Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) tìm
mọi cách bịt miệng người Việt chống cộng hải ngoại.
Ngoc Nhi Nguyen
(Danlambao) - Cộng
sản (CS) thành công nhất là khi chúng có thể lừa gạt được người dân trong nước
và cộng đồng quốc tế. Bên ngoài chúng sẽ đưa ra bộ mặt thật đẹp, nào là quang
vinh anh dũng văn minh phát triển, tôn trọng nhân quyền, tự do dân chủ... nhưng
bên trong thì thối nát, tham nhũng, tàn độc, đàn áp dã man bất cứ những ai dám
chống đối.
Chúng ta đã thấy CSVN thản nhiên đầu độc thầy
giáo Đinh Đăng Định trong tù, tàn nhẫn khiến cho anh Huỳnh Anh Trí bị lây HIV
mà qua đời chỉ mấy tháng sau khi ra tù, chúng cũng không ngần ngại cho công an
giả dạng côn đồ đánh gãy chân chị Thúy Nga trong lúc chị ấy bồng con nhỏ trên
tay...
Nhưng ra ngoài thế giới thì CSVN lại đeo 1 cái
mặt nạ hoàn toàn khác hẳn, đòi vào hội đồng Nhân Quyền, cam kết này nọ đủ thứ
rất hoành tráng để lừa gạt cộng đồng quốc tế.
Vì vậy mà CS rất sợ người Việt hải ngoại chống cộng,
càng sợ hơn những người giương cao ngọn cờ vàng, vì không có cách nào ảnh hưởng
tư duy của họ, đặc biệt là những người giỏi tiếng Anh và có thể vận động các
hội đoàn, dân biểu, chính khách quốc tế.
CS bỏ ra hàng tỷ đồng hàng năm cho Nghị quyết 36
“nhuộm đỏ” cộng đồng người Việt hải ngoại, ngày xưa bằng cách đưa văn công đem
ca nhạc CS ra nước ngoài trình diễn, cho giáo viên sang mở lớp dạy văn hóa,
ngôn ngữ CS… cho đến ngày nay thì cho cán bộ, đảng viên, công an... trà trộn
vào những người ra nước ngoài học và làm việc, để xây xáo trộn đánh phá cộng
đồng.
CSVN tìm mọi cách cô lập cộng đồng người Việt tự
do chống cộng ở hải ngoại, khiến cho tiếng nói của họ trở thành tiếng vọng từ đáy
vực, từ từ không còn ai nghe được nữa. Khi đó chúng yên tâm và dễ dàng khống
chế mọi phản kháng trong nước, những nhà đấu tranh dân chủ quốc nội sẽ mất đi
sự ủng hộ của hải ngoại sẽ dễ dàng bi tiêu diệt.
Hải ngoại là hậu phương lớn và vững mạnh của
phong trào dân chủ trong nước, thì đương nhiên CS muốn tìm mọi cách tiêu diệt,
và bịt miệng.
Và càng như vậy thì cộng đồng chúng ta càng cần
phải lên tiếng mạnh mẽ liên kết với càng nhiều bạn bè nước ngoài và càng phải
tố cáo tội ác CS cho thế giới được rõ.
Nguyễn Tiến Trung: Tôi
đứng về phe nước mắt
Nguyễn Tiến
Trung - Ngày này năm năm
trước công an tràn vào nhà và đưa mình vào nhà tù B34. Năm năm trôi qua và bây
giờ mình lại ở trong căn phòng quen thuộc, gặp và nói chuyện lại những người
anh em dân chủ trước đây và mới tham gia vào phong trào dân chủ sau này. Mình
thấy rõ ràng rằng sau năm năm với bao nhiêu vụ bắt bớ, phong trào dân chủ không
hề suy yếu đi mà ngày càng lớn mạnh hơn với sự tham gia của đủ mọi tầng lớp, âm
thầm có, công khai có.
Trong trại B34, mình đã gặp các anh chị là nông
dân ở Đà Lạt, do bị thu hồi đất mà không được bồi thường (nghĩa là bị ăn cướp
giữa ban ngày) nên đã phải đứng lên chống lại cái thể chế chiếm đoạt. Mình còn
nhớ chị Tám ở đèo Prenn. Chị kể do chị không chấp nhận bị cướp đất, công an đã
đốn hạ 2000 cây cà phê của chị, đánh thuốc độc giết hết đàn heo nhà chị, con
gái của chị ở bên ngoài bơ vơ lại còn phải đi thăm nuôi mẹ ngồi tù. Chị vừa kể
vừa khóc…
Đâu rồi những lời tuyên bố đứng về phía người
nghèo, người cùng khổ, người bị áp bức của những người cộng sản? Khẩu hiệu
“Người cày có ruộng” là như thế đấy ư?
Khi được tự do, mình lại thấy tin nông dân Văn
Giang, Dương Nội… tiếp tục bị cướp đất; những người thẳng thắn bày tỏ chính
kiến tiếp tục bị bắt bớ, đàn áp như anh Ba Sàm (Nguyễn Hữu Vinh), blogger
Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào,…; những tù nhân chính trị, tù nhân lương tâm,
tù nhân tôn giáo tiếp tục bị ngược đãi; các anh chị em cùng vụ án với mình như
anh Trần Huỳnh Duy Thức, anh Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), chị Tạ Phong Tần, anh
Trần Anh Kim và nhiều anh chị em dân chủ khác vẫn đang ở trong tù.
Thế thì mình lại chỉ có một sự lựa chọn là “đứng
về phe nước mắt”. Ngục tù không thể dập tắt được khao khát được sống trong một
chính thể dân chủ, bảo vệ tự do, tôn trọng nhân quyền và dân quyền của người
dân Việt Nam.
Chợt nhớ lại những câu thơ bất hủ mà mình đã
được đọc trong cuốn “Trò chuyện triết học” của triết gia Bùi Văn Nam Sơn:
Không! Bạo quyền chuyên chế có một giới hạn
Khi kẻ bị đàn áp không biết tìm công lý ở đâu
Khi gánh nặng trở nên không chịu đựng nổi
Kẻ bị áp bức dũng cảm lên tận trời cao
lấy xuống những quyền hạn vĩnh cửu của mình
những quyền hạn bất khả xuất nhượng
được treo lên trời cao
và bất hoại như những vì sao…
- Friedrich Schiller (1759 – 1805)
Dương Tường
Làm gì để cứu non sông?
Bảo Giang
(Danlambao) - Hãy làm một công việc bé nhỏ
nhất. Mọi người cùng tham gia phát động phong trào nói lên sự thật. Nghĩa là,
người người bảo nhau, người biết nói cho người không biết. Người già nói cho
trẻ cùng nghe là Hồ Chí Minh và đảng CS đã dẫn Tàu cộng vào chiếm nước ta. Rồi
nhà nhà giáo huấn, trao đổi và bảo nhau về việc Tàu cộng đang xâm chiếm nước
ta. Đồng thời nhắc nhở cho nhau về ý chí tru diệt kẻ xâm lăng và những kẻ mãi
quốc càu vinh của cha ông ta...
*
Việt Nam, dẫu có đôi ba phen bị chia cắt. Cũng có lúc có hai, ba cơ chế công quyền khác nhau. Hoặc giả, có đôi lần bị đô hộ bởi ngoại bang, nhưng người Việt Nam xem ra vẫn luôn có được những điều đáng tự hào, đáng hãnh diện, hơn hẳn những sắc dân, hay những quốc gia đồng thời với mình từ khi lập quốc như: Tề, Hàn, Triệu, Sở, Tần, Tấn, Ngụy, Ngô, Việt (của Việt vương Câu Tiễn trong bách Việt) là chúng ta, dẫu là một sắc dân nhỏ sống rải rác ở phía nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng, bị đẩy dần về phương nam, nhưng vẫn còn một quốc thể, một ngôn ngữ, một văn tự, một nòi giống sống chung trên một giải đất hình chữ S mang tên Việt Nam, chạy dài từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu. Cộng với một biển đông xuôi theo chiều dài của bờ đất, vươn ra ôm lấy các đảo, và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không rời. Như thế, ta hãnh diện. Ta còn có một quê hương, một dân tộc đứng riêng ở cõi trời Nam là nhờ vào ý chí của tiền nhân qua nhiều đời luôn trung thành với hai nguyên tắc bất di bất dịch: Hy sinh vì đại nghĩa và tru di kẻ bán nước cầu vinh.
*
Việt Nam, dẫu có đôi ba phen bị chia cắt. Cũng có lúc có hai, ba cơ chế công quyền khác nhau. Hoặc giả, có đôi lần bị đô hộ bởi ngoại bang, nhưng người Việt Nam xem ra vẫn luôn có được những điều đáng tự hào, đáng hãnh diện, hơn hẳn những sắc dân, hay những quốc gia đồng thời với mình từ khi lập quốc như: Tề, Hàn, Triệu, Sở, Tần, Tấn, Ngụy, Ngô, Việt (của Việt vương Câu Tiễn trong bách Việt) là chúng ta, dẫu là một sắc dân nhỏ sống rải rác ở phía nam sông Dương Tử đến lưu vực sông Hồng, bị đẩy dần về phương nam, nhưng vẫn còn một quốc thể, một ngôn ngữ, một văn tự, một nòi giống sống chung trên một giải đất hình chữ S mang tên Việt Nam, chạy dài từ ải Nam Quan đến Mũi Cà Mâu. Cộng với một biển đông xuôi theo chiều dài của bờ đất, vươn ra ôm lấy các đảo, và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa không rời. Như thế, ta hãnh diện. Ta còn có một quê hương, một dân tộc đứng riêng ở cõi trời Nam là nhờ vào ý chí của tiền nhân qua nhiều đời luôn trung thành với hai nguyên tắc bất di bất dịch: Hy sinh vì đại nghĩa và tru di kẻ bán nước cầu vinh.
Tiếc rằng, bài sử ký này chỉ được người dân Việt
Nam ở miền nam trân trọng học tập và thực hiện việc bảo vệ giang sơn của cha
ông cho đến ngày 30-4-1975 là... chấm hết. Bởi vì, từ sau ngày quốc nạn
30-4-1975, và trước đó, từ 3-2-1930 đến 20-7-1954, tại miền bắc Việt Nam, dưới
chế độ cộng sản, đã chẳng có sách vở nào được ghi chép, đã chẳng có người dân
nào được phép nhắc nhở đến bản đồ địa lý mà cha ông ta để lại, cũng như chẳng
ai được nhắc đến chuyện phạt Tống, bình Ngô, triệt Hán, diệt Thanh của cha ông
ta nữa. Lý do:
Đảng cộng sản được thành lập từ 3-2-1930 với 7,
8 ủy viên tại Hồng Kông, nhưng đến năm 1941 đã chết sạch, ngoại trừ một mình Hồ
tùng Mậu đang thọ án chung thân khổ sai ở cao nguyên, và một Trinh đình Cửu...
mất tích, không một tin tức, không có một hoạt động nào đáng được ghi lại từ
sau ngày thành lập cho đến khi ông ta chết sau này. Bỗng dưng, vào cuối năm
1938, Trung cộng cho một nhân vật có tên là Hồ Quang mang quân hàm thiếu tá
trong Bát Lộ Quân của Chu Đức đóng ở Quế Lâm, Quảng Tây xuất hiện. Hồ Quang sau
này được gọi là Hồ Chí Minh, về VN lãnh đạo đảng và nhà nước VNDCCH từ
1940-1969. Hồ Quang là một cái tên nghe lạ tai, nhưng thật ra đây là một trong
số 169 cái tên gọi, bút hiệu, bút danh của HCM được nhà nước CSVN chính thức
công nhận và công bố. Theo bản công bố này, Hồ Quang có một sơ yếu lý lịch về
năm sinh, học vấn, hoàn toàn khác biệt với sơ yếu lý lịch của Nguyễn sinh Cung
(Nguyễn ái Quốc) Tài liêu ghi nhận: “ Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang tại Lớp huấn
luyện Nam Nhạc, thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang 38 tuổi- Phụ trách điện
đài - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo viên trường
Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc”. 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南岳培训班的简历。 胡光—电台员---38岁----广东----少校 ----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语.
Theo bản lý lịch chính thức này thì Hồ Quang
sinh năm 1901. Trong khi đó Nguyễn Sinh Cung sinh năm 1891. Thứ đến, Hồ Quang
có sở học và nơi chốn học tập hoàn toàn khác biệt với lý lịch của Nguyễn Sinh
Cung. Liệu việc giới thiệu Hồ Quang có phần lý lịch riêng trong danh sách 169
bí danh, bút hiệu của Hồ Chí Minh do nhà nước CSVN công bố, có dụng ý gì khác
thường chăng? Liệu sự kiện này có phải là một hình thức gián tiếp giới thiệu về
lý lịch thật của người mang tên HCM là chủ tịch đảng và nhà nước CSVN từ
1940-1969 hay không? Nếu không, thì nó mang một ẩn ý gì?
Trở lại chuyện của Hồ Quang. Từ sau khi xuất
hiện, Hồ Quang được Trung cộng hỗ trợ và đưa về Việt Nam, đến khoảng tháng
8-1942 đổi là Hồ Chí Minh, bị bắt ở Túc Vinh vì giấy tờ đã hết hạn? Sau khi ra
tù, Hồ Chí Minh trở lại Việt Nam và trở thành lãnh tụ của đảng cộng sản và chủ
tịch của nhà nước VNDCCH từ 1945. Nhưng mãi sau này, khoảng 1948-49, sau khi
biết chắc không còn một người Việt Nam nào hoạt động cùng thời kỳ trước 1930,
hay thân nhân nào biết rõ về tông tích diện mạo của Nguyễn Ái Quốc còn sống,
cũng như biết rõ, hồ sơ của y không thể bị tiết lộ từ phía cộng sản Liên Sô và
Trung cộng, Hồ Chí Minh mới từ từ úp mở cho người ngoài biết y là Nguyễn Ái
Quốc! Tuy nhiên, tất cả mọi hoạt động của Hồ Chí Minh và tập đoàn CS đều cúc
cung phụng vụ cho Tàu cộng và ra sức thực hiện chủ nghĩa vô tổ quốc tại nước
ta. Với chủ trương này, CS đã tuyên truyền và mở cuộc chiến tranh vào miền Nam
với chiêu bài giải phóng dân tộc. Nhưng thực tế là thực thi những sách lược do
Trung cộng đề ra như lời công bố của Lê Duẩn bí thư đảng cộng lúc bấy giờ là:“
cuộc chiến này là đánh đánh cho Trung quốc, đánh cho liên Sô” hay là “công việc
của chúng tôi là phụ thuộc vào Mao chủ Tịch” (Lê Duẫn,).
Mặt khác, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo cho Phạm Văn
Đồng, người đang giữ chức Thủ tướng của nhà nước VNDCCH ký công hàm công nhận
chủ quyền 12 hải lý thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trương Sa là thuộc Trung cộng
theo bản công bố chủ quyền trên vùng lãnh hải lãnh thổ do Chu Ân Lai trước đó
hai tuần lễ. Việc công nhận này đã gây ra một hậu quả nghiêm trọng cho chủ
quyền về biển đảo của Việt Nam hiện trực thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại
miền Nam quản lý theo Hiệp Định 1954. Nó cũng là nguyên cớ làm cho hình dạng
bản đồ địa lý của Việt Nam không ngừng thay đổi.
Trước tiên, về việc tranh chấp, định ước quốc tế
“Estoppels” quy định rằng “Trong một tranh chấp cụ thể, vào một thời
điểm nào đó, nếu một bên có thỏa thuận hay đồng ý ngầm, hoặc công nhận chủ
quyền của một bên khác đối với một vùng lãnh thổ đang tranh chấp, thì sự công
nhận hoặc đồng thuận đó có hiệu lực pháp lý.” Ai cũng biết, Trung cộng
đã từng mưu toan gây tranh chấp về chủ quyền biển đảo Hoàng Sa và Trường Sa với
Việt Nam sau đệ nhị thế chiến. Tuy nhiên, trong hội nghị San Francisco năm
1951, dù được Nga bảo trợ, Trung cộng đã hoàn toàn thất bại trong việc tranh
chấp chủ quyền với 3 phiếu thuận và 47 phiếu chống. Sau cuộc bỏ phiếu này,
trưởng phái đoàn và cũng là Thủ Tướng đương nhiệm chính quyền Việt Nam lúc bấy
giờ là Nguyễn Văn Hữu đã tái công bố chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Trường
Sa và Hoàng Sa. Lời công bố của TT Hữu không có bất cứ một đại biểu nào trong
51 phái đoàn được mời đến để tham dự Hội nghị này, kể cả Liên Sô và người đại
diện của Trung cộng lên tiếng bác bỏ. Theo nguyên tắc, chủ quyền của Việt Nam
đối với Hoàng Sa, Trường Sa là không thể có tranh cãi nữa. Tuy nhiên, Trung
cộng dường như chưa bao giờ từ bỏ cuồng vọng bành trướng, nên không muốn tuần
thủ những quy định mang tính quốc tế từ hội nghị này.
Theo đó, việc Phạm Văn Đồng ký công hàm công
nhận chủ quyền của Trung cộng theo công bố của Chu Ân Lai (1958) trên những
vùng lãnh hải, lãnh thổ này, dù không phải là đơn vị có trách nhiệm bảo vệ chủ
quyền này theo Hiệp Định Geneve 1954, đã đặt Việt Nam vào tình trạng có thể mất
Hoàng Sa, Trường Sa vào tay Trung cộng. Hoặc ít nhất, là VNDCCH tự cho mình
quyền đại diện cho Việt Nam để từ bỏ quyền chủ quyền thuộc vùng lãnh hải và
lãnh thổ này cho Trung cộng chiếm giữ theo định ước Estoppel. Bởi vì theo định
ước này diễn giải, “một khi bên nào đã đồng ý, hoặc đã công nhận chủ
quyền đang tranh cãi thuộc về phía bên kia thì sẽ không thể bác bỏ chủ quyền
của bên kia đối với vùng lãnh thổ đó sau này. Trái lại phải tôn trọng chủ quyền
của bên kia”. Lời giải thích này đã hoàn toàn đẩy VNDCCH và kế thừa của nó
là CHXHCNVN ra khỏi cuộc tranh chấp với Trung cộng về Hoàng Sa, Trường Sa. Hơn
thế, việc Phạm Văn Đồng còn làm Thủ tướng của nước Việt Nam thống nhất sau khi
họ xóa bỏ hiêp định Geneve và Paris để chiếm đóng miền Nam bằng bạo lực vào
ngày 30-4-1975, và không hề có bất cứ một lời nói, một văn thư nào đá động đến
việc tiếp quản chủ quyền trên Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam theo Hội Nghị
quốc tế San Francisco và Hiệp định Geneve 1954 làm cho Việt Nam mất dần tiếng
nói đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Đây là một sự im lặng tồi tệ, đáng nguyễn rủa
vì nó đã đồng lõa với nội dung bản công hàm mà chính y đã ký trước kia.
Tuy thế, không phải một mình Hồ Chí Minh, Phạm
Văn Đồng, Lê Duẫn, hay Trường Chinh theo đuổi chủ trương bán nước, thờ Tàu.
Trái lại, sau những kẻ mở đường này là đến Nguyễn Văn Linh, Lê Khả Phiêu, Đỗ
Mười, Nguyễn Mạnh Cầm, Lê Đức Anh, Phan Văn Khải... qua hai Hiệp định, Hiệp
thương biên giới vào 1999 và 2000 là 796 km2 đất giáp ranh biên giới với Trung
cộng thuộc các vùng Bản Giốc, Nam Quan, Lão Sơn, Tục Lãm và gần 3/4 diện tích
Vịnh Bắc bộ đã bị chúng ký bán cho Trung cộng với giá là 2,5 tỷ đô la như một
số tin tức rò rỉ và lan truyền trên báo chí. Từ đó, Việt Nam đã mất hẳn những
vũng đất này, và không ai còn được nhắc đến nữa! Nếu mai sau, có một thể chế
mới muốn tìm lại cái cọc mốc của biên giới đã được ký kết phân ranh giữa Việt
Nam với Mãn Thanh vào năm 1883 thì cũng chẳng còn tìm ra dấu tích nó nằm ở đâu
nữa. Tệ hơn, nếu cộng sản còn tồn tại trên phần đất này, không biết sau 5, 10
năm nữa con cháu ta phải học bài sử ký ghi chép ra sao? Bởi vì dưới thời của
những cái tên Mạnh, Kiệt, Dũng, Trọng, Sang, Hùng, Lưu, Luận, Hải... thì không
còn phần đất nào của Việt Nam thiếu dấu chân đi lại của quan cán Trung cộng, và
không biết là có bao nhiêu khu rừng, vùng biển hay những nơi gọi khu đặc cư,
những khu làng Tàu, cơ sở thương mai, kinh doanh cho riêng Tàu nhân, mọc lên
như nắm ở trên nước Việt. Trong lúc người dân Việt lầm than, lang thang không
có vài mét đất làm cái lều để sinh sống!
Có nước mắt nào của người Việt Nam không rơi
xuống trước thảm cảnh này không? Hỏi xem, tại sao cha ông ta trải qua hàng
nghìn năm trong những nỗi khó khăn tột cùng vẫn để lại cho con cháu được phần
di sản thiêng liêng to lớn như thế, mà nay con cháu sao mà tệ?
Tôi cho rằng, con cháu cũng chẵng tệ gì lắm. Tuy
nhiên, sau gần 70 năm bị bào mòn bởi bởi ý thức vô tổ quốc của CS, thế hệ lớn
thì vị tư kỷ thành ích kỷ, lớp trẻ thì không được giáo dục về lòng yêu quê
hương, yêu đồng bào một cách đứng đắn. Cộng với một cuộc tàn phá tôn giáo và luân
thường đạo lý do Việt cộng thực hiện, đã tạo ra một xã hội với những sinh hoạt
bát nháo, hỗn mang, đầy tính lọc lừa vô đạo, làm cho lòng người thêm chán nản,
mất niềm tin. Họ đành phải sống chụp giựt, buông xuôi, tư kỷ thành ích kỷ. Đã
thế, họ không được nhắc nhở, thấm nhuần giáo huấn của tiền nhân ta trong công
cuộc giữ nước và kiến quốc là nuôi lòng hy sinh vì đại nghĩa và dứt khoát tru
di những kẻ mãi quốc cầu vinh, mà nên nỗi!
1. Hy sinh vì đại nghĩa dân tộc
Phải nói ngay rằng, người dân như một thúng bột
tinh nguyên. Bột không có nước quyện vào, chỉ cần một cơn gió nhẹ lướt qua, bột
sẽ bay đi và vương vãi khắp nơi. Lòng hy sinh vì đại nghĩa của người dân cũng
thế. Nếu không được giáo dục về lòng yêu nước thương nòi một cách nhân bản,
nhân văn, đứng đắn theo lịch sử để gắn kết lại với nhau, chỉ cần những biến
động nhỏ, lòng người đã ly tán. Nhưng nếu lòng dân luôn được nhào nặn và nuôi
sống bằng tinh thần nhân bản, bằng ý thức tổ quốc thì nó luôn kết hợp với nhau,
dẫu có là giông bão, biến động, bột cũng không lìa khỏi thúng! Theo cách nhìn
này, lòng hy sinh vì đại nghĩa dân tộc trong lòng người Việt Nam lúc nào cũng
có và có đầy ắp. Đặc biệt, sẽ phát huy thành sức mạnh lớn để bảo vệ sự trường
tồn của quê hương. Nhưng xem ra là rất dửng dưng trước những tranh chấp của các
phe phái. Đó là điều rất đáng quý và cha ông ta đã biết cách chỉ tên kẻ thù,
biết cách biến lòng hy sinh này thành những ngọn sóng thần, vùi dập tất cả
những thế lực binh cường tướng mạnh từ Tống, Minh, Hán, Nguyên, Thanh khi chúng
xâm phạm bờ cõi Việt Nam.
Nay, không phải lòng hy sinh vì đại nghĩa của
dân ta không còn, nhưng một phần bị chính những kẻ bán nước cầu vinh triệt hạ.
Bị triệt hạ bằng những thủ đoạn đê hèn, hay bằng những ngôn từ lừa dối như tình
hữu nghị, láng giềng tốt khi đưa rước giặc vào nhà. Một phần vì người dân dửng
dưng, chán ngán với những ngôn từ của các đảng phái, hay của các nhóm đấu
tranh, đôi khi lạm dụng cả danh nghĩa của tôn giáo, làm người dân mất hướng,
không nhận diện được kẻ thù đích thực của dân tộc. Kết quả, người dân lui dần
vào cuộc sống tự kỷ, buộc phải lo cho mình hơn là cho việc bao đồng, bị lợi
dụng.
Về chuyện này ta không thể trách ai, nhìn lại
cuộc sinh hoạt tại miền nam trước khi mất nước, dẫu là trong lúc chiến tranh,
dân số không bao nhiều mà cũng có tới mấy chục đảng phái và tổ chúc đấu tranh
xuất hiện. Có người cho rằng, sở dĩ ta có nhiều đảng phái, tổ chức là vì “ ta”
không quen làm đảng... phó, hay phó thủ lãnh! Kết quả, người dân chẳng còn lỗi
tai nào để mà phân biệt đúng sai. Trống một nơi, chiêng một nẻo. Sang đến chế độ
cộng sản, lại là một nỗi kinh hoàng khác. Trăm lời nói, trăm việc làm không có
được lấy một điều thật, điều nhân nghĩa! Tất cả là giả dối, lưu manh phản trắc.
Duy chỉ có cái búa cái liềm của chúng là bằng sắt thép thật và cũng là thước đo
công lý! Từ đó, một tên tội đồ ác độc hạng nhất trong lịch sử, từng cho người
giết vợ, quăng xác ra đường giả làm tai nạn lưu thông, cũng có thể được chúng
biến thành một “cha già” dân tộc với đàn cao, hương án. Tệ hơn, chúng còn phỉ
báng tôn giáo bằng cách ép, đem cái đầu lâu của Y vào nhà chùa, vào đền miếu,
bày trò cúng bái để kiếm lấy phần sôi, phần bổng lộc! Với một cuộc sinh hoạt
bát nháo như thế mà gọi là “chính phủ” thì người dân không muốn lui vào trong
tự kỷ cũng không có đường chọn lựa khác!
2. Tru di những kẻ bán nước cầu vinh
Hình như cha ông chúng ta giỏi nhận ra chân
tướng của những kẻ bán nước cầu vinh và cũng dứt khoát với những thành phần này
hơn chúng ta. Điển hình là những trường hợp của Thống soái Ngô Vương Quyền trảm
Kiều Công Tiễn trước khi đóng cọc nhọn xuống Đằng Giang để tiêu diệt quân Hán,.
Hay tể tướng Lữ Gia, tập hợp gia nhân binh lực để khu trù Cù thị cứu nước. Rồi
những Trần Ích Tắc, Mạc Đăng Dung. Lê Chiêu Thống cũng chịu chung một số phận.
Trong khi đó, xem ra trong chúng ta lại không thể phân biệt được giả chân. Kẻ
tội đồ của dân tộc được phe đảng của chúng đắp tượng đưa vào chùa để kiếm phần
sôi, phần bổng lộc đã đành, nhưng phe “ta” lại có những kẻ tự cho mình là trí
thức, có những mảnh bằng to hơn bàn tay. Hoặc giả, là lãnh tụ đảng phái, đoàn
thể hay tôn giáo. Lúc trước khi chưa mất miền nam thì phá rối, thông đồng với
giặc bằng cách này hay cách khác để đấu với tranh, bức tử Đệ Nhất Cộng Hòa, để
đưa đến cái chết của Tự Do vào ngày 30-4-1975. Sau đó người thì bị cộng sản rọ
miệng, kẻ ra hải ngoại, khi ra ngoài, tưởng họ làm được những điều hữu ích cho
dân, lên tiếng vạch ra những tội ác của chúng để cho người dân nhận diện ra kẻ
bán nước cầu vinh. Không ngờ, lại vì cái bả hay mộng vinh hoa hay sợ người đời
quên mất tên mình, nên phải làm sớ, làm kiến nghị “dâng kế” cho cộng sản với
ngôn ngữ giả tạo “ dâng kế sách cho CS thực hiện để cho dân mình bớt khổ”. Hỡi
ơi cái đầu gối! Nếu CS muốn dùng những lương sách để làm cho dân bớt khổ đau
thì chúng đã làm từ lâu rồi, cần gì đến cái bản kiến nghị nhố nhăng ấy!
Khi viết ra những lời này, tôi thực lòng, không
chỉ trích, hay bóng gió một ai (nếu ai cảm thấy bị xúc phạm, tôi thành thật xin
lỗi trước). Tôi chỉ muốn dẫn chứng một điều. Chúng ta vẫn chưa nhìn ra được kẻ
thù của dân tộc là ai. Trái lại, chỉ loanh quanh, nay bảo là gia đình trị họ
Ngô. Mai lại bảo, khéo là ông... Thiệu, hoặc giả, là Hồ Chí Minh và tập đoàn
CS. Một khi, chúng ta chưa đồng nhất chỉ ra được kẻ thù của dân tộc là ai, ở
đâu, người dân Việt Nam cũng chưa thể có đối sách, chưa thể có hướng đi, chưa
thể có hành động để thoát ra khỏi con đường vòng quanh, tăm tối ấy. Theo đó,
tôi cho rằng, nếu muốn tìm ra con đường, tìm ra phương thức hành động thích ứng
cho Việt Nam, tất cả mọi người, không trừ ai, phải nhận diện được kẻ thù của
dân tộc là ai, ở đâu. Khi chúng ta đã nhận diện được kẻ thù của dân tộc thì kế
sách vẹn toàn của cha ông ta đã có sẵn, cứ thế mà thi hành để cưu quốc và kiến
quốc. Chuyện mười năm không thành thì hai, ba mươi năm phải thành..
3. Hồ chí Minh là ai? Y có phải là kẻ tội đồ
đã mở đường cho Tàu vào xâm lấn nước ta và gây ra cảnh cùng khốn cho dân ta hôm
nay không?
Như ở phần trên tôi đã viết. Hồ Quang là một cái
tên khác của Hồ Chí Minh với lý lịch như sau): “Sơ yếu lý lịch của Hồ Quang tại
Lớp huấn luyện Nam Nhạc /thuộc tỉnh Hồ Nam. Năm 1939. Hồ Quang 38 tuổi- Phụ
trách điện đài - Quảng Đông - Thiếu tá - tốt nghiệp Đại học Lĩnh Nam – Giáo
viên trường Trung học. Biết ngoại ngữ, quốc ngữ. Nguồn: Lưu trữ Trung Quốc”. 胡光(即胡志明主席)1939年在湖南省南岳培训班的简历。 胡光—电台员---38岁----广东----少校----毕业于岭南大学------中学教师。会外语和国语.
Trong khi đó, Nguyễn Sinh Cung, cũng gọi là
Nguyễn Tất Thành, người làng Kim Liên, Nam Đàn, sinh năm 1891. Theo tài liệu
của sở mật thám Pháp thì Nguyễn Sinh Cung đã chết vào năm 1933 vì bệnh lao
phổi. Nay theo ông Phạm Quế Dương cho biết, Nguyễn Ái Quốc, đã chết vì bệnh lao
tại Hồng Kông với những phần ghi chú như sau: “Tác giả Hùynh Tâm cũng
là người Trung quốc (trong tập tài liệu dầy 141 trang) xác định Hồ chí Minh là
Hồ tập Chương. Tài liệu viết: Theo hồ sơ của nhà tù Hương Cảng, Nguyễn Tất
Thành đang lâm nguy bởi nhiều bệnh do trác táng, say đắm phong trần làm cơ thể
hao mòn, mang bệnh truyền nhiễm cấp độ cao hết thuốc trị liệu... Năm 1832
Nguyễn Tất Thành qua đời tại nhà tù Hương Cảng, hưởng dương 40 tuổi (1892-1932).
Người thân (tên Hồ Vinh - Nguyễn Vinh) đến nhận xác và tất cả vật dụng cá nhân
của tử tù và đem đi hỏa táng. Tro cốt của Nguyễn Tất Thành mà số 00567, lưu trữ
tại nghĩa trang Kuntsevew Moscow Russian... Tài liệu này được lưu trữ tại nhà
tù Hương Cảng”.
Dĩ nhiên là chúng ta không hoàn toàn tin vào tài
liệu này. Bởi vì khi “họ” cho ám số về tro cốt, chúng ta yêu cầu xét
nghiệm tro cốt này bằng DNA thì có thể vấp ngã lớn vì có thể bị lừa. (bởi vì nó
sẽ không trùng khớp với Nguyễn Sinh Khiêm). Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng không
thể có cách chứng minh Y là Hồ Quang và cũng là Nguyễn Sinh Cung. Bởi lẽ hai
người có hai bản sơ yếu lý lịch hoàn toàn khác nhau. Tôi không thể đồng ý với ý
kiến lập luận rằng, Hồ Quang chỉ là một tên gọi khác của Hồ Chí Minh như hằng
trăm tên khác do nhà nước CSVN sưu tầm và công bố, có gì là không đúng, có gì
cần thắc mắc”. Có, nó có chỗ không đúng và có chỗ đáng thắc mắc. Bởi vì trong
tất cả 169 cái tên kia không một cái tên nào có lý lịch riêng. Đó thuần tuý là
bút hiệu, bút danh hay tên gọi có thể là của một người (hoặc nhiều người bị
tước đoạt và được gán cho Hồ Chí Minh) Riêng cái tên Hồ Quang có sự khác biệt.
Đó là một nhân sự có sơ yếu lý lịch riêng, có quân hàm có đơn vị, có địa bàn
hoạt động trong hàng ngũ bộ đội của Trung cộng. Nó hoàn toàn không phải là một
bí danh. Nhưng là một người khác. Trường hợp cho rằng vì phải dấu thân phận
trong cuộc vận động chính trị cũng khó chấp nhận. Bởi lẽ, nếu cần dấu thân phận
thì chỉ cần một cái tên, cấp bậc là đủ, không càn phải có sơ yếu lý lịch, sở
học, nghề nghiệp, nơi sinh hoạt một cách rõ ràng công khai hóa như thế. Nếu cho
đó là một cái sơ yêu lý lịch giả thì bản thân của Hồ Chí Minh cũng là giả nốt.
Chẳng có gì là sự thật. Và y có thể là người Tàu giả làm người Việt Nam?
Ngoài ra, cũng theo tài liệu này do ông Phạm Quế
Dương ghi lại: “cũng có ghi chú về gia phả và sự nghiệp của Hồ Tập Chương trong
hồ sơ HTC4567 lưu trữ tại quân ủy trung ương (CPC) và tình báo Hoa Nam Trung
quốc như sau: “Đương sự được đảng cộng sản trung quốc huấn luyện hơn
một thập niên tại Học viện Hoàng Phố, Vân Nam... Kết quả, Trung quốc dốc hết
nhân lực, tài khí tài vật lập ra một thế lực mới tại Việt Nam và tình báo Hoa
Nam thổi lên một Hồ chí Minh làm chủ tịch nước VNDCCH”. Cùng nguyên
tắc, chúng ta không hoàn tin và bám vào những tài liệu này làm chứng cứ. Nhưng
chỉ tin vào một điều chắc chắn là, dù là Hồ Tập Chương hay là Nguyễn Ái Quốc,
Hồ Quang khi làm lãnh tụ đảng cộng sản và là chủ tịch nước VNDCCH đã là một mối
đại họa cho Việt Nam. Đối nội thì y thủ tiêu những nhà ái quốc Việt Nam, và tàn
sát dân chúng qua những cuộc đấu tố, mở rộng chiến tranh vào miền Nam. Rồi tạo
nên một xã hội không còn luân thường đạo lý. Đối ngoại thì liên hệ với kẻ thù
của dân tộc. Bán đất dâng đảo cho chúng để nắm lấy công quyền. Chỉ bấy nhiêu,
cũng đủ để y được liệt kê vào thành phần thủ lãnh của Kiều Công Tiễn, Cù Thị,
Trần Ích tắc, Lê Chiêu Thống, Mạc Đăng Dung... Đối với thành phần này, di chiếu
của tiền nhân ta còn đây. Muốn cứu quốc và kiến quốc thì phải dứt khoát tru di
những kẻ bán nước cầu vinh. Ngoài ra không có một phương cách nào khác.
4. Làm gì để cứu non sông đây?
Một điều cần khẳng định là, dù Hồ Quang là người
Tàu hay là người Việt thì y vẫn là một thiếu tá trong đội quân của CS Trung
cộng trước khi xâm nhập vào hệ thống CSVN với chủ đích lũng đoạn và tìm cách
đưa Việt Nam vào làm chư hầu cho Trung cộng. Âm mưu này đã đuợc cộng sản Trung
cộng che chắn và bảo vệ cẩn thận suồt thời kỳ 1940-1969 và sau đó. Tuy nhiên,
bộ mặt thật và những việc y làm lợi cho Trung cộng đã lộ diện. Người Việt Nam
không nên nghi ngờ gì về trường hợp của Hồ Chí Minh nữa. Trái lại, phải dứt
khoát đi thôi!
Trong tay chúng ta không có một tấc sắt thì làm được
cái gì?
Hãy làm một công việc bé nhỏ nhất. Mọi người
cùng tham gia phát động phong trào nói lên sự thật. Nghĩa là, người người bảo
nhau, người biết nói cho người không biết. Người già nói cho trẻ cùng nghe là
Hồ Chí Minh và đảng CS đã dẫn Tàu cộng vào chiếm nước ta. Rồi nhà nhà giáo
huấn, trao đổi và bảo nhau về việc Tàu cộng đang xâm chiếm nước ta. Đồng thời
nhắc nhở cho nhau về ý chí tru diệt kẻ xâm lăng và những kẻ mãi quốc càu vinh
của cha ông ta. Ý chí này nếu hôm nay chưa thực hiện được thì ngày mai cũng sẽ.
Đừng sợ hãi, đừng e dè. Ngày nay không còn là thời con cái trong nhà đi tố cha
mẹ anh em mình. Không phải là lúc hàng xóm láng giềng, bạn bè tố cáo chúng ta
về những lời nói này với công an, với cán bộ nhà nước để kiếm sống. Dẫu có cũng
chẳng hệ gì. CS có thể bắt được trăm người, thậm chí, vài ngàn người, nhưng
không thể bắt hàng triệu triệu người. Như thế, tuyên ngôn sự thật sẽ được
truyền đến mọi người, mọi nhà, mọi chân trời góc bể. Kẻ xâm lược nhất định
thua, kẻ bán nước nhất định sẽ bị tru diệt.
Hỡi những người đã từng được gọi là anh hùng
vượt biển đông. Những người đã đạp trên cái chết mà đi sau 30-4-1975, những
người đã làm cho cả thế giới xúc động và ngưỡng mộ vì lòng can đảm khi vượt
biển trên chiếc thuyền mong manh. Nay, nếu cần về Việt Nam thì cứ về. Chỉ xin
quý vị về với 1/100 lòng can đảm của lúc ra đi. Hãy về và nói cho thân nhân và
người quen biết sự thật là Hồ Chí Minh, và cộng sản đã đưa Tàu cộng vào chiếm
nước ta. Hãy nói cho bà con của mình nghe về nhân quyền của con ngưòi đích thực
là như thế nào. Đừng hèn nhát, đừng cúi đầu như một kẻ tội phạm, đừng dùng năm
ba đồng để bán rẻ cái nhân phẩm của mình khi đút lót cho nhân viên trong các
trạm kiểm soát từ phi trường. Đừng dùng năm ba đồng, vài chai bia, lon nước cho
cán bộ khu vực để được nghênh ngang nơi minh về thăm. Bởi vì, nào có phải là ta
“áo gấm về làng” đâu? Ta về đây là về vì tình ruột thịt với thân nhân, với dân
làng, với nước non. Là chia xẻ nỗi bất hạnh với đất nước. Như thế, có gì đáng
để khoa trương Việt kiều? Mà chúng ta cũng có phải là Việt kiều đâu? Chúng ta
là người tỵ nạn chính trị cộng sản đấy. Ta có phải là người của chế độ đưa đi
sinh sống tại nước ngoài và chấp nhận quyền lãnh đạo của họ đâu? Trái lại, ta
đi vì Tự Do khi quê hương ta gặp đại nạn cộng sản. Nên khi về, xin hãy về bằng
khí phách, bằng ý chí mãnh liệt “đem nhân nghĩa thắng hung tàn” đem sự thật về
góp phần vào việc cứu non sông. Có thế sự ra đi của chúng ta mới có ý nghĩa.
Chỉ nói bấy nhiêu thôi ư?
Vâng, chỉ bấy nhiêu thôi, ta chỉ cần làm công
việc nhỏ bé thôi. Việc tuy nhỏ, nhưng xem ra lại là con đường duy nhất để chúng
ta cứu lấy non sông và dân tộc trong giai đoạn này. Bởi vì, khi có được 70% dân
số nước ta biết rõ bộ mặt Tầu của Hồ Chí Minh, biết rõ bộ mặt thật của
cộng sản là tập đoàn bán nước cầu vinh như Lê Chiêu Thống, Cù Thị, Kiều Công
Tiễn... thì cơn hồng thủy tru di kẻ bán nước lập tức nổi lên và người Việt Nam
yêu quê hương, trọng nhân bản sẽ đứng cao trên đỉnh chiến thắng vinh quang. Kẻ
bán nước sẽ bị triệt tiêu. Đó chính là cái nghĩa của con đường tay không tấc
sắt chống bạo tàn. Đường đi có thể dài năm năm, mười năm hay hơn nữa, nhưng
chắc chắn sẽ tới, chắc chắn chúng ta sẽ chiến thắng và ý chí của tiền nhân sẽ
được thực hiện. Trái lại, sự giữ yên lặng của chúng ta, cuộc đi về bằng sự hèn
nhát sẽ là những hành động đồng lõa với những kẻ bán nước cầu vinh, và dâng đất
nước của tiền nhân vào tay Tàu cộng.
Tháng 7-2014
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment