doan
quan Cong San Bac Viet xam lang Mien Nam
Cộng sản xâm lăng
miền Nam: dưới thời đệ I Cộng Hòa (1954-1963)
greenspun.com : LUSENET : Vietnamese
American Society : One Thread
|
[Google Search]
|
Cộng sản xâm lăng miền
Nam: dưới thời đệ I Cộng Hòa (1954-1963)
(Trong tác phẩm: ‘’Nhìn
lại cuộc chiến tranh VN 1954-75’’ của GS Lê Đình Cai, sẽ xuất bản. Diễn Đàn
Quốc Tế khởi đăng thử một đoạn để lấy ý kiến độc giả trước khi quyết định các
phần kế tiếp) Tác giả: GS Lê Đình Cai
Đối với cộng sản, Hiệp
định Genève (21-7-54) chỉ là một giai đoạn tạm thời trên một tiến trình vạch
sẵn nhằm nhuộm đỏ toàn bộ Việt Nam và đẩy toàn bộ Đông Dương vào qũy đạo của Đệ
Tam Quốc Tế. Khi tạm xong công việc cai trị miền Bắc, khi đã đặt được toàn thể
nhân dân bên kia vỹ tuyến 17 dưới gọng kềm sắt máu của họ, đảng Cộng sản miền
Bắc bắt đầu tính toán cuộc xâm lăng miền Nam.
Đầu năm 1957, Hội nghị Trung ương
lần thứ 12 (Khóa II) quyết định "những vấn đề lớn về xây dựng quân đội,
củng cố quốc phòng, bảo vệ miền Bắc, chuẩn bị về quân sự cho cách mạng cả nước
trong giai đoạn mới". Đồng thời Bộ Chính Trị ra nghị quyết "Chuẩn bị
phát động cuộc khởi nghĩa ở miền Nam để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
tiến tới thống nhất đất nước bằng đấu tranh vũ trang" (1).
Trong Hội nghị Trung
ương lần thứ 13 vào tháng 12 năm 1957, Hồ Chí Minh phát biểu: "Ta đang
đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân
dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan
trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.
Tuy vậy, nhiệm vụ củng
cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định cho toàn bộ
thắng lợi của cách mạng trong giai đoạn mới..., lực lượng cách mạng ở miền Nam
được duy trì và phát triển thì đó là nhân tố trực tiếp quyết định thắng lợi của
cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam". (2) Âm mưu và kế hoạch xâm lăng miền
Nam của cộng sản Bắc Việt hoàn toàn đã được bạch hóa ngay trong các tài liệu
của sử gia cộng sản.
Đoạn I - Giai đoạn thứ
nhất (1955-1960):
1.- Sự chuẩn bị đấu
tranh chính trị: Trong hai năm đầu 1955-56, đảng Cộng Sản chủ trương đấu tranh
chính trị tại miền Nam, nhiều cuộc biểu tình được tổ chức nhiều nơi để đòi
chồng đòi con trở về, vận động rã ngũ, đào ngũ trong quân đội miền Nam, đòi
củng cố hòa bình, thực hiện các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, đặc
biệt là đòi hiệp thương tuyển cử với miền Bắc theo quy định của Hiệp định
Genève.
Để hổ trợ cho những đòi
hỏi chính trị này trong giai đoạn đầu, họ cho một số cán bộ chính trị của họ
xuất hiện trong khi chuẩn bị khá kỹ cho cuộc nổi dậy võ trang sau này khi cuộc
đấu tranh chính trị thất bại.
Theo tài liệu của chính
các sử gia cộng sản công bố sau này thì Nghị Quyết Bộ Chính Trị trong phiên họp
từ ngày 5 đến 7-9-54 có đoạn đề cập đến miền Nam như sau: "Nhiệm vụ của
Đảng ở miền Nam trong giai đoạn hiện tại là lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu
tranh thực hiện hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ
(tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do đi lại,v.v..), cải thiện
dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập". (3) Theo sự phân
công của Bộ Chính Trị (4): Lê Duẩn quay trở lại miền Nam bằng máy bay của Ủy
Hội Quốc Tế, qua Quy Nhơn rồi trở về Cần Thơ vào mùa Thu năm 1954. Tháng 3,
1955, Trần Lương, Võ Chí Công được cử vào giữ chức Bí thư đảng bộ Liên khu V.
Đầu tháng 8-1955, Nguyễn
Xuân Hữu, Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa (đã tập kết ra Bắc) cùng 12 cán b ộ đặc công
được Cục Quân Báo Bộ Tổng Tham Mưu Cộng sản huấn luyện, lên đường trở lại miền
Nam và đã về lại Khánh Hòa hoạt động với giấy tờ hợp pháp (giấy tờ giả).
Cùng các cán bộ tình báo
chiến lược cũng đã được gửi vào Nam như Đặng Ngọc Phách, Vũ Văn Thiều, Vũ Ngọc
Nhạ, Đinh Thị Vân...
Tháng 10-1954, tại căn
cứ Chắc Bảng (Cà Mâu), Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ được tổ chức. Lê Duẩn
được cử làm bí thư Xứ ủy Nam Bộ, bao gồm liên tỉnh ủy miền Tây (Nguyễn Thái
Bường bí thư), Liên tỉnh ủy miền Đông (Trần Văn Đức bí thư), Liên tỉnh ủy miền
Trung (Nguyễn Văn Mùi bí thư) và Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn do Nguyễn Văn Linh
làm bí thư, Nguyễn Hữu Xuyến được giao công tác phụ trách quân sự ở Nam Bộ.
Cũng theo tài liệu cộng
sản thì con số cán bộ họ để lại không phải là từ 8.000 đến 10.000 người như
Neil Sheehan nói trong "L, Innocence perdue" mà Hoàng Cơ Thụy đã dẫn
lại trong Việt Sử Khảo Luận (sđd, tập 11, tr. 2780) mà là 60.000 người.
Trong "Lịch sử
kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-75" tập II, Viện Lịch Sử Quân Sự Việt
Nam thuộc Bộ Quốc Phòng Cộng Sản Hà Nội đã không cần giấu diếm điều này khi
viết: "Nam Bộ có khoảng 60.000 đảng viên ở lại rút vào hoạt động bí mật.
Số cán bộ, đảng viên chưa bị lộ thì vẫn sống hợp pháp, làm ăn sinh sống như mọi
người dân, tùy cơ ứng biến mà vận dụng các khả năng hợp pháp hoặc không hợp
pháp để hoạt đng.
Số đồng chí đã bị lộ thì
chuyển sang hoạt động bí mật hoặc chuyển vùng công tác, nhờ sự che chở đùm bọc
của nhân dân. Tổ chức chi bộ chia thành hai loại: loại A gồm đảng viên sống và
hoạt đng bất hợp pháp, loại B là đảng viên sống hợp pháp, hoạt động hợp pháp và
bán hợp pháp". (5)
Cũng theo tài liệu cộng
sản thì "để phòng ngừa khả năng xấu, nhiều tỉnh ở miền Nam đã được lênh
chôn giấu vũ khí, đạn được. Quân giới Nam bộ được lệnh cất giấu máy móc, dụng
cụ ở rừng U Minh để xây dựng công binh xưởng sau này.
Quảng Nam chôn 70 súng;
Gia Lai để lại hai hầm gồm 70 súng trường, 7 tiểu liên, 60 súng ngắn, đạn tiểu
liêu mỗi khẩu 30 viên, súng trường mỗi khẩu 200 viên; Công Tum để lại gần 80
súng các loại và 4 tấn đạn.
Quân khu V đã chôn giấu
trong khu vực từ Sơn Tịnh (Quảng Ngãi) đến bắc Bình Định một số vũ khí đủ để
trang bị cho hai tiểu đoàn và một số đại đội độc lập. Miền đông Nam bộ chôn
giấu nhiều hầm súng đạn, có cả súng trung liên, đại liên đủ trang bị cho 3 đại
đội.
Chiến khu D cất giấu 450
súng các loại; từ súng ngắn đến cối đại liên, cả máy tiện, máy in... Tỉnh Bạc
Liêu đề cử người dùng ghe xuồng ra tầu Liên Xô đậu tại Vàm sông Ông Đối chở
trên 6 tấn súng đạn đã đóng thùng sẵn đem về cất giấu ở các xã vùng U Minh Hạ.
Cà Mâu cất dấu 2000 khẩu tiểu liên, trung liên, súng trường" (6).
Cũng tài liệu của Bộ
Quốc Phòng Cộng Sản (Viện Lịch Sử Quân Sự) cho biết: "Ngày 8-2-1955 con
tầu Liên Xô Xtav-rôpôn trên dòng sông Ông Đốc chuẩn bị kéo neo rời bến đưa cán
bộ, chiến sĩ tập kết chuyến cuối cùng ra bắc, đồng chí Lê Duẩn lên tầu giả đi
tập kết rồi bí mật xuống một chiếc xuồng con trở lại đất mũi Cà Mâu.
Đồng chí
Võ Văn kiệt, ủy viên Liên tỉnh ủy miền Tây đưa đồng chí Lê Duẩn về các cơ sở
cách mạng ở Tân Hưng Tây (Cái Nước) rồi Khai long, Rạch Gốc (huyện Ngọc Hiển)
Nguyên Phích, Cái Tầu (huyện Trần Văn Thời)... trực tiếp lãnh đạo phong trào
đấu tranh của nhân dân’’. (7)
Tài liệu này cũng đề cập
đến việc Phạm Văn Đồng, thay mặt trung ương giao nhiệm vụ cho một số anh em trí
thức là đảng viên vào miền Nam hoạt động công khai hoặc hợp pháp trong
"Phong trào đấu tranh chống Mỹ-Diệm". Tài liệu cũng nhắc đến tên các
trí thức này như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, giáo sư Phạm Huy Thông đã lãnh đạo
"Phong trào Hòa bình" ở Sài Gòn - Chợ Lớn. (8)
Ngày 4-2-1955, Hồ Chí
Minh tuyên bố: "Sẵn sàng lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền Nam-Bắc
như hiệp định Genève năm 1954 qui định nhằm tạo điều kiện cho các đoàn thể
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, cho nhân dân ở miền Bắc và miền Nam được
liên lạc với nhau, được tự do đi lại giữa hai miền."
Ngày 19 tháng 7, 1955,
chính phủ Hà Nội gửi công hàm cho chính quyền miền Nam đề nghị cử đại biểu tham
dự hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20 tháng 7, 1955 để bàn về việc thống
nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc theo đúng như hiệp định
Genève qui định. Trong bức công hàm này. Phạm Văn Đồng đã mở đầu "Kính
thưa Tổng thống", theo lời thuật lại của ông Đoàn Văn Thêm, người từng nắm
chức vụ cao trong Dinh Độc Lập (từ 12-7-1954 đến ngày 1-11-1963) (9).
Tuy nhiên, ông Diệm vì
không muốn công nhận Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa nên sai các Tòa Đại Sứ
Việt Nam Cộng Hòa phân phát một giác thư đại ý nói rằng:
"Chúng tôi không có
ký hiệp định Genève, chúng tôi không bị bó buộc vào một điều khoản nào của hiệp
định ấy... Chúng tôi sẽ đấu tranh để thống nhất đất nước. Chúng tôi không bác
bỏ nguyên tắc tổng tuyển cử tự do là phương tiện hòa bình và dân chủ để thực
hiện thống nhất. Song đứng trước chế độ áp bức của Việt Minh, chúng tôi hoài
nghi rằng ở Bắc Việt khó có thể thực hiện một cuộc bầu cử tự do...
"Đối với những
người sống trên vĩ tuyến 17, tôi (tức Ngô Đình Diệm) kêu gọi họ cứ tin tưởng.
Với sự chấp thuận và hỗ trợ của Thế giới Tự do, Chính phủ Quốc Gia sẽ đem lại
cho các người độc lập tự do." (10) Về việc này, ông Nguyễn Trân, cựu tỉnh
trưởng Khánh Hòa (Nha Trang) rồi Định Tường (Mỹ Tho) có viết lại trong hồi ký
"Công và Tội: Những sự thật lịch sử" rằng: "Một hôm có việc vào
Dinh Độc Lập, tôi gặp Tổng thống Diệm và đề nghị với ông nên đòi hiệp thương
tổng tuyển cử với miền Bắc với những điều kiện có lợi cho quốc gia.
Nếu cộng
sản chấp nhận thì theo điều kiện của chúng ta, nếu từ chối sẽ mất lập trường.
"Nếu cụ để miền Bắc đòi", tôi nói, "mà cụ từ chối thì rất bất
lợi". Đ hơn một tháng sau tôi có việc gặp lại Tổng thống.
Lúc bấy giờ ông
đã từ chối lời yêu cầu mở Hiệp thương của Phạm Văn Đồng với lời tuyên bố như
sau: "Chúng ta không ký hiệp định Genève, chúng ta không bị hiệp định đó
ràng buộc, vì trái với ý muốn của nhân dân. Chúng ta không thể xem xét đề nghị
của Việt Minh nếu không đủ bằng cớ rằng Việt Minh đặt quyền lợi tối cao của
cộng đồng dân tộc lên trên quyền lợi của cộng sản."
Cảm thấy sự bất lợi đã
từ chối như tôi đã nói trước với ông, ông nói với tôi: "Phải chi tôi nghe
lời anh thì được việc rồi!" (11) Hoàng Cơ Thụy đã trích dẫn một tài liệu
mật của Ngũ Giác Đài (The Pentagon papers) công bố năm 1971 cho biết rằng:
"... Trong thực tế, cuộc xâm nhập của Việt Minh từ Bắc Việt vào Nam đã bắt
đầu ngay từ năm 1955 nhưng chỉ đến năm 1959 thì cơ quan tình báo CIA mới có đủ
chứng cớ rằng sự xâm nhập ấy đã có tầm vóc lớn". (12). Cũng tài liệu của
Ngũ Giác Đài trên đây cho biết thêm:
"Lê Duẩn, gốc người
Nam Việt (?) trở ra Hà Nội năm 1957 sau khi đã lén lút ở trong miền Nam hai năm
(tức là các năm 1955-56); hắn báo cáo với Bộ Chính Trị của đảng Lao Động (le
politburo) rằng cuộc kháng chiến ở trong Nam có kết qủa rất kém, vậy không nên
mất thì giờ làm đấu tranh chính trị nữa, cần phải cấp tốc làm đấu tranh quân
sự.
- Tháng 12-1958, CIA bắt được một chỉ thị của Hà Nội gửi cho Bộ chỉ huy
vùng Cao Nguyên trung phần, cho hay rằng Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động
đã quyết định "khai nguyên một giai đoạn mới đấu tranh".
- Tháng
1-1959 CIA bắt được một mệnh lệnh (của Hà Nội) ra chỉ thị thành lập hai căn cứ
để làm địa bàn cho du kích chiến, một ở Tây Ninh cạnh biên giới Cao Miên, một ở
miền Tây cao nguyên Trung Việt. - Hồi ấy Lê Duẩn lại lén lút trở vô Nam.
- Đến
tháng 5-1959 thì quyết định trên đây của Bộ Chính Trị được Ban Chấp Hành trung
Ương đảng Lao Động (le comité Central), khóa thứ 15, hoàn toàn chuẩn y.
"Vậy khởi điểm chính thức của sự can thiệp của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa (vào xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa) là bản nghị quyết tháng 5-1959 ấy"
(13)
Đem đối chiếu tài liệu
của Ngũ Giác Đài thu nhận với những gì mà các sử gia cộng sản đã công bố thì
rất khớp với nhau. Trong sách "Việt Nam, những sự kiện 1945-75", Viện
Sử Học Hà Nội ghi lại:
"Năm 1959, tháng 5
- Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 15. Hội nghị kiểm điểm tình
hình và đề ra đường lối cho cách mạng miền Nam nhằm thống nhất nước nhà trên cơ
sở độc lập và dân chủ. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ củng cố miền Bắc làm cơ sở
vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào ta ở miền Nam nhằm hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước". (14). Với tất cả những sử
kiện thu thập được như trên từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta có thể kết luận
dứt khoát: - Đảng Lao Động (tức đảng Cộng sản Việt Nam đổi tên) chính thức điều
động cuộc xâm lăng miền Nam. - Bắc Việt được xử dụng như là căn cứ địa để chỉ
huy và viện trợ về nhân lực và tài lực cho cuộc xâm lăng ấy. contiep
-- Nong bi' Dai" (webmaster@ngoisao.net), September 25, 2004
-- Nong bi' Dai" (webmaster@ngoisao.net), September 25, 2004
Answers
Response to Cộng sản xâm lăng miền Nam: dưới thời đệ I Cộng Hoà
(1954-1963)
II.- Sự chuẩn bị võ
trang bạo động "Phong Trào Hòa Bình" năm 1954 do luật sư Nguyễn Hữu
Thọ cầm đầu hoạt động khá mạnh sau hiệp định Genève. Chính quyền miền Nam đã phải
ra lệnh bắt giam một số người lãnh đạo như Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư
Nguyễn Văn Dưỡng, Thạc sĩ Phạm Huy Thông. Nhưng tất cả đều được thả ra vào cuối
năm 1956.
Trần Bửu Kiếm (nguyên
Tổng thư ký Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam Bộ và bây giờ là Kỳ ủy đảng Dân Chủ
Nam Bộ do Trung ương Cục miền Nam đảng Lao Động biệt phái sang và lãnh đạo
ngầm) được lệnh đi tìm thăm các nhân vật trong "Phong trào Hòa bình"
đặc biệt là LS Nguyễn Hữu Thọ (đang sinh sống tại Nha Trang) để chuẩn bị nhân
sự cho một thế đấu tranh mới kết hợp giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh võ
trang theo đường lối cách mạng vô sản chuyên chính.
Năm 1958 coi như năm cực
thịnh của chính quyền miền Nam và cũng là năm xem như toàn bộ hệ thống cơ sở
của Việt Cộng gài lại hoạt động ở miền Nam tan tác không còn gì. Giữa lúc đó,
Hà Nội quyết định gửi cán bộ vào Nam, mở đầu cho phong trào "Hồi
kết", xây dựng lại lực lượng, lập lại cơ sở để mở phong trào "Đồng
Khởi" toàn bộ vào năm 1959. Dù muốn dù không, dù coi thường hiệp định
Genève đến đâu, hai bên Sài Gòn và Hà Nội vẫn còn bị hiệp định Genève ràng
buộc, còn sợ bị dư luận và ảnh hưởng thế giới kềm chế, nên đối với Hà Nội, muốn
mở lại cuộc chiến tranh vũ trang, đánh miền Nam không thể và không dám làm một
cách công khai được. Muốn che mắt thiên hạ, muốn cho thiên hạ lầm lẫn và không
thể đổ trách nhiệm về mình, Hà Nội cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh bí mật vào Nam
quan sát tình hình thi hành quyết nghị mật của Bộ Chính Trị (Nguyễn Chí Thanh
nguyên là Ủy viên B chính trị, Bí thư Trung ương Đảng trong Ban Bí Thư, phụ
trách về vấn đề nông dân và thanh niên, đồng thời là bí thư Tổng quân ủy Trung
ương hay nói cách khác là Chính ủy Toàn quân). (15)
Đầu năm 1959, Hà Nội cho
thành lập "những toán chở đồ lậu" (des équipes de contrabandiers) gồm
những người gốc miền Nam đã tập kết ra Bắc hồi năm 1954. Họ có nhiệm vụ chuyên
chở vật thực, thuốc men và những nhu phẩm khác, dọc theo đường mòn của hệ thống
xuyên sơn. Trong hai năm 1959-60, đã có chừng 26 toán, tổng cộng là 4.500 người
đã vô Nam. Hai phần ba những người ấy là đảng viên đảng Lao Động (tức đảng Cng
sản). (16)
Tháng 4-1959 Hà Nội đã
thiết lập Lữ đoàn Chuyên Chở số 559 đặc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ban
chấp hành trung ương Đảng để chuyên lo những dịch vụ xâm nhập vào miền Nam.
Chính lữ đoàn này, dưới
quyền Đại tá Đồng Sĩ Nguyên đã lo xây đắp "đường mòn Hồ Chí Minh".
Ông Đỗ Mậu trong "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi" ghi nhận "Ngay
từ năm 1956, sau khi ông Diệm được Hoa Kỳ khuyến khích và bảo trợ việc tổ chức
tổng tuyền cử hai miền theo qui định của hiệp ước Genève, nên tập đoàn lãnh đạo
Hà Nội một mặt cho đài phát thanh Hà Nội suốt ngày tố cáo sự vi phạm trắng trợn
này và kêu gọi nhân dân miền Nam nổi dậy, mặt khác tiến hành việc khai thông và
chỉnh trang lại con đường giao liên và vận chuyển từ Bắc vào Nam gọi là
"đường giây ông Cụ" để sau này (từ 1959-60) biến thành "đường mòn
Hồ Chí Minh" (17)
Đường mòn Hồ Chí Minh
xuất phát từ Vinh đi dọc theo dãy Trường Sơn đến gần vùng vĩ tuyến 17 thì bám
sát biên giới Lào Việt, bám sát Trường Sơn Đông để mớ lối chuyển quân về Thừa
Thiên Huế, Đà Nẵng, vào cao nguyên miền Trung như Daksut, Dakto, Kontum để tiến
về An Khê Bình Định. Rồi đường mòn băng qua đất Campuchia tiến về chiến khu D
trong vùng biên giới Miên-Việt rồi từ đó mở đường tiến quân về Lộc Ninh.
Đường mòn HCM đã nắm giữ
vai tró huyết mạch trong việc chuyển vận lương thực, đạn được, quân trang, quân
dụng và cả nhân lực từ miền Bắc vào chiến trường miền Nam. Cựu Tổng thống Hoa
Kỳ, Richard Nixon đã đề cập đến tầm quan trọng chiến lược của đường mòn HCM như
sau: "Đường mòn HCM khiến cho quân đội cộng sản có thể đi vòng quanh khu
phi quân sự giữa Bắc Nam để đánh miền Nam vào chỗ nào mà đối phương không ngờ
tới.
Nếu Nam Việt chỉ phải
chống xâm lăng của Bắc Việt ở 70 cây số "khu phi quân sự", thì họ có
thể tự bảo vệ mà không cần đến quân lực Hoa Kỳ. Trong cuộc chiến tranh Cao Ly,
Bắc Hàn chỉ tấn công ở biên giới chứ không thể dùng đại dương như hai bờ Nam
Hàn làm thánh địa để tấn công.
Nhưng Hà Nội có nhiều
thánh địa tại Ai Lao và Cao Miên, dùng làm bàn đạp để tấn công chớp nhoáng Nam
Việt rồi rút lui lập tức. Mà biên giới phải bảo vệ thì kéo dài từ 70 lên đến
1000 cây số...
Tuân theo hiệp định năm
1962 về việc trung lập hóa Ai Lao, Mỹ đã phải rút quân hết ra khỏi nước Lào, nên
không thể ngăn cản Bắc Việt kiện toàn đường mòn HCM kể từ năm đó, gây ảnh hưởng
rất tai hại cho những giai đoạn sau của chiến tranh." (18)
- Ngoài việc vận chuyển
qua đường mòn Hồ Chí Minh, cộng sản Hà Nội còn vận chuyển võ khí quân như vào
miền Nam bằng đường biển, qua hải cảng Sihanoukville của Cao Miên do Hải đoàn
579 phụ trách (19). Song song với việc chuyển người và vũ khí đạn được vào miền
Nam, những cán bộ cộng sản nằm vùng đẩy mạnh công tác gián điệp tình báo và
kinh tài.
Cao Thế Dung kể rằng:
"Theo giới tình báo, sau Genève 54, cộng sản đã để lại Sài Gòn 50 triệu
bạc để tiếp tục gây dựng cơ sở kinh tài và nuôi tình báo... Họ cho người đem
tiền ấy vào các kinh doanh tư nhân góp vốn, như hãng tầu chuyên chở Nguyễn Văn
Bửu (ở Trung), hãng bào chế OPV của Nguyễn Cao Thăng, nhà máy sợi Vimytex, công
ty thủy tinh Thanh Hoa (ở Nam), nhất là cơ sở kinh doanh của nhóm Nguyễn Trung
Thành và Ngân hàng Việt Nam mà Nguyễn Văn Diệp là điển hình (năm 1973 Diệp trở
thành Tổng trưởng Thương Mại của chính phủ Trần Thiện Khiêm". (20)
Một mặt họ tìm cách
khuyến dụ dân miền Nam theo "kháng chiến" chống lại cái mà họ gọi là
"chế độ Mỹ-Diệm", mặt khác họ thi hành chính sách thủ tiêu, ám sát
những viên chức mà họ gọi là "tay sai" của chính phủ Diệm, đa phần là
các viên chức xã, ấp. Theo ghi nhận của Tòa Đại Sứ Mỹ thì "nếu cả năm 1958
chỉ mới có 193 vụ ám sát các xã trưởng, thì riêng trong 4 tháng sau cùng của
năm 1959 đã có thêm 119 vụ ám sát nữa" (21).
Đỗ Mậu cho biết con số
tổn thất của số cán bộ chính quyền cao hơn nhiều: "Chỉ nói riêng năm 1957
mà thôi, số cán bộ chính quyền bị thủ tiêu đã lên đến 472 người. Con số này
tăng gấp đôi vào năm 1958 và đến 1959 thì trung bình cứ mỗi tuần lễ có đến 15
cán bộ nông thôn hoặc viên chức xã ấp bị Việt cộng giết" (22)
Ngày 8-7-1959, hai quân
nhân Mỹ đầu tiên bị tử thương khi một trái bom nổ trong căn cứ không quân Biên
Hòa. Ngày 26-9-1959 một cuộc phục kích của Việt Cộng làm tử trận 12 người lính
của hai Đại đội thuộc Sư đoàn 23 Việt Nam Cộng Hòa, cướp đi hầu hết các vũ khí.
Ngày 26-1-1960 một Trung
đoàn thuộc Sư đoàn 21 đóng ở Trảng Sụp, cách tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 12 cây số
bị Việt Cộng tấn công gây thiệt hại nặng nề cả nhân mạng lẫn vũ khí. Sư đoàn 21
do trung tá Trần Thanh Chiêu chỉ huy. Tướng Trần Văn Đôn kể lại: "Đầu năm
1960, Việt Cộng gia tăng tấn công vào các đồn, nhất là cuộc tấn công đại quy mô
vào một Trung đoàn thuộc Sư đoàn 12 ở Tây Ninh do Trung tá Trần Thanh Chiêu chỉ
huy (ông Đôn ghi nhầm, đúng ra là Sư đoàn 21) .
Điều này chứng tỏ Việt
cộng đã hoạt động mạnh và lúc đó Bắc Việt đã cho quân vào Nam, nhưng trên đài
phát thanh, Hà Nội tuyên bố có mấy Sư đoàn của họ ly khai để tránh tiếng với
thế giới." (23) III.- Việc thành lập mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
(20-12- 1960): Vào tháng 5-1959, Ban chấp hành trung ương đảng Lao Động Việt
Nam họp khóa 15, quyết định rằng Bắc Việt sẽ chính thức chỉ huy cuộc xâm lăng
miền Nam bằng võ trang quân sự.
Hai chiến khu cũ được tái lập: một ở Tây Ninh
gọi là "R", một ở Cao nguyên miền Trung tức Liên đoàn V cũ. Viện Sử
Học Hà Nội trong "Việt Nam, Những Sự Kiện" tập I đã kể rằng:
"Trong cao trào cách mạng, hồi 8 giờ tối 19-12-1960, tại một vùng giải
phóng của miền Đông Nam Bộ, đại biểu các cấp, các đảng phái, các tôn giáo, các
dân tộc toàn miền Nam đã họp Đại hội để thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng
Miền Nam Việt Nam.
Một giờ sáng ngày 20-12, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành lập, Mặt trận công bố chương trình hành
đng gồm 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế
quốc Mỹ và chế độ độc tài Ngô Đình Diệm, nhằm xây dựng một miền Nam độc lập,
dân chủ, hòa bình, thống nhất nước nhà.
"Ngay sau khi Mặt
Trận ra đời, đông đảo công nhân đồn diền cao su Trảng Bàng và nhiều đồn điền
khác thuộc tỉnh Tây Ninh đã cùng tham gia mít tinh, biểu tình thị uy chung với
nông dân hoan nghênh Mặt Trận thành lập và tố cáo tội ác khủng bố nhân dân của
Mỹ-Diệm". (24) Lời tường thuật trên đây cho chúng ta thấy là MTDTGPMNVN là
một tổ chức tự phát của nhân dâm miền Nam nhằm mục đích đánh đổ chế độ của Ngô
Đình Diệm và sự can thiệp của "Đế Quốc Mỹ".
Nhưng sự thật không đúng
như vậy. MTDTGPMNVN chỉ là con đẻ của cộng sản Hà Nội như sẽ được minh chứng
qua các tài liệu sử dưới đây. Đảng cộng sản với sở trường thay hình đổi dạng
muôn mặt để lường gạt quần chúng nhằm thực hiện mưu đồ xích hóa toàn bộ Việt
Nam và Đông Dương dưới ngọn cờ của Đệ Tam Quốc Tế.
Họ đã lừa gạt nhân dân
lần thứ nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp khi cho ra đời "Mặt Trận
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh" (gọi tăt là Việt Minh) dưới thời Đông Dương
Cộng Sản Đảng. Nay đảng Lao Động (chỉ đổi tên thực chất vẫn như vậy) lại cho ra
đời ở miền Nam cái gọi là MTDTGPMNVN để lôi kéo toàn dân từ Bắc chí Nam làm
"kháng chiến chống Mỹ-Diệm", đây là vụ lường gạt lần thứ hai.
Không phải ai cũng nhận
ra được sự lường gạt này của cộng sản Hà Nội. Ngay chính Đại tướng Nguyễn
Khánh, cựu Quốc trưởng VNCH (1963-65) cũng vẫn chưa nắm rõ quyền lực thật sự
nằm sau MTDTGPMNVN là ai nên ông đã kể lại trong những cuộc gặp gỡ riêng tư với
chúng tôi ở San Jose và gần đây trong buổi nói chuyện của ông ở trường Texas
Technology University tại thành phố Lubbock (Texas) ngày 16-4- 1999 rằng:
"Về nỗ lực hòa
bình, tôi đã bắt được đường giây liên lạc với các lãnh đạo cao cấp của
MTDTGPMNVN như kỹ sư Huỳnh Tấn Phát, Phó chủ tịch. Sau này ông Phát trở thành
thủ tướng chính phủ thuộc MTGPMNVN... Chỉ vỏn vẹn một tuần trước khi tôi bị bắt
buộc phải lưu vong xa xứ tôi đã nhân được một lá thư của Huỳnh Tấn Phát nói lên
sự mong muốn thảo luận các vấn đề hòa bình với chính phủ VNCH" (Tướng Nguyễn
Khánh đã phải rời xứ vào ngày 25-2-1965). (25).
1.- Nguyên nhân thành lập: Sau
khi việc hiệp thương và tổng tuyển cử bất thành. Bộ Chính Trị cộng sản ở Hà Nội
đã quyết định chuyển qua giai đoạn đấu tranh chính trị (1955-1956), qua giai
đoạn đấu tranh kết hợp chính trị và vũ trang kể từ đầu 1958.
Họ nhất quyết
"thi hành nhiệm vụ quốc tế" là thống nhất Nam-Bắc để cộng sản hóa
Việt Nam rồi toàn thể Đông Dương, MTDTGPMNVN ra đời để nhắm tới mục tiêu đó.
Việc hình thành Mặt Trận
này giúp họ tránh được sự chỉ trích của công luận thế giới vì họ cố ra sức
tuyên truyền rằng đây chỉ là tổ chức tự phát do nhân dân miền Nam nổi dậy chống
lại độc tài Ngô Đình Diệm và sự hiện diện của ngoại bang (Mỹ thay thế Pháp).
Kim Nhật tác giả cuốn "Về R" đã xác định rõ lý do liên quan đến dư
luận quốc tế này như đã trích dẫn ở phần trên. Tác giả Kim Nhật cũng kể lại lời
phát biểu của Nguyễn Hữu Thọ khi nói chuyện cùng Trần Bửu Kiếm "Tôi cũng
biết từ trước đến nay cuộc cách mạng này là do Đảng lãnh đạo.
Tất cả thành qủa đạt
được ngày nay đều do các cán bộ của Đảng thực hiện, chịu bao nhiêu gian khổ hy
sinh tạo nên. Nhưng ngày nay ở vào cái thế không dừng được, phải ra mặt công
khai chống đối, đánh đuổi kẻ thù vì cái thế chính trị cũng như dựa vào những
điều kiện khách quan ở bên ngoài và chủ quan ở trong nước, trong nội bộ của
chúng ta nên mấy anh mới vận động thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền
Nam này..." (26).
Mt lý do nữa để
MTDTGPMNVN ra đời là chính sách tố cộng cùng sự đàn áp mọi xu hướng chính trị
đối lập của chế độ Diệm đã đẩy rất nhiều thành phần bất mãn chống lại chính
quyền. Họ cần được tập hợp lại và đảng Lao Đng đã nhìn được lợi thế này.
Đỗ Mậu
đưa ra nhận xét: "Chính vì đã không xây dựng được niềm tin đó (của quần
chúng), chính vì đã không xây dựng được sự ủng h đó cho nên khi cái gọi là
MTDTGPMNVN ra đời, chúng đã có sẵn một đại khối thôn quê (đang là nạn nhân bất
mãn với chính quyền) che chở, bảo vệ và yểm trợ.
Không triệt tiêu được từ trong
trứng nước mầm mống cộng sản tại miền Nam mà lại còn trực tiếp đóng góp cho sự
lớn mạnh của chúng, chính là tội lớn của chế độ Ngô Đình Diệm..." (27) 2.-
Thanh phần lãnh đạo MTDTGP-MNVN.
Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh (như đã nhắc đến trong phần trước) từ Hà Nội cải trang vào Nam Vang và
cho người về liên lạc với Thường vụ Trung ương Cục miền Nam đóng ở rừng sâu
Chiến khu D thuộc tỉnh Phước Thành. Nguyễn Chí Thanh sau khi nghe báo cáo tình
hình, trao quyết nghị của Trung ương Đảng chỉ thị cho Trung ương Cục Miền Nam
phải gấp rút chuẩn bị cho công bố một tổ chức, tên được chọn sẵn là "Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam". Theo Kim Nhật trong "Về R"
thì: "Thế là từ cuối năm 1958, cuộc vận động thuộc Trung ương Cục Miền Nam
tiến hành ráo riết.
Nhưng còn mỗi một băn
khoăn lớn là không biết chọn ai làm chủ tịch, cầm đầu cho cái tổ chức đó. Nếu
đưa một cán bộ của Đảng, một ủy viên Trung ương Đảng thì dễ qúa, thiếu gì
người, nhưng như vậy thì việc đó tự nó đã tố cáo sự vi phạm trắng trợn của Hà
Nội lại không có lợi về mặt tuyền truyền.
Phải chọn một người
trong giới trí thức tương đối có tiếng tăm để gây nên một tiếng vang, nhưng
người đó là ai? Ai có thể chịu, dám từ bỏ mọi sự nghiệp, chịu gian khổ, hy sinh
đến tiếng tăm mình? Nhiều người được đặt ra để vận động nhưng không thành. Cuc
vận động giữa Trần Bửu Kiếm và Nguyễn Hữu Thọ trở nên ráo riết, cũng chưa mang
lại kết qủa nào. Trong lúc đó, Hà Nội thúc dục hàng ngày việc công bố danh sách
và tổ chức "MTDTGPMN".
Đến giữa năm 1960, việc
đưa Nguyễn Hữu Thọ ra làm chủ tịch Mặt Trận vẫn chưa thành, Trung ương Cục miền
Nam bèn dự định chọn Bác sĩ Phùng Văn Cung. Sứ giả được tung ra, đi mời những
đại biểu được vận động trước và chọn sẵn về dự buổi họp tại căn cứ giữa rừng
sâu, gần cầu Cần Đăng, trên đường đá đỏ Trà Băng, Trại Bí - Xóm Mới - Bổ túc -
Sóc Ông Trang thuộc tỉnh Tây Ninh, cách biên giới Việt Miên quãng 7 cây số
ngàn.
Nhưng vào một sáng tháng
mười năm 1960, trạm giao liên Suối Đá của "đường dây ông Cụ" (tức
đường giao liên đưa cán bộ từ bắc vào nam) tiếp nhận hai người khách đặc biệt
cùng một đại đi theo bảo vệ. Họ đi từ phiá sông Đồng Nai, vượt qua đồi Bù Cháp,
đồi Tam Cấp đến. Hai người khách đó, một mặc sơ mi trắng cụt tay, quần tây xám,
mang giầy bata, cỡi ngựa, và một mặc bộ bà ba đen đi bộ, chân mang dép râu.
Cả
hai đều mồ hôi nhễ nhại, dù đường đi lá rừng che phủ không lọt chút nắng và khí
hậu về trưa vẫn còn gai gai lạnh. Hai người khách đó là Trần Bửu kiếm và Nguyễn
Hữu Thọ." (28) Rồi Kim Nhật kể tiếp: "Trong buổi tiệc tối được người
ta mệnh danh là "buổi tiệc họp mặt" của Ủy ban Vận đng Đại hội Nhân
dân Miền Nam, Nguyễn Hữu Thọ được Trần Bửu Kiếm giới thiệu cùng mọi người:
- Thưa qúy vị, hôm nay
tôi rất sung sướng và hân hạnh được giới thiệu với qúy vị: đây là luật sư
Nguyễn Hữu Thọ, linh hồn của "Phong Trào Hòa Bình" năm 1954, người mà
bọn thực dân Pháp và Mỹ- Diệm cúi đầu kính nể sợ hãi, nhiều phen âm mưu sát hại
nhưng không sao sát hại được. Và Ủy ban Vận động của chúng ta, luật sư cũng là
người góp nhiều công trạng nhất..." (29) Và như vậy người được Trung ương
Cục miền Nam chọn để nắm chức Chủ tịch MTDTGPMN là luật sư Nguyễn Hữu Thọ (cũng
nên biết rằng khi chưa được Nguyễn Hữu Thọ về cục R, Trung ương Cục Miền Nam đã
có dự định chọn bác sĩ Phùng Văn Cung làm chủ tịch). con tiep
-- Ho chi Minh Dam TAC (vietnamcongsans nuoi Heo nhieu qua'' @yahoo.com), September 25, 2004.
-- Ho chi Minh Dam TAC (vietnamcongsans nuoi Heo nhieu qua'' @yahoo.com), September 25, 2004.
Response to Cộng sản xâm lăng miền Nam: dưới thời đệ I Cộng Hoà
(1954-1963)
Luật sư Nguyễn Hữu Thọ có tên trong số 352 nhà
trí thức ký bản "Tuyên Ngôn Hòa Bình" ở Sài Gòn hồi tháng 5-1954 là
những người có cảm tình với Việt Minh kháng chiến và chống Pháp; ông có bị
chính phủ Pháp bắt giam nhưng đến năm 1955 thì được thả và chỉ định cư trú ở
Nha Trang. Trần Bửu Kiếm được trung ương Cục Miền Nam ủy đi vận động Nguyễn Hữu
Thọ tham gia Mặt Trận như Kim Nhật trong "Về R" đã kể lại. Kiếm đã
đưa Thọ trốn khỏi Nha Trang và sau đó có cả một đại đội Việt Minh đi hộ tống để
đưa Thọ về căn cứ R ở vùng Tây Ninh gần biên giới Việt-Miên vào giữa tháng
11-1960.
Khi Thọ về tới nơi, Trung ương Cục làm báo cáo lên Trung Ương Đảng đề
nghị Thọ làm chủ tịch Mặt Trận và đồng thời đề nghị mở Đại hội thành lập Mặt
Trận vào ngày 19-12-1960 nhằm ngày kỷ niệm kháng chiến toàn quốc chống Pháp
19-12-1946. Trung ương Đảng đồng ý và cử đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào Nam để
thi hành quyết nghị mật của Bộ Chính Trị về công tác xâm lăng miền Nam bằng võ
lực. Để phòng hờ Nguyễn Chí Thanh từ Nam Vang đến chậm nên Đại hội được ấn định
là 20-12-1960. Đại hội gồm 300 đại biểu do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm
trưởng ban tổ chức.
Từ hôm trước (19-12) và từ tờ mờ sáng hôm sau
20-12, tất cả các đại biểu được nhân viên Ban Tổ Chức phân phát những tài liệu
về Đại hội để họ đọc qua trước khi thảo luận (để đỡ mất thì giờ). Trong số đại
biểu, có một đại biểu nữ đáng chú ý là chị Ba Định tức Nguyễn Thị Định, người
đã lãnh đạo cuộc "đồng khởi" ở Bến Tre năm 1959. Đại hội đã kéo dài
hết hai ngày từ 20-12 đến 21-12 và bầu Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch MTDTGPMN như
Trung ương Đảng ở Hà Nội đã chuẩn thuận. Đại hội đã thông qua các bản báo cáo
về quân sự, chính trị và nhiều vấn đề khác nữa.
Dặc biệt chỉ thị của đại diện
Trung Ương Đảng từ Hà Nội vào là Nguyễn Chí Thanh tức Trường Sơn, tức Sáu Vi về
một số điểm quan trọng: "Quân đội là sức mạnh của Đảng, là công cụ, là
cánh tay mặt của Đảng để bảo vệ Đảng và thực hiện mọi chính sách của Đảng.
Do
đó, quân đội phải thuần nhất, phải trung thành tuyệt đối với Đảng. Đảng phải
nắm quân đội. Đảng lãnh đạo một cách tuyệt đối và chuyên chính, không chấp nhận
một tư tưởng nào khác ngoài tư tưởng Mác Lê.
Từ trên xuống dưới, đảng ủy, cấp
ủy của cấp lãnh đạo, phải triệt để thi hành, tuân theo chỉ thị của Đảng và hoàn
toàn chịu trách nhiệm với Tổng Quân ủy về đơn vị của mình. Quân giải phóng là
một bộ phận của quân đội nhân dân, thực hiện nhiệm vụ "giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc".
Học tập và noi theo truyền thống của quân đội nhân
dân miền Bắc, từ ngày thành lập "Đội võ trang tuyên truyền giải phóng
quân" vào thời kỳ chống Nhật, rồi "Vệ Quốc Đoàn" thời kỳ chống
Pháp và "Quân Đội Nhân Dân" trong nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa
ngày nay, quân giải phóng anh dũng chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, chiến đấu
cho giai cấp công nông, mà họ là những con em của giai cấp đó.
Những lời tâm
niệm này, bất cứ là du kích, là địa phương quân, cơ động hay chủ lực cũng phải
thuộc nằm lòng là: - Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thẳng. Quân đội là công
cụ của Đảng, Đảng chuyên chính trong quân đội.
Đảng thực hiện cuộc cách mạng
đó.’’ Sáu Vi còn nhấn mạnh thêm: "Chính sách trong giải phóng quân là
chính sách của Đảng, không có một chính sách nào khác, chỉ trừ về phiá Mặt Trận
thì ta mới có chính sách đãi ngộ mà thôi..." Về trường hợp của 4 tướng
Trần Lương, Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn và Trần Đ, anh Sáu Vi cho biết thêm là
cũng vì lý do chính trị và nguyên tắc cảnh giác cách mạng, nên các đồng chí đó
chưa thể vào Nam ngay được.
Danh sách của các ủy viên trong Mặt Trận vẫn
không thay đổi chỉ trừ ủy viên quân sự, trước đây chỉ định Trần Công Khanh
nhưng bây giờ, vào phút chót Bộ Chính Trị chỉ định Trần Lương thay vào đó với cái
tên mới Trần Nam Trung". (30).
Như vậy Đại Hội thành lập MTDT-GPMNVN đã
khai mạc vào buổi sáng ngày 20-12 và kéo dài đến 11:30 đêm 21-12-60 mới bế mạc.
Đại Hội đã thông qua cương lĩnh của Mặt Trận. Mặt Trận nhắm đến ba mục tiêu
chính là chống đế quốc Mỹ, chống phong kiến Diệm, và thực hiện cách mạng xã hội
bằng cách đem lại ruộng đất cho nông dân.
Tuyên ngôn của Mặt Trận gồm 10 điểm
chính như sau:
1.- Đánh đổ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc
tài Ngô Đình Diệm tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc dân
chủ.
2.- Thiết lập chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ
3.- Xây dựng một nền kinh
tế độc lập tự chủ. 4.- Giảm tô, bảo đảm nguyên canh, cải cách điền địa.
5.- Xây
dựng một nền văn hóa giáo dục dân tộc và tiến bộ.
6.- Xây dựng quân đội dân tộc
bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ nhân dân.
7.- Thực hiện nam nữ bình quyền, bảo đảm quyền
bình đẳng giữa các dân tộc, và thực hiện quyền tự trị của các dân tộc thiểu số.
Bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều ở Việt nam và quyền lợi của kiều bào
ở hải ngoại. 8.- Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình và trung lập
9.- Lập
lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ Quốc.
10.- Chống chiến tranh xâm lược. Tích cực bảo vệ hòa bình thế giới. (31) Ngày
23-12-1960, Nguyễn Hữu Thọ đã họp với trung ương Cục Miền Nam để thành lập Ban
Thường Vụ Trung Ương của Mặt Trận.
Đa số là đảng viên cao cấp của đảng Lao Động
(hậu thân của đảng cộng sản Đông Dương): Chủ tịch: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ Phó
chủ tịch thứ nhất: Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát Phó chủ tịch thứ hai: Bác sĩ
Phùng Văn Cung Ủy viên chủ tịch đoàn: Trần Bửu Kiếm Ban đối ngoại: Giáo sư
nguyễn Văn Hiếu Ban quân sự: Trung tướng Trần Nam Trung, tên thật là Trần
Lương, nay chưa tiện vào Nam; Thượng tá Trần Công Khanh tạm thời thay thế
trưởng ban quân sự sẽ kiêm luôn chức tư lệnh các lực lượng Giải phóng quân. Ban
kinh tài: Tư Thắng (đang phụ trách về hậu cần) Ban dân y: Mười Năng tức
"Bác sĩ Điện Biên" Vũ Cương.
Ban tuyên huấn: Trần Bạch Đằng (lo luôn
tờ báo Giải Phóng và Đài Phát Thanh Giải Phóng) Ban tiếp tân: Huỳnh Tấn Phát
Văn phòng Mặt Trận sẽ lập căn cứ bên kia đường 22, sát bờ sông tại biên giới
Việt-Miên.
Có động, chỉ cần vượt qua con sông chưa đầy chục thước, tức đã đến
đất Miên rồi.(32) Chú thích cho đến hết Đoạn I (1) Trần Văn Quang và mt số tác
giả, "Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước", Hà Nội: nxb:
Chính trị Quốc Gia, 1996, tr. 41; xem thêm Kim Nhật, "Về R", Sài gòn,
nxb: Sống, 1967, in lại tại Hoa kỳ (không thấy đề nơi và năm tái bản) tr, 138.
(2) Ibid, tr. 40 (3) B Quốc Phòng, Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam (Cộng sản),
"Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-75" tập II, Hà Nội, nxb:
Chính trị Quốc gia, 1996, tr. 14 (4) Ibid, tr. 15-19 (5) Ibid, tr. 19 (6) Ibid,
tr. 19, 20, 21 (phần chú thích) (7) Ibid, tr. 25 (8) Ibid, tr. 26 (9) Đoàn
Thêm, "Những ngày chưa quên", tập 2, xuất bản tại Sài Gòn 1969, tái
bản tại Hoa Kỳ, Xuân Thu, 1989, tr. 42 (10) Hoàng Cơ Thụy ghi nhận trong
"VSKL" sđd, tập 11, tr. 2780 (11) Nguyễn Trân, "Công và
Tội,..", Hoa Kỳ. nxb: Xuân Thu, 1992, tr. 165 (12) Hoàng Cơ Thụy, sđd, tập
11, tr. 2803 (13) Ibid, tr. 2803 (14) Viện Sử Học, "Việt Nam, Những sự
kiện 1945-1975" Tập I, Hà Nội, 1975, tr. 176 (15) Kim Nhật, "Về
R", Sài Gòn, nxb: Sống, 1967, in lại tại Hoa kỳ (không thấy đề nơi và năm
tái bản) tr. 15-16 (16) Theo tài liệu của Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers)
công bố năm 1971 và Hoàng Cơ thụy đã dẫn lại trong "VSKL", sđd, tập
11, tr. 2804 (17) Đỗ Mậu, VNMLQHT, sđd, tr. 398 (18) Richard Nixon. "The
Real War" (bản dịch tiếng Pháp "La Vraie Guerre") Paris: Albin
Michel, 1980, tr. 121-122 được Hoàng Cơ thụy dẫn lại trong VSKL, sđd, tập 11,
tr. 2804. (19) Hoàng Lạc, Hà Mai Việt "Nam Việt nam 1954-1975", xuất
bản tại Hoa kỳ, 1990, tr. 46. (20) Cao thế Dung, "Việt Nam ba mươi năm máu
lửa", Hoa kỳ, nxb: Alpha, 1991, tr. 482 - 493 (21) Hoàng Cơ Thụy ghi lại
theo tài liệu của Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers, 1971) trong VSKL, sđd, tập
11, tr. 2806. (22) Đỗ Mậu, sđd, tr. 399 (23) Trần Văn Đôn, "Việt Nam Nhân
Chứng", sđd, tr. 164 (24) Viện Sử Học, "Việt Nam Những sự kiện
1945-75" sđd, tr. 278 (25) Bài phát biểu của tướng Nguyễn Khánh được viết
bằng tiếng Anh. Lê Đình Cai đã dịch lại toàn văn ra tiếng Việt đăng trên tuần
báo "Chính Luận" số 126 ra ngày 30-4-99 tại Seattle, Wa; và trong
"Thế Giới Mới" số 292 ra ngày 21-5-99 tại Arlington, TX sau đó. (26)
Kim Nhật, "Về R", sđd, tr. 116, 117 (27) Đỗ Mậu, sđd, tr. 317 (28)
Kim Nhật "Về R", sđd, tr. 16, 17. (29) Ibid, tr. 23, 24 (30) Ibid,
tr. 74, 75, 76 (31) Hoàng Cơ Thụy, sđd, tập 12, tr. 2925-2926. Dẫn từ tài liệu
của Ủy ban Khoa học Xã hội (cộng sản), "Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp
luật VN", Hà Nội, 1983, tr. 181 (32) Hoàng Cơ Thụy, sđd, tập 12, tr. 2926
VPS
-- Ho chi Minh Dam TAC (vietnamcongsans nuoi Heo nhieu qua'' @yahoo.com), September 25, 2004.
-- Ho chi Minh Dam TAC (vietnamcongsans nuoi Heo nhieu qua'' @yahoo.com), September 25, 2004.
Response to Cộng sản xâm lăng miền Nam: dưới thời đệ I Cộng Hoà
(1954-1963)
Hồ Chủ Địt và bọn lâu la ăn phải bả Mac-Lenin
nặng đã cắn cỏ ngậm vành lạy Stalin, Mao, Kruchev ( cứt sốp )Brezhenev... làm
nghĩa vụ quốc tế đánh thuê với xương máu của nhân dân Việt Nam cho tham vọng Dế
Quốc Nga + Tầu để chiếm nốt miền Nam thôi làm gì co' chuyện bọn CSVN miền Bắc
muốn có hoà bình.
-- (Cán_Ngố_Ăn-Dải-Dút@BBP.govt), September 25, 2004.
-- (Cán_Ngố_Ăn-Dải-Dút@BBP.govt), September 25, 2004.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment