với chữ triện “ Kim âu vĩnh cố’, mặt sau ghi chữ “ Càn Long niên chế”. Về ý nghĩa, chữ kim âu chỉ lãnh thổ toàn vẹn, còn ly kim âu thì đựng ngự tửu, song song với bút vạn niên thanh của nhà vua. Tất cả đều là dụng ý thầm kín của các hoàng đế , mong ước nhà Ðại Thanh nhất thống Trung Hoa muôn nam. Ý trên còn để lộ ra một cách rõ ràng, khi thân ly được thiết kế trên hình ba con voi đứng và mỗi vòi voi cuốn lên làm thành một chân ly.

            Tóm lại toàn bộ chiếc ly toát lên cái tính chất quý phái, sang trọng và vững chải theo thế chân vac, nên được nhà Ðại Thanh coi là vật trấn quốc chi bảo. Theo sử liệu thì hằng năm vào ngày Nguyên Ðán, giờ tý tức là khoảng 11 giờ ố1 giờ khuya , vua cử hành nghi thức khai bút năm mới, tại Ðông viên các trong Dưỡng tâm điện. Trên án thư đã bày ly “ kim âu”, đuốc ngọc và bút vạn niên thanh. Vào thời điểm thiêng thiêng đó, ngự thị rót đồ tô tửu, thứ rượu ngừa bệnh dịch ôn, vào ly kim âu, rồi đốt nến và vua khai bút bằng mực đỏ hai chữ Cát Tường, cùng các câu Thiên hạ thái bình, Phúc Thọ trường xuân.. ban cho hoàng gia, quần thân và thần dân.

            Tại cao nguyên Trung Phần VN, trước năm 1975 ai có dịp sống tại đây, chắc cũng đôi lần thường thức món rượu Ché (rượu cần) của đồng bào Thượng dùng đãi bạn bè, khách quý và khi trong làng có cuộc vui. Theo từ điển Francaire-Jarai-Vietnamien của học giả PE.Lafont do E.F.E.O xuất bản năm 1968 tại Paris đã có kê khai 30 chiếc ché cực quý đựng rượu của người Thượng cao nguyên. Theo tác giả, đây không phải là loại ché tầm thường bày bán tại chợ, mà là những tác phẩm nghệ thuật, chẳng những có giá trị vật chất mà còn mang đầy tính huyền thoại. Theo đó ta thấy ché RAN DING DÔNG của Will ở làng Kon Robang,KonTun, theo huyền thoại do công chúa Bok Glai làm tặng hai anh hùng đã có công chống giặc ngoại xâm. Ché có giá trị bằng 10 con trâu, tuổi thọ 100 năm. cao 0,60m đựng rượu quý. CHÉ HOTOK H’DANG của Kliu làng PleiBrell Pleiku, trị giá 20 con trâu, do người Sedang làm trên 1 thế kỷ.CHÉ HOTÔK RANGPIA vừa giữ nhà,khi có người lạ tới thì rượu báo động, ngoài ra trong ché tự chế biến đặc biệt chất rượu khi uống dù chỉ đựng một chất rượu. Tóm lại mỗi chiếc ché quý được đánh giá theo lý lịch, tên tuổi, các nhà giàu thời đó tranh nhau lấy tài sản để đổi cho được làm của gia bảo. Ngày nay qua cuộc đổi đời, ché chỉ còn coi như món đồ tầm thường, dù thực sự giá trị của nó có thể bằng cả thớt voi hay chiếc xe đò.

            Xưa nay rượu với người như hình với bóng vì ngoài chức năng tiêu khiển, giải phá thành sầu, rượu còn được dùng trong công nghiệp, y học, các nghi thức tôn giáo, giao tế xã hội.. sau hết rượu là nguồn bất tận ,gây cảm hứng cho văn nghệ sỹ, giúp họ sáng tác những tác phẩm bất hủ để đời, có thể kể như Lý Bạch, Ðổ Phủ, Bạch Cư Dị, Cao bá Quát, Nguyễn công Trứ, Nguyễn Khuyến.. Theo Chung Dung,Tôn văn Kỳ, Chu Quảng Ba.. trong sách những toa thuốc cổ truyền danh tiếng của Trung Hoa, rượu chữa được bách bệnh , nên chữ Y (thuóc) trong Hán tự có chữ Tửu (rượu) đứng trước. Rượu giúp hành huyết, khai uất. Chính Hải Thượng Lãn Ông, đại danh y của VN cũng viết :” rượu có chất ôn dùng để tải thuốc, uống có điều độ sẽ thông khí huyết. Uống rượu là một nghệ thuật sống mà không phải ai cũng đạt được, vì thế người Tàu đã phấn phối rành rẽ năm cách uống rượu : Ðộc ẩm, đối ẩm, cộng ẩm, quần ẩm và loạn ẩm.Sẳn tiền là sẳn rượu nhưng tìm được tri kỷ để đối ẩm không phải là chuyện dễ dàng.

“..Tửu vô kiềm tỏa năng lưu khách “ nên Nguyễn Khuyến đã viết :” Rượu ngon không có bạn hiền, không mua không phải không tiền không mua”, còn Lý Bạch thì :” Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, duy hửu ẩm giả lưu kỳ danh” nhưng nồng nàn và đầy đủ ý nghĩa hơn hết vẫn là lời phán của văn hào Anh Fergus Hamilton Allen :” Whisky là mặt trời chiếu sáng tình bạn, là mặt trăng soi sáng tình yêu ..”

            Cổ nhân cứ theo rượu mà trêu chọc người đời khắp nơi trên sách vở, làm cho thế nhân cứ ao ước được một lần, để nhắp thử loại rượu do Ðổ Khang chế , đã làm cho Lưu Linh là người nổi tiếng uống rượu không bao giờ biết say vào thời đó, phải nằm yên dưới lòng đất để ngủ một giấc ‘ ba năm ‘ mới tỉnh lại.

‘ Mãnh hổ nhất bôi sơn trung tuý
Giao long lưỡng trán hải đồ miên
Không say ba năm chẳng lấy tiền ‘

2-CÀC LOẠI RƯỢU :

             Rượu có nhiều loại, nhiều hạng, thứ nào uống nhiều cũng say dù đó ngự tửu của vua chúa, hay Mai quế lộ, ngủ gia bì hoặc đế, nếp, rượu cần.. Nói chung rượu phát từ hai nhóm chính là RƯỢU LÊN MEN cất từ nước ép của hoa quả như rượu vang, rượu cần.. và RƯỢU CHƯNG CẤT (spirits) làm từ đường mía, tinh bột, ngủ cốc, củ cải.. ngoài ra còn có thứ rượu mùi đặc biệt, được pha chế từ thứ rượu cồn Etalic với đường, acid Citricque, và các hợp chất màu.

+ Rượu Ta :

             Việt Nam có nhiều vùng cất rượu ngon nổi tiếng như là làng Vân (Bắc Ninh), Nguyên Xá (Thái Bình), Trương Xá (Hưng Yên), Nga Mi (Hà Tây), Quảng Xá (Thanh Hóa), Bắc Hà (Lào Kai), Kẻ Diên (Quảng Trị), Bàu Ðá (Bình Ðịnh), Phụng Hiệp (Cần Thơ), Gò Ðen, Long Thành, Củ Chi.. Các dân tộc thiểu số vùng núi có rượu cần độc đáo.

            Tất cả các loại trên đều được chưng cất theo phương pháp gia truyền , chứ không theo đúng các qui trình khoa học Âu Mỹ. Nhiều loại rượu đặc chế bằng gạo, dừa, nếp, đậu nành, đào, táo, lê, Rượu đế còn gọi là nước mắt quê hương, nấu bằng nếp , phát xuất từ thời Pháp thuộc, có nồng độ cao. Rượu quế chỉ dùng làm thuốc trị tì vị vì quế có nồng độ rất gắt và bán rất đắt giá. Rượu dừa chế bằng cách cấy men vào gốc dừa khi buồng dừa mới trổ và phải mất từ 6-8 tháng mới thành rượu dừa, sủi bọt nhưng ngon hơn bia. Theo khách sành điệu trong làng ve chén hiện nay, thì VN hiện có bốn loại rượu ngon nổi tiếng là rượu làng Văn xứ Bắc, Kim Long ở Quảng Trị, Bàu Ðá Bình Ðịnh và đế Gò Ðen Nam Phần.

             Trong Ðại Nam Nhất Thống Chí viết rượu Kim Long ở Hải Lăng, Quảng Trị ngon hơn hết. Thời Pháp thuộc, thực dân chiếm hết các lò nấu rượu trong tỉnh và lập công ty rượu Xi-Ca. Khi rượu ra lò đóng vào chai, thì được đem ngâm trong hồ nước lạnh một thời gian ấn định, rồi dùng thuyền nhỏ chở rượu theo sông Vĩnh Ðịnh tới Huế, lên tàu lớn chở về Pháp và từ đó xuất cảng khắp thế giới.

            Rượu rắn Phụng Hiệp được chế tạo tại thị trấn Phụng Hiệp còn gọi là Ngã Bảy, về phía nam tỉnh Phong Dinh , cách thành phố Cần Thơ chừng 30 km, từ xưa đã nổi tiếng về các đặc sản đồng ruộng như cá, tôm, ốc, ếch, cua, bìm bịp và nhiều nhất là rắn bày bán dọc theo quốc lộ 4 và các ngôi chợ nổi trên sông rạch. Rượu rắn Phụng Hiệp là thổ sản địa phương, phát triển từ năm 1960 tới nay vẫn còn hưng vượng . Hiện có 5 lò sản xuất nhưng qui mô hơn hết vẫn là lò Năm Rô. Rắn dùng để làm rượu, phải là rắn sống, đem về mổ bụng từ ức tới hạ môn, bỏ hết chỉ giữ lại mở và mật vì đây là hai vị thuốc. Làm theo ba cách như ngâm rắn tươi, rắn khô và bột rắn. Hiện Phụng Hiệp sản xuất ba loại rượu rắn là Tam xà ( hổ mang, hổ lửa hay rắn ráo,m ai gầm hay cạp nong ), Ngũ xà ( gồm ba loại trên thêm hổhành và hổ hèo), Thập Xà ( gồm 5 loại rắn trên cộng thêm rắn lục, bông, ri voi, ri cá và bông súng). Rượu rắn có công dụng trị các chứng tê liệt, đau nhức, phong thấp, bồi bổ sức khoẻ, ăn uống chậm tiêu.

            Vùng thượng du Bắc Việt có rượu cần tây bắc của người Thái, Mèo như rượu Lầu Xá tại Sơn La chế bằng nếp, trấu và men, uống say như bia, lại có mùi thơm nếp, làm mát ruột và tiêu hoá nhanh. Tại Lai Châu có rượu Lầu Sơ, loại rượu trắng nấu bằng khoai mì, theo phương pháp cất khô như rượu bắp của người Mèo ở Bắc Hà (Lào Kai). Ngoài ra còn có rượu Lầu Vang của người Nùng ở Mường Tế nấu bằng nếp và dùng chén để uống chứ không hút bằng cần.

            Người Mèo Hoa ở Bản Phốợ trồng nhiều bắp (300 ha) hơn lúa (chỉ có 82 ha) vì bắp dùng để nấu rượu ngô vừa để uống và mang ra chợ Bắc Hà, cách bản chừng 3 km, bán cho mọi người kinh cũng như thượng. Nhờ vậy mà dân trong bản, nhiều gia đình đã sắm được xe ngựa chở rượu ra chợ bán. Rượu ngô của người Mèo chế đặc biệt hơn, khác với vị đằm của rượu San Lùng người Mán, vị ngọt của rượu Cần Thái, vì nó nồng nên khó uống. Cách làm rượu cũng dể, cứ đem bắp về (loại bắp vàng) luộc nhưng đừng để lửa to quá làm rượu không ngon. Còn men thì làm từ hạt Hồng Mị (giống như hạt kê), đem trộn với bắp đã luộc, bỏ vào thùng gang ủ một tuần. Thời gian này phải đốt lửa để hơi rươu bốc hơi qua một cái chọt gổ, chảy ra ngoài. Cứ 10 ký bắp làm được 3 lít rươu, để nguyên uống nếu pha thêm nước lạnh thì rượu sẽ không mùi vị nữa. Ngoài ra rượu ngon cũng còn tùy thuốc vào nguồn nước để nấu. Nên người kinh tại vùng xuôi dù đã học đúng cách nấu rượu của người Mèo Hoa, rượu cũng không ngon vì tại đây đâu có nước suối Háng Dế để mà chưng cất rượu ?

            Xứ Thái ở vùng tây bắc giáp Lào (Lai Châu) có loại rượu đặc biệt làm từ các loại côn trùng như sâu chít, nhộng dùng làm rượu bổ, được bày bán tại chợ Ðiện Biên. Chít là con sâu non sống trong ngọn cây chít, một loại cây giống như lau sậy ở miền Nam nhưng sâu chít chỉ có ở vùng tây bắc mà thôi. Vào mùa xuân, đồng bào bắt đem về làm rượu.

            Tại cao nguyên Trung phần, rượu cần được nấu bằng lúa, nếp, bo bo, khoai mì, bắp, đậu. Với các người Teu, Vân Kiều , Pacoh tại Quảng Trị, Thừa Thiên có các loại rượu nứa, mây, đoắc.. chế từ nước trong thân của các loại cây trên cộng với men, uống có vị chua cũng say nhưng phẩm chất kém xa các loại nấu bằng ngủ cốc. Riêng người Rhade nấu rượu bằng cơm, trộn với thứ men đặc biệt gọi là Kuach Eya. Người Lào có rượu nếp còn rượu Miên thì lạt hơn rượu Lào nhưng rượu nào cũng say.

+ RƯỢU TÀU : Từ thời thượng cổ, người Trung Hoa đã có nhiều loại rượu nổi tiếng như Thiệu Hưng Trạng Nguyên Hồng, Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng, Trúc Diệp Thanh, Mai Quế Lộ, Bách Thảo Mỹ Tửu, Hầu Nhi Tửu, Bồ Ðào Tửu, Cao Lương, Ngũ Tiên, Phục Ðức Gia Tửu, Mao Ðài, Thấu Bình Hương .. Theo sử liệu, vào thời nhà Tống (960-1297), nền công nghiệp chưng cất rượu của người Tàu đã đạt tới mức tinh vi. Huyện Dương Cốc thuộc tỉnh Sơn Ðông, một địa danh gắn liền với truyền thuyết Võ Tòng đã hổ trong Thủy Hử truyện của Thị Nại Am tiên sinh, thuở đó đã có tới 77 nhà sản xuát rượu, trong số này có Thấu Bình Hương của Trấn Trương Thu là nổi tiếng nhất. Ðây chính là loại rượu “ Tam Uyển Bất Quá Cương “ , mà Võ Tòng đã uống tới 18 chén mới say, rồi bất chấp lời khuyên can của mọi người, vượt đồi Cảnh Dương đả hổ được truyền tụng muôn đời. Thấu Bình Hương từng được chọn làm cống tửu và chính vua Tống Thần Tôn đã viết lời khen tặng :” Quí Nhân Giai Tửu “.Ðại Ðế Khang Hy đời Thanh, khi tuần du phương nam cũng không tiếc lời ca tụng khi nhắm nháp. Năm 1983, trong Ðại Hội toàn quốc Võ Tòng đã hổ lần thứ III tại Bắc Kinh, rượu Thấu Bình Hương đã chính thức chinh phục cử tọa và được mệnh danh là Anh Hùng Tửu. Ngày nay , công ty rượu Cảnh Dương Cương ở huyện Dương Cốc, cách Sư Tử tửu lầu không xa , sản xuất Thấu Bình Dương để xuất cảng với biệt danh Cảnh Dương Trấn Nhưởng

+ Rượu Tây : Champagne là vua trong các loại vang sủi bọt, có nồng độ từ 10-12 , dịu nhưng cũng đủ say, được mọi người dùng nhiều nhất trong các dịp lễ tết, tiệc tùng kỹ niệm. Chữ Champagne còn mang ý nghĩa vui vẽ, hạnh phúc, phấn khởi. Ðược chế tạo bằng loại nho đặc biệt (Chardonnay 24% và Pinot Noir 76%) tại các vùng trồng nho nổi tiếng của nước Pháp thuộc miền Champagne như bình nguyên Montagne de Reims Epernay nằm về phía đông bắc Ba Lê. Riêng các thùng gổ đựng rượu nho có một hệ thống nắp đặc biệt , mở ra đóng vào phù hợp với thời gian đủ cho khí CO2 thoát ra mà không cho các loại khí khác xâm nhập .Khi nho lên men, người ta trộn thêm đường , sau đó đóng nút chai, đặt ngược đầu và ủ vào hầm kín , từ 5 đến 6 năm mới đem ra thị trường tiêu thụ. Riêng các kỷ thuật xoay chai và tách nấm men ở cổ chai đều là bí thuật không phổ biến. Tóm lại mỗi chai Champagne đều có một lượng nhỏ đường và acid , còn lại là chất Phenol nhưng yếu tố quyết định ngon dở vẫn do mùi vị bí truyền , thuộc nhiều yếu tố như giống nho, men, thời gian lên men, kỹ thuật biến chế.Hiện thị trường có ba loại Champagne : Loại không ngọt ( bruit), hơi ng5t ( demi-sec) và ngọt (sec). Ngày nay các h ảng sản xuất Champagne bắt chước các công ty Brandy vẽ sao làm ký hiệu trên các nhản chai như 1 sao là rượu 3 năm, 2 sao là 4 năm, và 3 sao là 5 năm. Còn VO là rượu trên 12 năm, VSO từ 12-20 năm và VOVS từ 20-30 năm và XO trên 30 năm. Ðược biết người chế ra rượu Champagne đầu tiên là một giáo sĩ người Pháp tên Pierre Pérignon. Hiện rượu Champagne đã vượt biên giới Pháp , lan tràn khắp nơi trên thế giới và được sản xuất tại các nước trồng nho.

- Bia : là loại thức uống có Gaz , nồng độ từ 3-10, dược chế bằng các loại ngủ cốc mà chủ yếu là luá đại mạch, ngoài ra còn độn thêm bắp, gạo, cao lương, tiểu mạch hoặc vài loại trái cây. Bia lon hay bia chai là bia đã lọc, thanh trùng, còn loại không lọc hay thanh trùng thì gọi là bia tượi, bia bock, bia Draft. Bia chế tạo tại VN sau 1975 không thanh trùng, lại còn thêm vào khí CO2 cho sủi bọt.

            Người Ðức gọi Beer là Bier, một đại gia không bao giờ vắng mặt tại nước này. Theo truyền thuyết bia xuất phát đầu tiên tại vùng Lưỡng Hà và là món giải sầu cho những người nô lệ khi họ bị bắt tới Ai Cập vác đá xây kim tự tháp cho các Pharaoh. Còn Ðức lại là quốc gia sản xuất nhiều bia nhất hiện nay với 1270 lò sản xuất 5000 loại và mỗi người Ðúc hằng năm tiêu thụ tới 114 lít. Bia Ðức thường có độ alcool trung bình là 5% nhưng cũng có loại không chứa, gồm ba thứ chính là bia vàng, nâu và đen.

            Hằng năm tại Munich (Ðức) có lễ hội bia Oktoberfest , có xuất xứ từ một lễ cưới của Hoàng gia Phổ năm 1810, đã thu hút hàng triệu du khách quốc tế. Hiện Ðức chọn ngày 23 tháng 4 Dương Lịch mỗi năm là ‘ Ngày Bia ‘ với những luật lệ được ban hành từ năm 1516, qui định việc sản xuất bia bằng nước thiên nhiên, hoa bia và mạch nha.

            Pháp có bia 33 và con cọp (tiger) nổi tiếng lâu năm tại VN nhưng không phải là nước uống nhiều bia mà lại nổi tiếng về rượu vang và cognac. Nhưng Pháp lại có một trung tâm bia (Culture Bière) trên đại lộ Champs Élysées .Ðặc biệt ở đây chỉ có bia, từ loại nổi tiếng đắt tiền được các dòng tu sĩ Thên Chúa Giáo sản xuất, tới loại bia Heineken dựng trong các chai với nhiều kiểu kỳ lạ làm bằng nhôm. Trung tâm này không phải là một lò sản xuất bia của Pháp, mà là nơi trưng bày tất cả những gì có liên quan tới việc nấu bia như hoa bia, hạt lúa mạch, các loại men.. Ngoài ra còn có các kiểu ly dùng để uống từng loại bia cho tới những dụng cụ mở chai được thiết kế rất cầu kỳ.

- Các Loại Rượu Mạnh : chiếm phần lớn thị trường rượu , bao gồm WHISKY được nhiều quốc gia sản xuất nhưng nổi tiếng nhất của Mỹ, Tô Cách Lan, Anh, Ái Nhĩ Lan, Gia Nã Ðại. VODKA chế biến tại Nga, Ba Lan, Ðông Âu. RUM tại Tây Ban Nha, Ðức, Ý. COGNAC nổi tiếng nhất của Pháp. Rượu mận Slivovitz phổ biến ở Hung Gia Lợi, Lỗ và Nam Tư. Ngoài ra còn có Brandy Anh Ðào gọi là rượu Kirsch ở Pháp, Ðức, Thụy Sĩ. Người Mễ Tây Cơ có loại rượu Tequila và Pulque. Ở Hawaii có rượu Okelahao hay Oke, còn người Nhật có rượu Saké. Ðược coi là rượu mạnh (spirit), nồng độ tối thiểu phải đạt trên 30 độ.

             Whisky cất từ lúa đại mạch đen và bắp. Trước kia các loại Whisky đều nấu bằng mầm lúa đại mạch nên gọi là Whisky đại mạch. Sau năm 1830 người ta trộn thêm bắp nên Whisky có mùi dịu hơn và sự cấm kỵ trong lúc chế biến là không được dùng khoai tây, trái cây. Hiện có bốn loại Whisky nổi tiếng trên thế giới : Whisky Scotch (Tô Cách Lan), Irish (Ái nhĩ Lan), HoaKỳ và Gia Nã Ðại. Trong các loại, Whisky Tô cách Lan nổi tiếng hơn 1100 năm , với hai nhản hiệu Ông Già Chống Gậy ( Johnnie Walker ) nhãn đỏ ũ trên 3 năm, còn nhãn đen trên 12 năm trước khi xuất xưởng. Ngoài ra còn có Chivas Regal nổi tiếng và mỗi năm bán trên 42 triệu chai. Whisky Aí Nhĩ Lan dùng nguyên liệu tương tự rượu Scotch nhưng chưng cất bằng nồi có cột (patien still), còn rượu Scotch thì nấu trong nồi cổ cong hay nồi củ hành. Whisky Mỹ nấu bằng bắp (51%),nên nồng độ không quá 80 độ, còn gọi là whisky Bourbon, nổi tiếng trong loại này có Four Roses và Danniel ‘s Jack Bourbon. Rượu whisky Gia Nã Ðại có màu sậm vì chế bằng lúa mạch đen và bắp mà nhãn hiệu Crown Royal được ưa chuộng nhất, bên cạnh còn có Seagram mang ký hiệu VO cũng được nổi tiếng.

             Brandy chưng cất từ nho hay các loại trái cây đã lên men theo kỹ thuật cổ truyền , đạt nồng dộ từ 70-80, sau khi rượu phải qua hai lần chưng cất rồi đem ủ vào các thùng gổ sồi để oxy hoá. Cuối cùng thêm vào rượu nước cốt Caramel để hạ nồng độ xuống còn 40 cố định, hiện nay có hai loại Cognac và Armagnac. Cognac chế bằng loại nho đặc biệt được trồng tại những miền lựa chọn, nho tươi ép lấy nước cốt để lên men trước khi cho vào nồi chưng. Nhiều loại cognac nổi tiếng hiện nay như Hennessy, Martell, Remy Martell, Courvoisier,Napoleon,Roi des Rois.. Riêng Armagnac được chế tạo bằng các loại nho St.Emillion, Folle Blanche và Colombard trồng ở vùng Gascony phía nam tỉnh Bordeaux,Pháp, cách chưng cất hai loại rượu giống nhau nhưng rượu này dùng nồi cất có cột và rượu được ủ trong thùng gổ sồi, rượu uống gắt nhưng hương vị đậm đà. Tại Ý có cognac gọi là Marc và Grappa, chưng cất từ vỏ và hạt nho, có màu xanh nhạt , gắt hơn rượu Pháp nhưng được nhiều nước Âu Châu thích, nhất là loại Grappa Italy, chế tạo tại vùng Pied Monte và Barbara.

             Về loại Rum. Ron (Tây Ban Nha) và Rhum (Pháp) đều chế bằng mía,theo truyền thuyết được quân viễn chinh Mông Cổ và Hung Nô từ Trung Á mang vào trồng tại Âu Châu đầu tiên, sau đó Kha Luân Bố mang đến trồng tại Châu Mỹ La Tinh và Cu Ba. Ngày nay Rum được chế tại hầu hết các quốc gia trồng mía, dùng để pha cocktail nhưng nhiều người vẫn thích uống nguyên chất vì nồng độ rất cao, so với các loại brandy khác.

            Tại Jalisco, Mễ Tây Cơ có loại rượu nổi tiếng Tequilla, chưng cất từ nước cốt lên men của một loại cây cùng họ với cây xương rồng gọi là Tequilla Weber , nồng độ chừng 40, có vị thảo mộc, khi uống pha với nước chanh.

             Vodka là loại rượu mạnh không màu, gần giống như đế của VN hay Phục Ðặc Gia Tửu của Tàu, chế biến từ các loại lương thực ngâm nước nóng. Riêng Vodka Ba Lan và Nga, nấu bằng khoai tây, có nồng độ ban đầu tới 95, sau đó giảm dần chỉ còn 45-50., đặc biệt loại này không cần ủ mà chỉ cần lọc hết màu và mùi vị để trở thành trong suốt.Trừ các tay cao thủ trong Lưu Linh phái uống nguyên chất, còn hầu hết phải uống qua sự pha chế với các loại nước trái cây cho rượu hạ bớt nồng độ. Cuối cùng là rượu GIN của Hòa Lan do tiến sĩ Sylvius sáng chế năm 1650, từ sự chưng cất các loại hạt (bắp, lúa), trộn với các hương liệu như quế, hạnh nh6an, côca,gừng, vỏ chanh, vỏ cam.. có nồng độ từ 34-47.

3-CHUYỆN LẠ VỀ RƯỢU :

+ CUỘC CHIẾN RƯỢU Ở MEXICO : Mỗi chai rượu Tequila theo thời giá hiện nay bán trên 100 đô la vì vậy nhiều người làm rượu giả. Năm 1999 đã có 1307 vụ xô xát về rượu Tequila tại Mễ Tây Cơ, làm 42 người chết và hằng ngàn người khác bi thương. Theo tin từ tờ NewsWeek và USA Today ngày 8-9-2000, có tường thuật cuộc chiến rượu giả Weber Blue nấu bằng cây thùa và đậu Hà Lan, mới vừa phát minh từ tiền bán thế kỷ XX và loại nổi tiếng hơn 1000 năm qua là Tequila, cũng được nấu bằng hat cây thùa. Vì giá cả và phẩm chất khiến rượu giả Weber Blue nhiều lần đánh bật rượu thật Tequila, và cuộc chiến giữa hai thứ rượu đã bùng nổ ngay trên quê hương của Tequila. Cuộc tranh chấp thật dã mang, người ta dùng đủ mọi thủ đoạn để hại nhau, từ đâm chém, bắn giết, phá hoại ruộng vuờn trồng trọt và cả cách làm rượu giả để hạ uy tín lẫn nhau. Vì cách thức cất rượu qúa dễ và kiếm lời nhiều, nên nhiều Bang khác của Mễ cũng bắt chước trồng đậu Hà Lan và thùa để chế rượu Tequilq và Weber Blue. Ðể chế biến rượu cho mới lạ, thành một thứ hổn hợp, không giống ai vì nhái theo mùi vị và kiểu chai cognac hay champagne, rượu Whisky của Mỹ, Tô Cách Lan...... bằng cách trộn thêm đủ thứ như mía, bắp, củ cải, trái cây.. bán khắp nước và xuất cảng. Từ thập niên 1950-1994, các bang Oxaca, Guadalajara, Monterrey,Juarez.. bùng nổ kỹ nghệ sản xuất rượu , chỉ riêng Tequila đã có hơn 600 loại., thượng vàng hạ cám. Còn một điều lạ khác là các nước Âu Mỹ cũng bắt chước người Mễ làm rượu giã và Mễ Tây Cơ hiện nay là quốc gia sản xuất rượu nhiều nhất thế giới.

+ BÔNENKAI,TRUYỀN THỐNG UỐNG CẠN LY CỦA NGƯỜI NHẬT : Bônenkai, từ nguyên Hán-Việt có nghĩa là vọng niên hội, một biểu hiện cao nhất của tính cách hai mặt, trong đời sống Nhật Bản., nghiêm trang đứng đắn lúc ban ngày và trở thành kẻ rất xa lạ về đêm trong các tửu quán, nơi bộc lộ một cách trần trụi nhất tính bạo lực tiềm ẩn trong xã hội công nghệp đang phát triển tợt bực. Tóm lại trong các cuộc vui mọi người phải hoà mình và quên hết thân phận nhưng trên hết phải biết uống rượu và hát.

            Theo nhà xã hội học Nobutake Kanzaki, thì tập tục uống cạn ly trong bàn tiệc, bắt nguồn từ các nước Ðông Nam Á và Nhật Bản, về muà hè nóng và ẳm ướt, nên việc bảo quản rượu lên men thời xưa rất khó khăn. Vì thế trong mùa hội hè, người ta có thói quen uống sạch rượu dự trữ từ 1 tới 3 ngày. Trái lại ở Âu Châu, mùa hè khô ráo, rượu tha hồ để lâu, nên người ta nhấm nháp tuỳ theo ý muốn và gọi đó là kiểu Ðịa Trung Hải, còn uống cạn ly như Nhật là kiểu gió mùa. Cho nên điều cốt yếu trong một bàn tiệc là rượu phải chảy như suối,tất cả mọi người phải say để đạt tới một sự cộng thông về tinh thần, đây cũng là thói quen từ xưa của người Nhật, uống rượu liên tục và khi họ say thì hát và chơi các trò vui nho nhỏ.

            Tại vùng Á Ðông, người Nhật có phong tục thờ cúng tổ tiên đặc biệt. Ngày Tết, cúng rượu Saké cho thần thánh và tổ tiên xong, số ruợu còn lại ho uống để chúc tụng. Người Anh có lối chúc rượu nhau gọi là Toast bắt nguồn từ một phong tục cổ truyền hồi thế kỷ XVI . Thời ấy người Anh mỗi khi uống rượu thường bẽ một mẫu bánh mì nướng bỏ vào ly rượu cho thêm hương vị. Ngày nay Toast có nghĩa là cạn ly.

            Ngoài ra họ còn một phong tục rất giống người Việt , đó là luân phiên nhau uống rượu trong cùng một cái ly bằng bạc, có hai tay cầm. Những ngày đầu năm tết lễ, người Mỹ dùng rượu để chúc mừng lẫn nhau. Trong một bửa tiệc có Mục sư Martin Luther King tham dự, một nhà báo đã nâng ly chúc mừng :” cầu xin Thượng Ðế hãy cho nước Mỹ có những con người không vì danh lợi mà hại dân, không vì vinh thân mà bán nước..” Tóm lại kẻ sĩ uống rượu là để thực hành cái nhân sinh quan bất biến :” Thề,Chết,Trốn,Uống” nghĩa là Thề vì Tổ Quốc, Chết cho Chính Nghĩa, Trốn khỏi bọn gian ác bất lương và Uống với Bạn Hiền .

            Ai cũng biết rượu là nguyên nhân gây ra phiền phức cho con người . Nhưng tự cổ tới kim, thế nhân vẫn lao đầu vào rượu đến độ như Lý Bạch trong cơn say thấy bóng trăng phản chiếu trên mặt sông Thái Thạch , đưa tay vói bắt đến nổi té xuống nước chết đuối. Người xưa dùng rượu để quên ta, quên đời, quên sầu, quên tất cả như Nguyễn Công Trứ :” rượu với sầu như gió mã ngưu, trong lai láng biết tránh đâu cho khỏi..”, Còn Cao Bá Quát thì :” thôi công đâu chuốc lấy sự đời. Tiêu khiển một vài chung lếu láo.Ðoạn tống nhất sinh duy hữu tửu.” hoặc :” lắc bầu rượu , dốc nghiêng non nước lại. Chén tiếu đàm , mời mọc trích tiên..”

            Người đời nay cũng đâu khác đời xưa, trước tâm sự ngổn ngang tận tuyệt, chỉ còn biết mượn rượu để tống biệt sầu buồn :

“ Ai người tri kỷ
Hãy cùng ta cạn một hồ trường
(Nguyễn Bá Trạc)

hay :” Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ em ơi..”
(Vũ Hoàng Chương).

            Thật ra con người coi rượu là tri kỷ cũng đáng vì rượu là niềm vui cũng như nổi buồn, khi trùng phùng cũng như hồi ly biệt, bâng khuâng thương nhớ khi nhắp ly rượu đào. Hóa ra hạnh phúc nhiều khi không phải là tưng bừng cao lương mỹ vị, mà chỉ cần có những mặn mòi nồng ấm quê hương, một nơi cho nổi nhớ biết chốn đi về, ở đó hình như những ngày xuân củ có bạn, có ta, có người em gái .. cười vui chếch choáng xuân thì -/-



Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2013
Mường Giang


Featured Post

Bản Tin cuối ngày-16/12/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link