Hà Nội tuyên truyền nhằm
giảm tội bán nước của công hàm Phạm Văn Đồng
N.Khanh - SBTN
Hà Nội dùng
cựu phi công đào binh tuyên truyền,
nhằm giảm tội lỗi bán nước của công hàm Phạm Văn Đồng |
Hà Nội dùng cựu
phi công đào binh Nguyễn Thành Trung để tuyên truyền, nhằm giảm nhẹ tội lỗi bán
nước của công hàm Phạm Văn Đồng
Trong chiến dịch
tuyên truyền, nhằm giảm nhẹ tội lỗi cho Phạm Văn Đồng, cũng như của Đảng CSVN
qua công văn bán biển năm 1958 cho Trung Cộng, ngày 6 tháng 7, Ban tuyên giáo
CSVN đã cho tung ra một luận điệu mới, từ cựu phi công đào binh Nguyễn Thành
Trung, cho rằng lỗi để mất đảo Hoàng Sa là do tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã
không dứt khoát tập trung binh lực đánh chiếm trở lại.
Trước năm 1975,
Nguyễn Thành Trung là phi công chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng Hoà, tuy
nhiên, gần đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi thấy miền Nam có thể rơi vào tay
chế độ Cộng sản Bắc Việt, Trung đã phản bội và dùng chiếc máy bay F5e để ném
bom vào Dinh Độc Lập, sau đó bay ra vùng kiểm soát của Cộng sản Bắc Việt, hướng
dẫn các phi công Cộng Sản tấn công Sài Gòn.
Sau năm 1975, dù
có công trạng rất lớn, Nguyễn Thành Trung vẫn không được Hà Nội tin dùng, và
cuối cùng, bị chuyển sang lĩnh vực hàng không dân sự. Hiện tại Trung là phi
công được một nhà kinh doanh lớn trong nước thuê lái máy bay riêng. Nhiều năm
nay, Trung đành chấp nhận việc không thể leo cao hơn nữa trong hệ thống cầm
quyền CSVN.
Mới đây, để sử
dụng lại gương mặt hàng binh này vào việc rửa nhục giúp cho công văn Phạm Văn
Đồng, ban tuyên giáo Trung ương CSVN đã tổ chức cho Nguyễn Thành Trung trả lời
một bài phỏng vấn, trong đó nội dung được chỉ định là Trung phải lên tiếng đổ lỗi
việc mất đảo Hoàng Sa là do sự thiếu quyết tâm tái chiếm của tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu.
Tuyên bố với báo chí, Nguyễn Thành Trung nói rằng “Tôi cho rằng tổng thống Thiệu bị phía Mỹ ép phải hủy kế hoạch không kích. Lúc đó Mỹ đã có quan hệ với Trung Quốc. Và tổng thống Thiệu vì sợ mất ghế nên không dám làm trái ý Mỹ” – ông Trung nhận định, và làm ra vẻ ngậm ngùi: “Nếu tổng thống Thiệu cứng hơn chút nữa, Hoàng Sa có lẽ đã không mất. Một quyết định sai lầm hôm nay sẽ trở thành gánh nặng cho con cháu mai sau”.
Nhưng sự thật lịch
sử lúc đó, ai cũng biết rằng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đang phải chỉ huy cuộc
chiến khốc liệt từ phía Bắc Việt đánh vào, nay Trung Cộng mở thêm mặt trận trên
biển, quân lực Việt Nam Cộng Hoà không thể cáng đáng nổi 2 mặt trận cùng một
lúc, trong khi phải ra sức chiến đấu để bảo vệ cho dân chúng chạy CS trên đất
liền.
Hôm nay, toàn dân
Việt Nam đều biết chuyện công hàm Phạm Văn Đồng đã chính thức bán nước như thế
nào cho Đảng CS Trung Quốc đàn anh, thêm vào một tiếng nói chạy tội của Nguyễn
Thành Trung, chỉ càng làm cho dân chúng hiểu thêm sự sợ hãi của chế độ CSVN
trước tội lỗi ghê tởm này. (N. Khanh)
nguồn: http://www.sbtn.tv
Công hàm Phạm Văn Đồng,
món nợ khó gỡ
Công hàm 1958 của
Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng.
