VIỆT
NAM -
Bài đăng : Thứ sáu 01 Tháng Ba
2013 - Sửa đổi lần cuối Thứ sáu 01 Tháng Ba 2013
Hội đồng Giám mục Việt Nam đòi bỏ Điều 4
Hiến pháp
Nguyễn Phú Trọng : bỏ Điều 4
Hiến pháp là “suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”.
Sáng ngày 01/03/2013, Hội đồng Giám mục
Việt Nam trao thư góp ý về Hiến pháp cho Uỷ ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
1992. Trong thư góp ý này, Hội đồng Giám mục Việt Nam kêu gọi nên bỏ Điều
4 quy định về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong
bản nhận định và góp ý với tư cách công dân, Ban Thường vụ Hội đồng Giám
mục Việt Nam trước hết yêu cầu là Hiến pháp mới phải nêu rõ hơn về các
quyền của con người, chẳng hạn như về quyền tự do ngôn luận, phải ghi rõ
thêm là « mọi người đều
có quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình
».
Về quyền
tự do tôn giáo, Hội đồng Giám mục yêu cầu Nhà nước không tuyên truyền
tiêu cực về tôn giáo và không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn
giáo, như đào tạo, truyền chức, thuyên chuyển, . . .
Đặc biệt
trong phần nói về quyền làm chủ của nhân dân, các giám mục đặt lại vấn đề
về Điều 4 Hiến pháp quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài
nhận định và góp ý của Hội đồng Giám mục viết : « Để tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không thể khẳng định một cách tiên
thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phái chính trị nào, vì chủ thể của quyền
bính chính trị chính là nhân dân. »
Các
giám mục Việt Nam còn cho rằng cần phải có sự độc lập giữa ba quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, để tránh tình trạng lạm quyền và lộng quyền.
Theo Hội đồng Giám mục, dự thảo sửa đổi Hiến pháp vẫn chưa có sự phân biệt
giữa đảng cầm quyền và Nhà nước. Các giám mục cũng thắc mắc là bản dự thảo
Hiến pháp không có chương nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền, trong
khi đây là người nắm quyền hành cao nhất ở Việt Nam, chiếu theo dự thảo
Hiến pháp. Do đó, Hội đồng Giám mục yêu cầu « xóa bỏ đặc quyền của bất kỳ đảng phái chính trị
nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất, do dân bầu ra và là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không
phải là công cụ của một đảng cầm quyền nào ».
Những
ý kiến của Hội đồng Giám mục như vậy là có nhiều điểm tương đồng với những
ý kiến của các vị nhân sĩ trí thức trong bản Kiến nghị được đưa ra ngày
19/01/2013 và nay đã thu được hơn 6000 chữ ký ủng hộ.
Trong
buổi làm việc với tỉnh ủy Vĩnh Phúc ngày 25/02/2013 Tổng bí thư Đảng Cộng
sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu rằng những ý kiến đòi bỏ Điều
4 Hiến pháp, đòi đa nguyên đa đảng, đòi tam quyền phân lập, phi chính trị
hóa quân đội, có thể được quy là “suy
thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”.
Sau đó, phát biểu
với các lãnh đạo thành phố Hà Nội ngày 27/02/2013 Chủ tịch
Quốc hội Nguyễn
Sinh Hùng đã cảnh báo về việc “
lợi dụng việc lấy ý kiến về Hiến pháp để tuyên truyền vận động nhân dân
chống lại Đảng, nhà nước ». Theo ông Hùng, hành động đó là « ngược chiều, phải kiên quyết đấu
tranh và ngăn chặn ».
Thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam nhận
định và góp ý sửa đổi Hiến pháp
1/03/13 6:29 AM
Sáng
nay, 01-03-2013, linh mục Giuse Dương Hữu Tình, Thư ký Hội đồng Giám mục
Việt Nam (HĐGMVN), đã đến và trao Thư góp ý của Ban Thường vụ HĐGMVN cho
Thường trực Ban biên tập – Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tại
số 37 Hùng Vương, quận Ba Đình, Thành phố Hà Nội.
Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu toàn văn Thư góp ý của Ban Thường vụ
HĐGMVN
Hội
đồng Giám mục Việt Nam
40
Phố Nhà Chung – Hà Nội
CÁC GIÁM MỤC CÔNG GIÁO VIỆT NAM
NHẬN ĐỊNH VÀ GÓP Ý DỰ THẢO SỬA ĐỔI
HIẾN PHÁP NĂM 1992 (SỬA ĐỔI NĂM 2013)
Nhà nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã công bố bản Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp (sau đây gọi tắt là Dự thảo) để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2.1.2013
đến ngày 31.3.2013.
Chúng tôi tán thành việc làm này, vì Hiến pháp của một
quốc gia trước hết và trên hết phải là của chính người dân, do ý thức
trách nhiệm của người dân và để phục vụ mọi người dân, không loại trừ ai.
Ý thức trách nhiệm công dân, nhân danh Hội đồng Giám mục Việt Nam, Ban
Thường vụ kính gửi đến Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và nhân
dân cả nước một số nhận định và góp ý.
I.
Quyền con người
Bản Dự
thảo đã dành cả chương II (điều 15-52) để nói về quyền con người. Quyền
con người đã được chính thức nhìn nhận trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền
con người (10.12.1948), và Việt Nam cũng đã ký kết. Bản Dự thảo đã liệt
kê khá đầy đủ những quyền căn bản của con người. Vấn đề là làm thế nào để
những quyền ấy được hiểu đúng, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo pháp luật
trong thực tế?
Quyền con
người là những quyền gắn liền với phẩm giá con người, do đó là những quyền
phổ quát, bất khả xâm phạm và bất khả nhượng. Phổ quát vì tất cả mọi người,
thuộc mọi thời và mọi nơi, đều được hưởng những quyền đó. Bất khả xâm phạm
vì xâm phạm là tước đoạt phẩm giá làm người. Bất khả nhượng vì không ai
được phép tước đoạt những quyền đó của người khác.
Quyền bính
chính trị được nhân dân trao cho nhà cầm quyền là để tạo điều kiện pháp
lý và môi trường thuận lợi cho việc thực thi quyền con người, chứ không
phải để ban phát cách tùy tiện. Do đó, để quyền con người thật sự được
“Nhà nước và xã hội thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo hiến pháp
và pháp luật” (điều 15), chúng tôi thấy cần làm sáng tỏ một số điều.
Dự thảo
khẳng định quyền tự do ngôn luận (điều 26), quyền sáng tạo văn học, nghệ
thuật (điều 43), quyền tự do tín nguỡng, tôn giáo (điều 25). Tuy nhiên,
ngay từ đầu, Dự thảo lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng” (điều 4).
Như thế, phải hiểu thế nào và làm sao thực thi
quyền tư do ngôn luận và sáng tạo văn học, nghệ thuật, bởi lẽ tư tưởng đã
bị đóng khung trong một chủ thuyết rồi? Tương tự như thế, phải hiểu thế
nào và làm sao thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bởi lẽ chủ
nghĩa Mác-Lênin tự thân là chủ nghĩa vô thần?
Phải chăng những quyền này
chỉ là những ân huệ được ban cho nhân dân tùy lúc tùy nơi, chứ không phải
là quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, và bất khã nhượng? Hiến pháp cần phải
xóa bỏ những mâu thuẫn và bất hợp lý này, thì mới có sức thuyết phục người
dân và thu phục lòng dân.
Trong thực
tế, sự trói buộc tư tưởng vào một hệ ý thức duy nhất đã kìm hãm tư duy
sáng tạo của người dân Việt Nam. Ðây là một trong những lý do lớn, dẫn đến
tình trạng trì trệ và chậm tiến của Việt Nam về nhiều mặt: giáo dục, khoa
học và công nghệ, văn hóa và nghệ thuật. Nếu cần một nền tảng, chúng tôi
thiết nghĩ đó phải là truyền thống văn hóa phong phú của dân tộc Việt
Nam, chứ không phải một hệ ý thức nào khác.
Truyền thống văn hóa ấy đã được
hình thành trãi qua nhiều thế kỷ, giúp dân tộc Việt Nam xây dựng và phát
triển đất nước, kiến tạo lối sống đầy tính nhân văn. Nền văn hóa đó chính
là nền tảng cho đời sống xã hội của dân tộc Việt Nam, những tư tưởng mới
có thể và cần được đón nhận để bổ túc cho phong phú, nhưng không thể thay
thế. Có như vậy mới mong giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc giữa những
thay đổi mau chóng của thời đại toàn cầu hóa ngày nay.
Do
đó, chúng tôi đề nghị:
l.
Hiến
pháp cần xác định rõ: mọi người đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và quyền.
Quyền con người là những quyền gắn liền với phẩm giá làm người, và vì thế,
là những quyền phổ quát, bất khả xâm phạm, bất khả nhượng.
2
.
Lấy truyền thống văn hóa dân tộc làm nền tảng tư tưởng cho việc tổ chức
và điều hành xã hội Việt Nam.
3
.
Nêu rõ nội dung quyền được sống (đối chiếu với điều 21 Dự thảo): mọi người
đều có quyền sống. Không ai được phép tước đoạt sự sống của người khác, từ
khi thành thai đến khi chết. Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ sự sống con người.
Mọi người đều có quyền bảo vệ sự sống của mình, miễn là không làm tổn hại
đến sự sống của người khác.
4
.
Nêu rõ quyền tự do ngôn luận (đối chiếu điều 26 Dự thảo): mọi người đều có
quyền tự do tư tưởng, tự do trình bày quan điểm và niềm tin của mình.
5
.
Nêu rõ quyền tự do tôn giáo (đối chiếu điều 25 Dự thảo): mọi người đều có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Quyền này bao hàm việc tự do theo hay
không theo một tôn giáo nào, tự do thực hành các nghi lễ tôn giáo, cá
nhân hoặc tập thể. Không tôn giáo nào hoặc chủ thuyết nào được coi là bó
buộc đối với người dân Việt Nam.
Nhà nước không tuyên truyền tiêu cực về
tôn giáo, không can thiệp vào công việc nội bộ của tôn giáo như: đào tạo,
truyền chức, thuyên chuyển, chia tách sát nhập… Các tổ chức tôn giáo có
quyền tự do hoạt động xã hội cộng đồng như giáo dục, y tế…
H.
Quyền làm chủ của nhân dân
Quyền bính
chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền bính
chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước.
Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và
tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái
chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào.
Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp
quyền “của dân, do dân và vì dân” (Lời nói đầu). Vì thế việc tự do ứng cử
của mỗi công dân là đòi hỏi tất yếu trong một xã hội dân chủ, văn minh và
lành mạnh. Ðồng thời việc bỏ phiếu công khai, khách quan và công bằng, là
đòi hỏi cần thiết để người dân có được những đại diện mà họ tín nhiệm.
Chính nhân dân có quyền đánh giá năng lực của những đại diện họ đã bầu,
và khi cần, họ có quyền thay thế những đại diện đó.
Do
đó, chúng tôi đề nghị:
l
.
Hiến pháp cần phải làm nổi bật quyền làm chủ của nhân dân, không chỉ bằng
một mệnh đề lý thuyết nhưng cần được thể hiện trong những điều khoản cụ
thể của Hiến pháp, và có thể thi hành trong thực tế. Bản Dự thảo khẳng định:
“Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” (Ðiều 2).
Nhưng trong thực tế, công nhân, nông dân và trí thức là những thành phần
chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội. Thực tế đó cho thấy khẳng định về
quyền làm chủ của nhân dân chỉ có trên giấy tờ và lý thuyết.
2.
Ðể
tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, trong Hiến pháp không nên và không
thể khẳng định cách tiên thiên sự lãnh đạo của bất kỳ đảng phải chính trị
nào (X. điều 4), vì chủ thể của quyền bính chính trị là chính nhân dân,
và nhân dân trao quyền bính đó cho những người họ tín nhiệm qua việc bầu
chọn.
Những cá nhân được bầu phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về việc
họ làm, chứ không thể là một tập thể mơ hồ rồi cuối cùng không ai chịu
trách nhiệm cả.
3.
Hiến
pháp hiện hành chỉ công nhận quyền sử dụng đất chứ không công nhận quyền
sở hữu đất của công dân. Ðiều này đã gây ra nhiều lạm dụng và bất công
nghiêm trọng. Vì thế, Hiến pháp mới cần công nhận quyền sở hữu đất đai của
công dân và các tổ chức tư nhân như tuyệt đại đa số các quốc gia trên thế
giới.
4.
Hiến
pháp phải tôn trọng quyền tham gia hệ thống công quyền ở mọi cấp, của mọi
công dân, không phân biệt thành phần xã hội, sắc tộc, tôn giáo…
III.
Thi hành quyền bính chính trị
Quyền bính
chính trị mà nhân dân trao cho nhà cầm quyền được phân chia thành quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Ðể những quyền bính này được thi hành cách
đúng đắn và hiệu quả, cần có sự độc lập chính đáng của mổi bên và vì công
ích của toàn xã hội. Trong thực tế của Việt Nam nhiều năm qua, đã không
có được sự độc lập này, dẫn đến tình trạng lạm quyền và lộng quyền, gây
ra nhiều bất công, suy thoái về nhiều mặt: kinh tế, xã hội, đạo đức. Cuối
cùng, người dân nghèo phải gánh chịu mọi hậu quả và Việt Nam, cho đến nay
vẫn bị xem là một nước kém phát triển.
Nguyên
nhân sâu xa là không có sự phân biệt giữa đảng cầm quyền và Nhà nước pháp
quyền. Điều này thể hiện ngay trong nội dung của Hiến pháp 1992, và Dự thảo
vẫn tiếp tục đường lối như thế.
Một đàng,
điều 74 khẳng định Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”;
đàng khác, điều 4 lại khẳng định đảng cầm quyền là “lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội”. Vậy, ai lãnh đạo ai? Phải chăng Quốc hội chỉ là công
cụ của đảng cầm quyền?
Nếu như thế, việc người dân đi bầu các đại biểu Quốc
hội có ý nghĩa gì? Một sự chọn lựa thật sự tự do hay chỉ là thứ dân chủ
hình thức?
Bản Dự
thảo cũng dành nhiều chương dài để nói về Quốc Hội (điều 74-90), về Chủ tịch
nước (điều 91-98), về Chính phủ và Thủ tướng (điều 99-106). Không có
chương nào và điều nào nói về Tổng bí thư đảng cầm quyền.
Ðang khi đó, thực
tế là Tổng bí thư nắm quyền hành cao nhất vì cũng theo Dự thảo, đảng cầm
quyền là “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” (điều 4)! Như thế phải
chăng đảng ở trên luật pháp và ngoài luật pháp, chứ không lệ thuộc luật
pháp? Nếu đảng cầm quyền đã lãnh đạo cả Nhà nước và xã hội, thì còn cần
gì Quốc hội, cần gì đến Tòa án!
Những phân
tích trên cho thấy sự mâu thuẫn và tính bất hợp lý ngay trong nội dung Hiến
pháp. Sự bất hợp lý này dẫn đến tình trạng bất hợp lý trong thực tế cuộc
sống, là nguồn gốc của những bất công, dẫn đến bất ổn xã hội, kìm hãm sự
phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.
Do
đó, chúng tôi đề nghị:
l
.
Phải vượt qua sự bất hợp lý từ trong cấu trúc Hiến pháp, bằng cách xóa bỏ
đặc quyền của bất kỳ đảng phải chính trị nào, đồng thời nhấn mạnh vai trò
của Quốc hội là “cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất”, do dân bầu ra và
là đại diện đích thực của nhân dân, chứ không phải là công cụ của một đảng
cầm quyền nào.
2
.
Xác định tính độc lập của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; cung
cấp nền tảng pháp lý cho việc thi hành những quyền này cách độc lập và hiệu
quả.
3.
Luật
hóa sự kiểm soát của nhân dân đối với việc thi hành pháp luật bằng những
quy định cụ thể.
Kết
luận
Những nhận
định và góp ý của chúng tôi chỉ nhằm mục đích góp phần xây dựng Hiến pháp
cho hợp lý và hợp lòng dân. Chúng tôi ước mong mọi người dân Việt Nam
tích cực góp phần vào việc điều chỉnh Hiến pháp, phục vụ sự phát triển
toàn diện và bền vững của dân tộc Việt Nam.
Tòa
Tổng Giám mục Hà Nội ngày 01 năm 03 năm 2013
TM.
Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam
Tổng
thư ký
Chủ tịch
(đã
ký)
(đã ký)
Cosma
Hoàng Văn Ðạt
Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Giám mục
Bắc Ninh
Tổng Giám mục Hà Nội
(Nguồn:
WHĐ)
Nguồn:
WHĐ
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment