--
Kính
Chuyển
MG
TRĂM NĂM BIA ÐÁ CŨNG MÒN
NGÀN NĂM BIA RƯỢU VẪN CÒN SAY SƯA
Mường Giang
Bình Ðịnh trước đây là đất vua, nơi có thành Ðồ Bàn từng là đế kinh của vương
quốc Chiêm Thành, kéo dài từ thế kỷ thứ X-XV (sau tây lich) mới chấm dứt. Thành
này lại được Thái Ðức Hoàng đế Nguyễn Nhạc vào năm 1776 cho mở rộng để xây
hoàng cung. Ðặc biệt ở ngoại ô có một chợ rượu rất vui vẽ tấp nập, nhờ nằm trên
một địa thế thuận lợi cả đường bộ lẫn đường sông, nên mọi người có thể tới đây
bằng ngựa xe hay ghe thuyền.Theo các tài liệu còn lưu trữ cho biết chợ rượu thời
đó thuộc tổng Háo Ðức Thượng, nay là xã Nhơn An, huyện An Nhơn, được xem như là
chốn phồn hoa đô hội vào thời đó.
Ngoài kinh thành Ðồ Bàn, đây cũng là nơi tụ tập ăn chơi hưởng thụ của giới
quan quyền và thượng lưu sang giàu khắp vùng. Vì vậy đã tập trung gần như tất cả
các giai nhân tài tử tứ phương cùng với nhiều loại danh tửu trong thiên ha, từ
rượu nếp hương, nếp lưu niên, cơm nếp Phú Ða, Háo Lễ tới rượu gạo tăm Cảnh
Hàng, An Tây, Chánh Mẫn, rượu nho tươi Kim Châu và đệ nhất đế ‘ Bàu Ðá ‘ tới
nay tiếng tăm vẫn còn nguyên vẹn. Sỡ dĩ đế Bàu Ðá ngon và nổi tiếng khắp Bình Ðịnh,
vì xóm Bàu Ðá xưa có một cái bàu nước ngọt trong và xanh vắt được đem về nấu rượu
bằng nồi đất và ống dẫn được làm bằng tre. Rượu chẳng những dùng để uống mà còn
được ngâm với thuốc bắc để các nam nữ vỏ sĩ thoa bóp hay uống trong lúc luyện
võ.Ai đã từng uống được thứ rượu ngon này mới cảm nhận hết cái mùi vị vừa thơm
vừa nhẹ, nên chỉ vài chén đã thấy tâm hồn sảng khoái, nồng nàn thú vị, nên dẫu
có say cũng không lâu hay bị nhức đầu.
Ngoài rượu của miền xuôi, tại đây còn bày bán các thứ rượu cần của người Chàm
và Bahnar ở vùng Tây Sơn thượng đạo (Bình Khê, An Túc ngày nay), được chở tới với
trầu nguồn, măng le .. bằng các thuyền buôn xuôi ngược trên sông Côn. Rượu bày bán
khắp các hàng quán có dâng đèn kết hoa rực rở và được chứa trong các chai lọ,
bình ché độc đáo. Tất cả đều là loại đồ cổ quý giá lâu đời, làm bằng sứ men xanh
hay đồng, thau, bạc, thủy tinh, đất nung cho tới da lươn, vỏ bầu nậm, bong bóng
lợn.. Bên cạnh còn có những cốc, chén, ly hay tô lớn đủ màu đủ kiểu có chân hay
không, được đặt trên những đài, kỷ và khay làm bằng gổ được chạm trổ, để các
người hầu rượu hay đào nương kỷ nữ dâng rượu ngang mày cho khách.
Thường chợ rượu họp năm ngày một tuần nhưng đông vui nhất vẫn là phiên cuối
tháng với khách kinh thành đổ về mua vui trong các quán rượu do người đẹp làm
chủ. Nhưng rồi ‘ thành cũ lâu đài bóng tịch dương ‘, tất cả cũng tan biến theo
thời cuộc và nổi thăng trầm khi Nguyễn Nhạc chết năm 1793 mang theo sự sụp đổ của
Hoàng đế thành
Quê người những ngày xa xứ, ngồi trong quán cốc bên đường lặng lẽ nhìn cuộc đổi
thay nhanh chóng của thời gian, để rồi ngậm ngùi trước cảnh đổi đời phế hưng với
người xưa cảnh cũ đâu còn. Thuở còn làm lính trận,
những ngày sắp xuân có dịp dừng quân trên các thôn làng sông nước Hậu Giang, là
dịp thưởng thức mùi hương lúa mới, các món ngon vật lạ của ruộng đồng, trong đó
có đờn ca và nhắm nháp một thứ mỹ tữu : “ Rượu đế nổi tiếng Gò Ðen”, những thứ ở
Phan Thiết quê tôi không có. Rượu đế ở đây trong veo và cháy nồng như một ngọn
lửa bốc cao, hòa điệu cùng với lời ca tay đờn ngẩu hứng lồng lộng khi hơi men
chếch choáng, cứ thế cổ bàn rộn theo những bản vọng cổ, xàng xê, nam xuân, văn
thiên tường , phượng cầu, bản lớn bản nhỏ xen lẫn những bản tân cổ giao duyên,
mượn ý nhạc của Trịnh Lâm Ngân như Xuân này con không về, thư xuân trên rừng
cao, mùa xuân của mẹ.. khiến cho lính trận cũng phải khóc ngất theo những cung
bậc nĩ non hờn oán của tiếng lục huyền cầm, vì đêm xuân xa nhà, nhớ quê, nhớ mẹ,
nhớ em.
Nay thì vèo xa tất cả, ở một chốn rầt là buồn, trong giờ khắc giao thừa,
giữa lúc nhà nhà cài then khóa cổng để xum vầy năm mới, thì người lữ khách tị nạn
cũng “ rũ áo phong sương “ lặng nhìn thiên hạ rồi hướng về cố quốc, để thấy
mình lạc lỏng trơ trọi. Rốt cục cũng chỉ mình ta nâng chén để mừng ta thêm một
tết buồn. Hởi ôi :
“ Trăm năm sông núi cũng
mòn,
nghìn năm bia rượu, vẫn còn
như xưa.”
1-ÐI TÌM DÁNG RƯỢU TRONG
DÒNG LỊCH SỬ NHÂN LOẠI :
Mổi khi xuân về, người ta thường làm thơ viết đối với những lời chúc tụng tốt đẹp
và nồng nàn nhất để dành cho nhau trước những ngày đầu năm mới. Ngoài ra chuyện
ăn uống ngày tết cũng là một biến chuyển quan trọng , so với cuộc sống thường nhật
vì nhà nhà đều ăn nhiều,ăn ngon như là một ước nguyện mong mõi được sung túc
quanh năm. Cái vui của ngày tết, là trong lúc phụ nữ bận rộn lo chuyện ăn mặc,
gạo cơm thì các chàng hầu như chỉ biết tới bia rượu để cùng bạn bè vui vầy say
xỉn.
Ngày xưa rượu tượng trưng cho quyền lực, do đó chỉ có vua chúa mới tha hồ thưởng
thức các loại mỹ tửu và theo sử liệu, thì đây là nguyên cớ chính khiến cho các hoàng
đế Trung Hoa cũng như các nước trên thế giới bị giảm thọ. Người quân tử dùng rượu
trong việc lễ “ vô tửu bất thành lễ”, cho nên rượu trước hết là một phạm trù
văn hóa trong sinh hoạt của mọi dân tộc,nhất là VN. Ngày tết mà thiếu rượu là
thiếu đi một phần đáng kể trong ngẩu hứng của con người, cho nên ngay cả các bà
vợ khó tánh , ghét nhậu.. cũng ráng sửa lại cái dáng “ mặt lớn, mặt nhỏ” chỉ
làm xui cho cả năm, để sẳn đầy ắp rượu ngon mồi quý, cho chồng và bạn vui xuân.
Tới nay các nhà khoa học vẫn chưa biết chắc thời điểm xuất hiện đầu tiên của rượu.
Căn cứ vào sử liệu Trung Hoa, thì ngay thời huyền sử Tam Hoàng, Ngủ Ðế đã xuất hiện
ruợu, trong đó có nói tới chuyện Ðổ Khương tình cờ đem nếp ngâm làm mạ để gieo
trồng nhưng sơ ý khiến nếp hỏng nhưng tiếc của không bỏ lại lấy số nếp hư đem nấu
và phát hiện được một thứ nước màu hồng sậm, nồng mà ngon ngọt, về sau gọi là
rượu.
Tuy nhiên đó cũng là huyền thoại, còn thực chất thì theo Chiến Quốc Sách ghi
rõ, Nghi Ðịch là người đầu tiên sản xuất rượu, đồng thời với các vật dụng bằng
sành như chum vại ly chén, dùng để đựng và uống rượu. Tại lưu vực sông Nil thuộc
Ai Cập, qua các công trình khảo cổ cho thấy cách đây hơn 6000 năm, người xưa đã
biết cách làm bia rượu.Tại Cố cung Bắc Kinh, có một viện bảo tàng, tập hợp hầu hết
những tác phẩm văn hóa nghệ thuật trân quý của nhiều triều đại, trong đó có các
thứ ly cốc chén dùng để uống rượu, làm bằng vàng, bạc, đồng, ngọc, thủy tinh, sừng
tê giác, phần lớn là của các bậc đế vương, quan quyền, thượng lưu trí thức, có
cái thực dụng, có cái làm chỉ để ngắm chơi.
Nhưng trong tất cả, chỉ có chiếc ly ‘ Kim âu vĩnh cố ‘ làm bằng vàng khảm ngọc,
chạm khắc hoa mỹ, được coi là độc đáo nhất về phương diện nghệ thuật và giá trị
kim tiền. Theo sử liệu, chiếc ly này do Phủ nội vụ thực hiện theo lệnh vua Càn
Long (1736-1796). Ly làm toàn bằng vàng y, cao 12,5 cm, đường kính miệng ly là
8cm chung quanh khảm toàn là trân châu, tay cầm là hai con rồng đứng, trên đầu
đính ngọc quý, thân ly chạm hoa với 11 trân châu, 9 viên bảo thạch đỏ, 12 đá
quý màu lam, vành miệng ly khắc hoa văn với chữ triện “ Kim âu vĩnh cố’, mặt
sau ghi chữ “ Càn Long niên chế”. Về ý nghĩa, chữ kim âu chỉ lãnh thổ toàn vẹn,
còn ly kim âu thì đựng ngự tửu, song song với bút vạn niên thanh của nhà vua. Tất
cả đều là dụng ý thầm kín của các hoàng đế , mong ước nhà Ðại Thanh nhất thống
Trung Hoa muôn nam. Ý trên còn để lộ ra một cách rõ ràng, khi thân ly được thiết
kế trên hình ba con voi đứng và mỗi vòi voi cuốn lên làm thành một chân ly.
Tóm lại toàn bộ chiếc ly toát lên cái tính chất quý phái, sang trọng và vững chải
theo thế chân vac, nên được nhà Ðại Thanh coi là vật trấn quốc chi bảo. Theo sử
liệu thì hằng năm vào ngày Nguyên Ðán, giờ tý tức là khoảng 11 giờ ố1 giờ khuya
, vua cử hành nghi thức khai bút năm mới, tại Ðông viên các trong Dưỡng tâm điện.
Trên án thư đã bày ly “ kim âu”, đuốc ngọc và bút vạn niên thanh. Vào thời điểm
thiêng thiêng đó, ngự thị rót đồ tô tửu, thứ rượu ngừa bệnh dịch ôn, vào ly kim
âu, rồi đốt nến và vua khai bút bằng mực đỏ hai chữ Cát Tường, cùng các câu Thiên
hạ thái bình, Phúc Thọ trường xuân.. ban cho hoàng gia, quần thân và thần dân.
Tại cao nguyên Trung Phần VN, trước năm 1975 ai có dịp sống tại đây, chắc cũng
đôi lần thường thức món rượu Ché (rượu cần) của đồng bào Thượng dùng đãi bạn
bè, khách quý và khi trong làng có cuộc vui. Theo từ điển Francaire-Jarai-Vietnamien
của học giả PE.Lafont do E.F.E.O xuất bản năm 1968 tại Paris đã có kê khai 30
chiếc ché cực quý đựng rượu của người Thượng cao nguyên. Theo tác giả, đây
không phải là loại ché tầm thường bày bán tại chợ, mà là những tác phẩm nghệ
thuật, chẳng những có giá trị vật chất mà còn mang đầy tính huyền thoại. Theo
đó ta thấy ché RAN DING DÔNG của Will ở làng Kon Robang,KonTun, theo huyền thoại
do công chúa Bok Glai làm tặng hai anh hùng đã có công chống giặc ngoại xâm.
Ché có giá trị bằng 10 con trâu, tuổi thọ 100 năm. cao 0,60m đựng rượu quý. CHÉ
HOTOK H’DANG của Kliu làng PleiBrell Pleiku, trị giá 20 con trâu, do người
Sedang làm trên 1 thế kỷ.CHÉ HOTÔK RANGPIA vừa giữ nhà,khi có người lạ tới thì
rượu báo động, ngoài ra trong ché tự chế biến đặc biệt chất rượu khi uống dù chỉ
đựng một chất rượu. Tóm lại mỗi chiếc ché quý được đánh giá theo lý lịch, tên
tuổi, các nhà giàu thời đó tranh nhau lấy tài sản để đổi cho được làm của gia bảo.
Ngày nay qua cuộc đổi đời, ché chỉ còn coi như món đồ tầm thường, dù thực sự
giá trị của nó có thể bằng cả thớt voi hay chiếc xe đò.
Xưa nay rượu với người như hình với bóng vì ngoài chức năng tiêu khiển, giải
phá thành sầu, rượu còn được dùng trong công nghiệp, y học, các nghi thức tôn
giáo, giao tế xã hội.. sau hết rượu là nguồn bất tận ,gây cảm hứng cho văn nghệ
sỹ, giúp họ sáng tác những tác phẩm bất hủ để đời, có thể kể như Lý Bạch, Ðổ Phủ,
Bạch Cư Dị, Cao bá Quát, Nguyễn công Trứ, Nguyễn Khuyến.. Theo Chung Dung,Tôn
văn Kỳ, Chu Quảng Ba.. trong sách những toa thuốc cổ truyền danh tiếng của
Trung Hoa, rượu chữa được bách bệnh , nên chữ Y (thuóc) trong Hán tự có chữ Tửu
(rượu) đứng trước. Rượu giúp hành huyết, khai uất. Chính Hải Thượng Lãn Ông, đại
danh y của VN cũng viết :” rượu có chất ôn dùng để tải thuốc, uống có điều độ sẽ
thông khí huyết. Uống rượu là một nghệ thuật sống mà không phải ai cũng đạt được,
vì thế người Tàu đã phấn phối rành rẽ năm cách uống rượu : Ðộc ẩm, đối ẩm, cộng
ẩm, quần ẩm và loạn ẩm.Sẳn tiền là sẳn rượu nhưng tìm được tri kỷ để đối ẩm không
phải là chuyện dễ dàng.
“..Tửu vô kiềm tỏa năng lưu
khách “ nên Nguyễn Khuyến đã viết :” Rượu ngon không có bạn hiền, không mua không
phải không tiền không mua”, còn Lý Bạch thì :” Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch,
duy hửu ẩm giả lưu kỳ danh” nhưng nồng nàn và đầy đủ ý nghĩa hơn hết vẫn là lời
phán của văn hào Anh Fergus Hamilton Allen :” Whisky là mặt trời chiếu sáng tình
bạn, là mặt trăng soi sáng tình yêu ..”
Cổ nhân cứ theo rượu mà trêu chọc người đời khắp nơi trên sách vở, làm cho thế nhân
cứ ao ước được một lần, để nhắp thử loại rượu do Ðổ Khang chế , đã làm cho Lưu
Linh là người nổi tiếng uống rượu không bao giờ biết say vào thời đó, phải nằm
yên dưới lòng đất để ngủ một giấc ‘ ba năm ‘ mới tỉnh lại.
‘ Mãnh hổ nhất bôi sơn trung
tuý
Giao long lưỡng trán hải đồ
miên
Không say ba năm chẳng lấy
tiền ‘
2-CÀC LOẠI RƯỢU :
Rượu có nhiều loại, nhiều hạng,
thứ nào uống nhiều cũng say dù đó ngự tửu của vua chúa, hay Mai quế lộ, ngủ gia
bì hoặc đế, nếp, rượu cần.. Nói chung rượu phát từ hai nhóm chính là RƯỢU LÊN
MEN cất từ nước ép của hoa quả như rượu vang, rượu cần.. và RƯỢU CHƯNG CẤT
(spirits) làm từ đường mía, tinh bột, ngủ cốc, củ cải.. ngoài ra còn có thứ rượu
mùi đặc biệt, được pha chế từ thứ rượu cồn Etalic với đường, acid Citricque, và
các hợp chất màu.
+ Rượu Ta :
Việt Nam có nhiều vùng cất rượu
ngon nổi tiếng như là làng Vân (Bắc Ninh), Nguyên Xá (Thái Bình), Trương Xá
(Hưng Yên), Nga Mi (Hà Tây), Quảng Xá (Thanh Hóa), Bắc Hà (Lào Kai), Kẻ Diên
(Quảng Trị), Bàu Ðá (Bình Ðịnh), Phụng Hiệp (Cần Thơ), Gò Ðen, Long Thành, Củ
Chi.. Các dân tộc thiểu số vùng núi có rượu cần độc đáo.
Tất cả các loại trên đều được chưng cất theo phương pháp gia truyền , chứ không
theo đúng các qui trình khoa học Âu Mỹ. Nhiều loại rượu đặc chế bằng gạo, dừa, nếp,
đậu nành, đào, táo, lê, Rượu đế còn gọi là nước mắt quê hương, nấu bằng nếp ,
phát xuất từ thời Pháp thuộc, có nồng độ cao. Rượu quế chỉ dùng làm thuốc trị
tì vị vì quế có nồng độ rất gắt và bán rất đắt giá. Rượu dừa chế bằng cách cấy
men vào gốc dừa khi buồng dừa mới trổ và phải mất từ 6-8 tháng mới thành rượu dừa,
sủi bọt nhưng ngon hơn bia. Theo khách sành điệu trong làng ve chén hiện nay,
thì VN hiện có bốn loại rượu ngon nổi tiếng là rượu làng Văn xứ Bắc, Kim Long ở
Quảng Trị, Bàu Ðá Bình Ðịnh và đế Gò Ðen Nam Phần.
Trong Ðại Nam Nhất Thống Chí viết rượu Kim Long ở Hải Lăng, Quảng Trị
ngon hơn hết. Thời Pháp thuộc, thực dân chiếm hết các lò nấu rượu trong tỉnh và
lập công ty rượu Xi-Ca. Khi rượu ra lò đóng vào chai, thì được đem ngâm trong hồ
nước lạnh một thời gian ấn định, rồi dùng thuyền nhỏ chở rượu theo sông Vĩnh Ðịnh
tới Huế, lên tàu lớn chở về Pháp và từ đó xuất cảng khắp thế giới.
Rượu rắn Phụng Hiệp được chế tạo tại thị trấn Phụng Hiệp còn gọi là Ngã Bảy, về
phía nam tỉnh Phong Dinh , cách thành phố Cần Thơ chừng 30 km, từ xưa đã nổi tiếng
về các đặc sản đồng ruộng như cá, tôm, ốc, ếch, cua, bìm bịp và nhiều nhất là rắn
bày bán dọc theo quốc lộ 4 và các ngôi chợ nổi trên sông rạch. Rượu rắn Phụng Hiệp
là thổ sản địa phương, phát triển từ năm 1960 tới nay vẫn còn hưng vượng . Hiện
có 5 lò sản xuất nhưng qui mô hơn hết vẫn là lò Năm Rô. Rắn dùng để làm rượu, phải
là rắn sống, đem về mổ bụng từ ức tới hạ môn, bỏ hết chỉ giữ lại mở và mật vì
đây là hai vị thuốc. Làm theo ba cách như ngâm rắn tươi, rắn khô và bột rắn. Hiện
Phụng Hiệp sản xuất ba loại rượu rắn là Tam xà ( hổ mang, hổ lửa hay rắn ráo,m
ai gầm hay cạp nong ), Ngũ xà ( gồm ba loại trên thêm hổhành và hổ hèo), Thập
Xà ( gồm 5 loại rắn trên cộng thêm rắn lục, bông, ri voi, ri cá và bông súng).
Rượu rắn có công dụng trị các chứng tê liệt, đau nhức, phong thấp, bồi bổ sức
khoẻ, ăn uống chậm tiêu.
Vùng thượng du Bắc Việt có rượu cần tây bắc của người Thái, Mèo như rượu Lầu Xá
tại Sơn La chế bằng nếp, trấu và men, uống say như bia, lại có mùi thơm nếp,
làm mát ruột và tiêu hoá nhanh. Tại Lai Châu có rượu Lầu Sơ, loại rượu trắng nấu
bằng khoai mì, theo phương pháp cất khô như rượu bắp của người Mèo ở Bắc Hà (Lào
Kai). Ngoài ra còn có rượu Lầu Vang của người Nùng ở Mường Tế nấu bằng nếp và
dùng chén để uống chứ không hút bằng cần.
Người Mèo Hoa ở Bản Phốợ trồng nhiều bắp (300 ha) hơn lúa (chỉ có 82 ha) vì bắp
dùng để nấu rượu ngô vừa để uống và mang ra chợ Bắc Hà, cách bản chừng 3 km,
bán cho mọi người kinh cũng như thượng. Nhờ vậy mà dân trong bản, nhiều gia
đình đã sắm được xe ngựa chở rượu ra chợ bán. Rượu ngô của người Mèo chế đặc biệt
hơn, khác với vị đằm của rượu San Lùng người Mán, vị ngọt của rượu Cần Thái, vì
nó nồng nên khó uống. Cách làm rượu cũng dể, cứ đem bắp về (loại bắp vàng) luộc
nhưng đừng để lửa to quá làm rượu không ngon. Còn men thì làm từ hạt Hồng Mị
(giống như hạt kê), đem trộn với bắp đã luộc, bỏ vào thùng gang ủ một tuần. Thời
gian này phải đốt lửa để hơi rươu bốc hơi qua một cái chọt gổ, chảy ra ngoài. Cứ
10 ký bắp làm được 3 lít rươu, để nguyên uống nếu pha thêm nước lạnh thì rượu sẽ
không mùi vị nữa. Ngoài ra rượu ngon cũng còn tùy thuốc vào nguồn nước để nấu.
Nên người kinh tại vùng xuôi dù đã học đúng cách nấu rượu của người Mèo Hoa, rượu
cũng không ngon vì tại đây đâu có nước suối Háng Dế để mà chưng cất rượu ?
Xứ Thái ở vùng tây bắc giáp Lào (Lai Châu) có loại rượu đặc biệt làm từ các loại
côn trùng như sâu chít, nhộng dùng làm rượu bổ, được bày bán tại chợ Ðiện Biên.
Chít là con sâu non sống trong ngọn cây chít, một loại cây giống như lau sậy ở miền
Nam nhưng sâu chít chỉ có ở vùng tây bắc mà thôi. Vào mùa xuân, đồng bào bắt
đem về làm rượu.
Tại cao nguyên Trung phần, rượu cần được nấu bằng lúa, nếp, bo bo, khoai mì, bắp,
đậu. Với các người Teu, Vân Kiều , Pacoh tại Quảng Trị, Thừa Thiên có các loại
rượu nứa, mây, đoắc.. chế từ nước trong thân của các loại cây trên cộng với
men, uống có vị chua cũng say nhưng phẩm chất kém xa các loại nấu bằng ngủ cốc.
Riêng người Rhade nấu rượu bằng cơm, trộn với thứ men đặc biệt gọi là Kuach Eya.
Người Lào có rượu nếp còn rượu Miên thì lạt hơn rượu Lào nhưng rượu nào cũng
say.
+ RƯỢU TÀU : Từ thời thượng
cổ, người Trung Hoa đã có nhiều loại rượu nổi tiếng như Thiệu Hưng Trạng Nguyên
Hồng, Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng, Trúc Diệp Thanh, Mai Quế Lộ, Bách Thảo Mỹ Tửu, Hầu
Nhi Tửu, Bồ Ðào Tửu, Cao Lương, Ngũ Tiên, Phục Ðức Gia Tửu, Mao Ðài, Thấu Bình
Hương .. Theo sử liệu, vào thời nhà Tống (960-1297), nền công nghiệp chưng cất
rượu của người Tàu đã đạt tới mức tinh vi. Huyện Dương Cốc thuộc tỉnh Sơn Ðông,
một địa danh gắn liền với truyền thuyết Võ Tòng đã hổ trong Thủy Hử truyện của
Thị Nại Am tiên sinh, thuở đó đã có tới 77 nhà sản xuát rượu, trong số này có
Thấu Bình Hương của Trấn Trương Thu là nổi tiếng nhất. Ðây chính là loại rượu “
Tam Uyển Bất Quá Cương “ , mà Võ Tòng đã uống tới 18 chén mới say, rồi bất chấp
lời khuyên can của mọi người, vượt đồi Cảnh Dương đả hổ được truyền tụng muôn đời.
Thấu Bình Hương từng được chọn làm cống tửu và chính vua Tống Thần Tôn đã viết lời
khen tặng :” Quí Nhân Giai Tửu “.Ðại Ðế Khang Hy đời Thanh, khi tuần du phương nam
cũng không tiếc lời ca tụng khi nhắm nháp. Năm 1983, trong Ðại Hội toàn quốc Võ
Tòng đã hổ lần thứ III tại Bắc Kinh, rượu Thấu Bình Hương đã chính thức chinh
phục cử tọa và được mệnh danh là Anh Hùng Tửu. Ngày nay , công ty rượu Cảnh
Dương Cương ở huyện Dương Cốc, cách Sư Tử tửu lầu không xa , sản xuất Thấu Bình
Dương để xuất cảng với biệt danh Cảnh Dương Trấn Nhưởng
+ Rượu Tây : Champagne là vua trong các loại vang sủi bọt, có nồng
độ từ 10-12 , dịu nhưng cũng đủ say, được mọi người dùng nhiều nhất trong các dịp
lễ tết, tiệc tùng kỹ niệm. Chữ Champagne còn mang ý nghĩa vui vẽ, hạnh phúc, phấn
khởi. Ðược chế tạo bằng loại nho đặc biệt (Chardonnay 24% và Pinot Noir 76%) tại
các vùng trồng nho nổi tiếng của nước Pháp thuộc miền Champagne như bình nguyên
Montagne de Reims Epernay nằm về phía đông bắc Ba Lê. Riêng các thùng gổ đựng
rượu nho có một hệ thống nắp đặc biệt , mở ra đóng vào phù hợp với thời gian đủ
cho khí CO2 thoát ra mà không cho các loại khí khác xâm nhập .Khi nho lên men,
người ta trộn thêm đường , sau đó đóng nút chai, đặt ngược đầu và ủ vào hầm kín
, từ 5 đến 6 năm mới đem ra thị trường tiêu thụ. Riêng các kỷ thuật xoay chai
và tách nấm men ở cổ chai đều là bí thuật không phổ biến. Tóm lại mỗi chai
Champagne đều có một lượng nhỏ đường và acid , còn lại là chất Phenol nhưng yếu
tố quyết định ngon dở vẫn do mùi vị bí truyền , thuộc nhiều yếu tố như giống
nho, men, thời gian lên men, kỹ thuật biến chế.Hiện thị trường có ba loại
Champagne : Loại không ngọt ( bruit), hơi ng5t ( demi-sec) và ngọt (sec). Ngày
nay các h ảng sản xuất Champagne bắt chước các công ty Brandy vẽ sao làm ký hiệu
trên các nhản chai như 1 sao là rượu 3 năm, 2 sao là 4 năm, và 3 sao là 5 năm.
Còn VO là rượu trên 12 năm, VSO từ 12-20 năm và VOVS từ 20-30 năm và XO trên 30
năm. Ðược biết người chế ra rượu Champagne đầu tiên là một giáo sĩ người Pháp
tên Pierre Pérignon. Hiện rượu Champagne đã vượt biên giới Pháp , lan tràn khắp
nơi trên thế giới và được sản xuất tại các nước trồng nho.
- Bia : là loại thức uống có
Gaz , nồng độ từ 3-10, dược chế bằng các loại ngủ cốc mà chủ yếu là luá đại mạch,
ngoài ra còn độn thêm bắp, gạo, cao lương, tiểu mạch hoặc vài loại trái cây.
Bia lon hay bia chai là bia đã lọc, thanh trùng, còn loại không lọc hay thanh
trùng thì gọi là bia tượi, bia bock, bia Draft. Bia chế tạo tại VN sau 1975
không thanh trùng, lại còn thêm vào khí CO2 cho sủi bọt.
Người Ðức gọi Beer là Bier, một đại gia không bao giờ vắng mặt tại nước này.
Theo truyền thuyết bia xuất phát đầu tiên tại vùng Lưỡng Hà và là món giải sầu
cho những người nô lệ khi họ bị bắt tới Ai Cập vác đá xây kim tự tháp cho các Pharaoh.
Còn Ðức lại là quốc gia sản xuất nhiều bia nhất hiện nay với 1270 lò sản xuất
5000 loại và mỗi người Ðúc hằng năm tiêu thụ tới 114 lít. Bia Ðức thường có độ
alcool trung bình là 5% nhưng cũng có loại không chứa, gồm ba thứ chính là bia
vàng, nâu và đen.
Hằng năm tại Munich (Ðức) có lễ hội bia Oktoberfest , có xuất xứ từ một lễ cưới
của Hoàng gia Phổ năm 1810, đã thu hút hàng triệu du khách quốc tế. Hiện Ðức chọn
ngày 23 tháng 4 Dương Lịch mỗi năm là ‘ Ngày Bia ‘ với những luật lệ được ban
hành từ năm 1516, qui định việc sản xuất bia bằng nước thiên nhiên, hoa bia và
mạch nha.
Pháp có bia 33 và con cọp (tiger) nổi tiếng lâu năm tại VN nhưng không phải là
nước uống nhiều bia mà lại nổi tiếng về rượu vang và cognac. Nhưng Pháp lại có
một trung tâm bia (Culture Bière) trên đại lộ Champs Élysées .Ðặc biệt ở đây chỉ
có bia, từ loại nổi tiếng đắt tiền được các dòng tu sĩ Thên Chúa Giáo sản xuất,
tới loại bia Heineken dựng trong các chai với nhiều kiểu kỳ lạ làm bằng nhôm. Trung
tâm này không phải là một lò sản xuất bia của Pháp, mà là nơi trưng bày tất cả
những gì có liên quan tới việc nấu bia như hoa bia, hạt lúa mạch, các loại
men.. Ngoài ra còn có các kiểu ly dùng để uống từng loại bia cho tới những dụng
cụ mở chai được thiết kế rất cầu kỳ.
- Các Loại Rượu Mạnh : chiếm
phần lớn thị trường rượu , bao gồm WHISKY được nhiều quốc gia sản xuất nhưng nổi
tiếng nhất của Mỹ, Tô Cách Lan, Anh, Ái Nhĩ Lan, Gia Nã Ðại. VODKA chế biến tại
Nga, Ba Lan, Ðông Âu. RUM tại Tây Ban Nha, Ðức, Ý. COGNAC nổi tiếng nhất của
Pháp. Rượu mận Slivovitz phổ biến ở Hung Gia Lợi, Lỗ và Nam Tư. Ngoài ra còn có
Brandy Anh Ðào gọi là rượu Kirsch ở Pháp, Ðức, Thụy Sĩ. Người Mễ Tây Cơ có loại
rượu Tequila và Pulque. Ở Hawaii có rượu Okelahao hay Oke, còn người Nhật có rượu
Saké. Ðược coi là rượu mạnh (spirit), nồng độ tối thiểu phải đạt trên 30 độ.
Whisky cất từ lúa đại mạch đen và bắp. Trước kia các loại Whisky đều nấu
bằng mầm lúa đại mạch nên gọi là Whisky đại mạch. Sau năm 1830 người ta trộn
thêm bắp nên Whisky có mùi dịu hơn và sự cấm kỵ trong lúc chế biến là không được
dùng khoai tây, trái cây. Hiện có bốn loại Whisky nổi tiếng trên thế giới :
Whisky Scotch (Tô Cách Lan), Irish (Ái nhĩ Lan), HoaKỳ và Gia Nã Ðại. Trong các
loại, Whisky Tô cách Lan nổi tiếng hơn 1100 năm , với hai nhản hiệu Ông Già Chống
Gậy ( Johnnie Walker ) nhãn đỏ ũ trên 3 năm, còn nhãn đen trên 12 năm trước khi
xuất xưởng. Ngoài ra còn có Chivas Regal nổi tiếng và mỗi năm bán trên 42 triệu
chai. Whisky Aí Nhĩ Lan dùng nguyên liệu tương tự rượu Scotch nhưng chưng cất bằng
nồi có cột (patien still), còn rượu Scotch thì nấu trong nồi cổ cong hay nồi củ
hành. Whisky Mỹ nấu bằng bắp (51%),nên nồng độ không quá 80 độ, còn gọi là
whisky Bourbon, nổi tiếng trong loại này có Four Roses và Danniel ‘s Jack
Bourbon. Rượu whisky Gia Nã Ðại có màu sậm vì chế bằng lúa mạch đen và bắp mà
nhãn hiệu Crown Royal được ưa chuộng nhất, bên cạnh còn có Seagram mang ký hiệu
VO cũng được nổi tiếng.
Brandy chưng cất từ nho hay các loại trái cây đã lên men theo kỹ thuật cổ
truyền , đạt nồng dộ từ 70-80, sau khi rượu phải qua hai lần chưng cất rồi đem ủ
vào các thùng gổ sồi để oxy hoá. Cuối cùng thêm vào rượu nước cốt Caramel để hạ
nồng độ xuống còn 40 cố định, hiện nay có hai loại Cognac và Armagnac. Cognac chế
bằng loại nho đặc biệt được trồng tại những miền lựa chọn, nho tươi ép lấy nước
cốt để lên men trước khi cho vào nồi chưng. Nhiều loại cognac nổi tiếng hiện
nay như Hennessy, Martell, Remy Martell, Courvoisier,Napoleon,Roi des Rois..
Riêng Armagnac được chế tạo bằng các loại nho St.Emillion, Folle Blanche và
Colombard trồng ở vùng Gascony phía nam tỉnh Bordeaux,Pháp, cách chưng cất hai
loại rượu giống nhau nhưng rượu này dùng nồi cất có cột và rượu được ủ trong
thùng gổ sồi, rượu uống gắt nhưng hương vị đậm đà. Tại Ý có cognac gọi là Marc
và Grappa, chưng cất từ vỏ và hạt nho, có màu xanh nhạt , gắt hơn rượu Pháp
nhưng được nhiều nước Âu Châu thích, nhất là loại Grappa Italy, chế tạo tại
vùng Pied Monte và Barbara.
Về loại Rum. Ron (Tây Ban Nha) và Rhum (Pháp) đều chế bằng mía,theo truyền
thuyết được quân viễn chinh Mông Cổ và Hung Nô từ Trung Á mang vào trồng tại Âu
Châu đầu tiên, sau đó Kha Luân Bố mang đến trồng tại Châu Mỹ La Tinh và Cu Ba.
Ngày nay Rum được chế tại hầu hết các quốc gia trồng mía, dùng để pha cocktail
nhưng nhiều người vẫn thích uống nguyên chất vì nồng độ rất cao, so với các loại
brandy khác.
Tại Jalisco, Mễ Tây Cơ có loại rượu nổi tiếng Tequilla, chưng cất từ nước cốt
lên men của một loại cây cùng họ với cây xương rồng gọi là Tequilla Weber , nồng
độ chừng 40, có vị thảo mộc, khi uống pha với nước chanh.
Vodka là loại rượu mạnh không màu, gần giống như đế của VN hay Phục Ðặc
Gia Tửu của Tàu, chế biến từ các loại lương thực ngâm nước nóng. Riêng Vodka Ba
Lan và Nga, nấu bằng khoai tây, có nồng độ ban đầu tới 95, sau đó giảm dần chỉ
còn 45-50., đặc biệt loại này không cần ủ mà chỉ cần lọc hết màu và mùi vị để
trở thành trong suốt.Trừ các tay cao thủ trong Lưu Linh phái uống nguyên chất,
còn hầu hết phải uống qua sự pha chế với các loại nước trái cây cho rượu hạ bớt
nồng độ. Cuối cùng là rượu GIN của Hòa Lan do tiến sĩ Sylvius sáng chế năm
1650, từ sự chưng cất các loại hạt (bắp, lúa), trộn với các hương liệu như quế,
hạnh nh6an, côca,gừng, vỏ chanh, vỏ cam.. có nồng độ từ 34-47.
3-CHUYỆN LẠ VỀ RƯỢU :
+ CUỘC CHIẾN RƯỢU Ở MEXICO :
Mỗi chai rượu Tequila theo thời giá hiện nay bán trên 100 đô la vì vậy nhiều
người làm rượu giả. Năm 1999 đã có 1307 vụ xô xát về rượu Tequila tại Mễ Tây
Cơ, làm 42 người chết và hằng ngàn người khác bi thương. Theo tin từ tờ
NewsWeek và USA Today ngày 8-9-2000, có tường thuật cuộc chiến rượu giả Weber
Blue nấu bằng cây thùa và đậu Hà Lan, mới vừa phát minh từ tiền bán thế kỷ XX
và loại nổi tiếng hơn 1000 năm qua là Tequila, cũng được nấu bằng hat cây thùa.
Vì giá cả và phẩm chất khiến rượu giả Weber Blue nhiều lần đánh bật rượu thật
Tequila, và cuộc chiến giữa hai thứ rượu đã bùng nổ ngay trên quê hương của
Tequila. Cuộc tranh chấp thật dã mang, người ta dùng đủ mọi thủ đoạn để hại
nhau, từ đâm chém, bắn giết, phá hoại ruộng vuờn trồng trọt và cả cách làm rượu
giả để hạ uy tín lẫn nhau. Vì cách thức cất rượu qúa dễ và kiếm lời nhiều, nên
nhiều Bang khác của Mễ cũng bắt chước trồng đậu Hà Lan và thùa để chế rượu
Tequilq và Weber Blue. Ðể chế biến rượu cho mới lạ, thành một thứ hổn hợp,
không giống ai vì nhái theo mùi vị và kiểu chai cognac hay champagne, rượu
Whisky của Mỹ, Tô Cách Lan...... bằng cách trộn thêm đủ thứ như mía, bắp, củ cải,
trái cây.. bán khắp nước và xuất cảng. Từ thập niên 1950-1994, các bang Oxaca,
Guadalajara, Monterrey,Juarez.. bùng nổ kỹ nghệ sản xuất rượu , chỉ riêng
Tequila đã có hơn 600 loại., thượng vàng hạ cám. Còn một điều lạ khác là các nước
Âu Mỹ cũng bắt chước người Mễ làm rượu giã và Mễ Tây Cơ hiện nay là quốc gia sản
xuất rượu nhiều nhất thế giới.
+ BÔNENKAI,TRUYỀN THỐNG UỐNG
CẠN LY CỦA NGƯỜI NHẬT : Bônenkai, từ nguyên Hán-Việt có nghĩa là vọng niên hội,
một biểu hiện cao nhất của tính cách hai mặt, trong đời sống Nhật Bản., nghiêm
trang đứng đắn lúc ban ngày và trở thành kẻ rất xa lạ về đêm trong các tửu
quán, nơi bộc lộ một cách trần trụi nhất tính bạo lực tiềm ẩn trong xã hội công
nghệp đang phát triển tợt bực. Tóm lại trong các cuộc vui mọi người phải hoà
mình và quên hết thân phận nhưng trên hết phải biết uống rượu và hát.
Theo nhà xã hội học Nobutake Kanzaki, thì tập tục uống cạn ly trong bàn tiệc, bắt
nguồn từ các nước Ðông Nam Á và Nhật Bản, về muà hè nóng và ẳm ướt, nên việc bảo
quản rượu lên men thời xưa rất khó khăn. Vì thế trong mùa hội hè, người ta có
thói quen uống sạch rượu dự trữ từ 1 tới 3 ngày. Trái lại ở Âu Châu, mùa hè khô
ráo, rượu tha hồ để lâu, nên người ta nhấm nháp tuỳ theo ý muốn và gọi đó là kiểu
Ðịa Trung Hải, còn uống cạn ly như Nhật là kiểu gió mùa. Cho nên điều cốt yếu
trong một bàn tiệc là rượu phải chảy như suối,tất cả mọi người phải say để đạt
tới một sự cộng thông về tinh thần, đây cũng là thói quen từ xưa của người Nhật,
uống rượu liên tục và khi họ say thì hát và chơi các trò vui nho nhỏ.
Tại vùng Á Ðông, người Nhật có phong tục thờ cúng tổ tiên đặc biệt. Ngày Tết,
cúng rượu Saké cho thần thánh và tổ tiên xong, số ruợu còn lại ho uống để chúc
tụng. Người Anh có lối chúc rượu nhau gọi là Toast bắt nguồn từ một phong tục cổ
truyền hồi thế kỷ XVI . Thời ấy người Anh mỗi khi uống rượu thường bẽ một mẫu bánh
mì nướng bỏ vào ly rượu cho thêm hương vị. Ngày nay Toast có nghĩa là cạn ly.
Ngoài ra họ còn một phong tục rất giống người Việt , đó là luân phiên nhau uống
rượu trong cùng một cái ly bằng bạc, có hai tay cầm. Những ngày đầu năm tết lễ,
người Mỹ dùng rượu để chúc mừng lẫn nhau. Trong một bửa tiệc có Mục sư Martin
Luther King tham dự, một nhà báo đã nâng ly chúc mừng :” cầu xin Thượng Ðế hãy
cho nước Mỹ có những con người không vì danh lợi mà hại dân, không vì vinh thân
mà bán nước..” Tóm lại kẻ sĩ uống rượu là để thực hành cái nhân sinh quan bất
biến :” Thề,Chết,Trốn,Uống” nghĩa là Thề vì Tổ Quốc, Chết cho Chính Nghĩa, Trốn
khỏi bọn gian ác bất lương và Uống với Bạn Hiền .
Ai cũng biết rượu là nguyên nhân gây ra phiền phức cho con người . Nhưng tự cổ
tới kim, thế nhân vẫn lao đầu vào rượu đến độ như Lý Bạch trong cơn say thấy
bóng trăng phản chiếu trên mặt sông Thái Thạch , đưa tay vói bắt đến nổi té xuống
nước chết đuối. Người xưa dùng rượu để quên ta, quên đời, quên sầu, quên tất cả
như Nguyễn Công Trứ :” rượu với sầu như gió mã ngưu, trong lai láng biết tránh
đâu cho khỏi..”, Còn Cao Bá Quát thì :” thôi công đâu chuốc lấy sự đời. Tiêu
khiển một vài chung lếu láo.Ðoạn tống nhất sinh duy hữu tửu.” hoặc :” lắc bầu
rượu , dốc nghiêng non nước lại. Chén tiếu đàm , mời mọc trích tiên..”
Người đời nay cũng đâu khác đời xưa, trước tâm sự ngổn ngang tận tuyệt, chỉ còn
biết mượn rượu để tống biệt sầu buồn :
“ Ai người tri kỷ
Hãy cùng ta cạn một hồ trường
(Nguyễn Bá Trạc)
hay :” Ðất trời nghiêng ngửa
Thành sầu không sụp đổ em
ơi..”
(Vũ Hoàng Chương).
Thật ra con người coi rượu là tri kỷ cũng đáng vì rượu là niềm vui cũng như nổi
buồn, khi trùng phùng cũng như hồi ly biệt, bâng khuâng thương nhớ khi nhắp ly rượu
đào. Hóa ra hạnh phúc nhiều khi không phải là tưng bừng cao lương mỹ vị, mà chỉ
cần có những mặn mòi nồng ấm quê hương, một nơi cho nổi nhớ biết chốn đi về, ở
đó hình như những ngày xuân củ có bạn, có ta, có người em gái .. cười vui chếch
choáng xuân thì -/-
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Chạp 2013
Mường Giang