Thanh Phương
Công hàm Phạm Văn
Đồng giống như một tờ giấy nợ, vì không được ghi rõ ràng, cho nên đến nay vẫn
gây rắc rối cho Việt Nam trong cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc giành chủ
quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tại cuộc họp báo
quốc tế ngày 23/05/2014, vào lúc khủng hoảng Biển Đông đang dâng cao do vụ giàn
khoan Hải Dương 981, Bộ Ngoại giao Việt Nam lần đầu tiên đã chính thức tuyên bố
rằng công thư ( công hàm ) Phạm Văn Đồng năm 1958 “ không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường
Sa”. Trong cuộc họp báo đó, ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban
Biên giới, Bộ Ngoại giao Việt Nam lập luận: “Việt
Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng
Sa, Trường Sa, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường
Sa. Giá trị công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể. Công thư gửi Trung Quốc
lúc đó Hoàng Sa và Trường Sa đang thuộc quản lý của Việt Nam Cộng Hòa, Trung
Quốc chỉ là một bên tham gia. Không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có
được”.
Nhưng công hàm
Phạm Văn Đồng giống như một tờ giấy nợ, vì không được ghi rõ ràng, cho nên đến
nay vẫn gây rắc rối cho Việt Nam trong cuộc chiến pháp lý với Trung Quốc giành
chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Trước hết, hãy trở
ngược lịch sử : Ngày 4/9/1958, Thủ tướng Chu Ân Lai đã tuyên bố với quốc tế
quyết định của chính phủ Trung Quốc về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của
Trung Quốc và các đảo ngoài khơi, bao gồm hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức
quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam). Sau đó, ngày 14/9/1958, Thủ tướng
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng đã gởi cho thủ tướng Chu Ân Lai bức
công hàm ghi rõ: “Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành” tuyên bố nói
trên của chính phủ Trung Quốc và “sẽ
chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12
hải lý của Trung Quốc”.
Trong thời gian
qua, các lãnh đạo, quan chức Nhà nước và báo chí chính thức của Việt Nam đã
liên tiếp đưa ra những tuyên bố và đăng những bài viết để chứng minh rằng công
hàm nói trên của Phạm Văn Đồng chẳng có giá trị gì. Trong cuộc gặp gỡ với cử
tri ở Sài Gòn ngày 26/06, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã tuyên bố: “ Ông Phạm Văn Đồng không bao giờ
nói Hoàng Sa là của Trung Quốc”. Nhưng lập luận của ông Sang thì
rối rắm vô cùng, theo như tường thuật của tờ VietnamNet: “Tôi đọc kỹ từng chữ, cụ Phạm Văn
Đồng nói xung quanh công nhận 12 hải lý. Lúc bấy giờ, lãnh hải có 3 hải lý
thôi.
Thế giới cũng bàn luận từ năm đó đến năm 1982. Lúc đó, tư duy của các cụ
mình cũng theo tư duy số đông của thế giới, tức là người ta muốn quốc gia có
biển là lãnh hải phải 12 hải lý thì mình thừa nhận 12 hải lý đó”.
Cũng theo chiều
hướng “hóa giải” di sản công hàm Phạm Văn Đồng, tờ Tiền Phong từ ngày 09/07 vừa
qua đã đăng trên mạng một loạt bài nhắc lại những dữ liệu lịch sử để chứng minh
rằng từ năm 1954 sau hiệp định Genève cho đến năm 1975, chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa, mà trước đây từng bị xem là “chính phủ bù nhìn của Mỹ”, là “ngụy quyền”,
đã liên tục thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nhưng phía Trung
Quốc trong thời gian qua vẫn tiếp tục viện dẫn công hàm Phạm Văn Đồng để chứng
minh rằng Việt Nam đã mặc nhiên công nhận chủ quyền của Bắc Kinh trên Hoàng Sa
và Trường Sa.
Gần đây nhất, Lý Kiến Vĩ, một học giả Trung Quốc, trong một bài
đề ngày 24/06/2014, viết cho Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam,
Singapore, khi lập luận về chủ quyền của Bắc Kinh trên quần đảo Hoàng Sa, đã đề
cập đến công hàm Phạm Văn Đông. Bà Lý Kiến Vĩ, cũng Giám đốc Trung tâm Nghiên
cứu Kinh tế Biển, Viện Quốc gia Nghiên cứu Biển Đông của Trung Quốc, có nhắc
đến một chi tiết đó là trong cuộc gặp vào năm 1977 với Phó Thủ tướng lúc đó là
Lý Tiên Niệm, ông Phạm Văn Đồng có nói rõ : «
Nên hiểu các tuyên bố của chúng ta, kể cả tuyên bố trong công hàm của tôi gửi Thủ
tướng Chu Ân Lai, như thế nào? Nên hiểu nó trong bối cảnh lịch sử của thời đại.
Trong cuộc kháng chiến, tất nhiên chúng tôi phải đặt việc chiến đấu chống đế
quốc Mỹ lên trên tất cả mọi thứ khác”.
Học giả Lý Kiến Vĩ
viết rằng : "Rõ
ràng là ông Đồng đã công nhận mục đích của tuyên bố của ông về chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng lại đòi Trung Quốc hiểu nó trong bối
cảnh lịch sử . Lập luận này đi ngược với nguyên tắc quốc tế “estoppels”, theo
đó: Trong một tranh chấp cụ thể, tại một thời điểm nào đó, nếu một bên có thỏa
thuận/ nhất trí ngầm, hoặc công nhận chủ quyền của một bên khác đối với một
vùng lãnh thổ đang tranh chấp, thì sự công nhận hoặc nhất trí đó có hiệu lực
pháp lý".
Nhưng công hàm
Phạm Văn Đồng không chỉ là chủ đề tranh cãi giữa các học giả hay của những
tuyên bố qua lại của lãnh đạo hai nước mà nay đã trở thành vấn đề pháp lý quốc
tế, bởi vì Bắc Kinh đã sử dụng công hàm này như là một trong những luận cứ để
khẳng định chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa trong các văn bản của Đại biện
Phái đoàn đại diện thường trực Trung Quốc gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc ngày
22/05 và 09/06 liên quan đến vụ giàn khoan Hải Dương 981.
Ngày 03/07 vừa
qua, đại sứ Lê Hoài Trung, trưởng phái đoàn Việt Nam tại LHQ lại phải đề nghị
Tổng thư ký Ban Ki Moon cho lưu hai văn bản nêu lập trường của Việt Nam về vụ
giàn khoan Hải Dương 981 để bác bỏ hai văn bản nói trên, tố cáo Bắc Kinh « cố
tình xuyên tạc » công thư Phạm Văn Đồng.
Phái đoàn Việt Nam
khẳng định, « những kết
luận mà Trung Quốc đưa ra hiện nay đang mâu thuẫn với chính các phát biểu của
Trung Quốc, trong đó có phát biểu của chính nhà lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu
Bình. ». Họ nhắc lại rằng vào tháng 9 năm 1975, tức là 17 năm sau
công thư Phạm Văn Đồng , Đặng Tiểu Bình đã nói với Lê Duẩn tại Bắc Kinh rằng “với nguyên tắc thông qua Hiệp
thương hữu nghị để giải quyết bất đồng, sau này hai nước sẽ bàn bạc giải
quyết”. Theo phía Việt Nam, Bị vong lục của Bộ Ngoại giao Trung
Quốc ngày 12 tháng 5 năm 1988 đã ghi nhận rõ ràng nội dung phát biểu này của
Đặng Tiểu Bình.
Cứ như thế, mỗi
lần đưa ra lập luận phản bác nhau, hai bên lại tiết lộ thêm những chi tiết mới
liên quan đến công hàm Phạm Văn Đồng và những chi tiết này phản ánh mối quan hệ
nhập nhằng giữa lãnh đạo hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc từ thời chiến
tranh cho đến thời hoà bình.
Trước tình hình
này, tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã và cũng là người đã dành nhiều năm nghiên cứu về
Hoàng Sa-Trường Sa, chủ trương rằng chính phủ Việt Nam phải nhanh chóng giải
quyết vấn đề tâm lý và chính trị về công hàm Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Sau đây
mời quý vị nghe phần phỏng vấn tiến sĩ Nguyễn Nhã từ Sài Gòn:
http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20140714-cong-ham-pham-van-dong-mon-no-kho-go
|
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment