40 năm sao mãi xa nhau?
Phạm Trần
(Danlambao) -
Câu hỏi hàng đầu trong mỗi người Việt Nam ở hai đầu chiến tuyến sau 40 năm kết
thúc chiến tranh ngày 30 tháng 04 năm 1975 là tại sao dân tộc Việt Nam vẫn chia
rẽ để đất nước tiếp tục suy yếu trước đe dọa xâm lược của láng giềng Trung
Quốc?
Sau đây là những lý do căn cứ vào những việc
đã xảy ra:
Thứ nhất, đảng cầm quyền duy nhất Cộng sản Việt Nam không chịu chia chác
quyền lực với ai và không chấp nhận “đa nguyên đa đảng”.
Các nhà tư tưởng của Đảng tiếp tục lý luận cối
chày rằng: “Tính tất yếu cầm quyền của Đảng ta như là một vấn đề có
tính quy luật - quy luật vận động của thời đại và xã hội nước ta, nhu cầu về tư
tưởng, tình cảm của nhân dân ta, trực tiếp là sự phát triển của giai cấp công
nhân, của phong trào yêu nước cách mạng và được thể hiện qua hoạt động của Đảng
ta trong 85 năm qua.” (Trích ý kiến từ Hội thảo “Nâng cao vị thế, vai
trò và trách nhiệm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay” tại Quảng
Ninh ngày 28/01/2015).
Nhưng “tất yếu” và “quy luật” nào hay toàn
chuyện đảng vẽ ra để tự biên tự diễn, tiếm quyền và khoác vào mình “chiếc áo
tình cảm của nhân dân” để xỏ mũi dân kéo đi vì giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, từ sau “Cách mạng tháng Tám 1945” có được chia cho miếng đỉnh chung
nào đâu?
Thứ hai, quyền làm chủ đất nước của dân đã bị tước bỏ để tuyên truyền
cho chế độ qua các cuộc bỏ phiếu giả tạo “đảng cử dân bầu”, dù vẫn phải nghe
tuyên truyền khống rằng “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân,
do dân và vì dân”.
Thứ ba, đất nước Độc lập rồi mà Tự do thì không, ngược với lời nguyền “không
gì quý hơn độc lập, tự do” của ông Hồ Chí Minh, người lập ra đảng CSVN
cách nay 85 năm (03/02/1930-03/02/2015)
Thứ tư, đảng tiếp tục lấy chủ nghĩa phá sản Cộng sản Mác-Lênin và tư
tưởng độc tài Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động đi ngược lại trào
lưu tiến bộ của nhân loại để tiếp tục làm cho dân nghèo, nước mạt.
Thứ năm, quyền lợi của dân bị trắng trợn xâm hại bởi cán bộ, đảng viên
mất phẩm chất đã được các cấp có chức có quyền bao che để thỏa mãn quyền lợi
phe nhóm tạo thành mạng lưới tham nhũng để bóc lột nông dân và công nhân - hai
lực lượng nồng cốt đã giúp đảng Cộng sản lên cầm quyền. Những vụ cán bộ bầy mưu
chiếm đất, lấy ruộng của dân trong nhiều dự án đô thị, kinh tế, làm đường để
bán lấy tiền bỏ túi và chia chác cho các nhóm lợi ích từ mấy năm qua là nguyên
nhân của những vụ khiếu kiện đông người mỗi ngày một nhiều.
Thứ sáu, việc đảng tiếp tục độc quyền kiểm soát và điều hành nền kinh
tế quốc gia dựa trên lý thuyết viển vông “kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa” mà thực chất chỉ làm thuê cho nước ngoài đã
đưa kinh tế lệ thuộc vào Trung Quốc là chính.
Bằng chứng từ các thống kê chính thức của Việt
Nam cho thấy hàng hóa nhập siêu từ Trung Quốc đã lên đến 23,7 tỉ USD.
Báo Thanh Niên ngày 14/05/2014 viết: “Điều
đáng nói là, với cơ cấu nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc về gia công và xuất
khẩu, chúng ta thực ra đang xuất khẩu giùm nước này và phần giá trị gia tăng
được hưởng rất ít ỏi. Theo Tổng cục Hải quan, cả năm 2013, Việt Nam xuất khẩu
17,95 tỉ USD hàng dệt may, nhưng phải nhập tới 14,81 tỉ USD, trong đó nhập khẩu
của Trung Quốc 5,56 tỉ USD. Công thức là, Việt Nam nhập nguyên liệu của Trung
Quốc về gia công và xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ, EU (European Union -Liên
hiệp Châu Âu). Ở hoàn cảnh tương tự là điện thoại các loại và linh kiện, Việt
Nam xuất được 21,24 tỉ USD cả năm 2013 nhưng phải nhập khẩu 8 tỉ USD, riêng
Trung Quốc gần 5,7 tỉ USD...
Không chỉ bán hàng hộ,
chúng ta còn tiêu thụ công nghệ cho các doanh nghiệp Trung Quốc. Năm 2013, Việt
Nam nhập từ Trung Quốc tới 36,8 tỉ USD, chiếm tới 28% tổng kim ngạch nhập khẩu
chủ yếu là tư liệu sản xuất, máy móc, phụ tùng, nguyên vật liệu… Riêng 3 tháng
đầu năm, nhóm hàng này nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam với tổng trị giá là
1,58 tỉ USD, tăng 29,7%.”
Đó là lý do tại sao nhà nước cứ “tái cơ cấu”
mãi mà kinh tế vẫn lệ thuộc vào nước ngoài.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã nhìn nhận: “Mấy
năm qua, tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào tăng vốn đầu tư, sử dụng nhiều
tài nguyên và lao động với năng suất, chất lượng thấp… ảnh hưởng không tốt tới
sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Lĩnh vực đầu tư công
nhìn chung hiệu quả vẫn còn thấp, cơ sở hạ tầng mặc dù đã khá lên hơn rất nhiều
nhưng vẫn còn kém so với các nước tiên tiến trong khu vực.
Sức cạnh tranh của
Việt Nam sẽ khó cải thiện nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng tỷ trọng gia công
lớn trong nền kinh tế, sử dụng công nghệ trung bình và thấp, lao động không
lành nghề và năng suất thấp... và không nhanh chóng đổi mới mô hình tăng
trưởng.
Cũng cần nhấn mạnh đến
những khó khăn trước mắt của ta trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng như nợ xấu,
nợ công cao, bội chi lớn ngân sách nhà nước còn lớn, các nhà sản xuất kinh
doanh trong nước còn nhiều khó khăn…, trong phát triển giáo dục, khoa học công
nghệ, những hạn chế trong quản lý nhà nước của các cơ quan Trung ương và địa
phương...” (Phỏng vấn của TTXVN
(Thông tấn xã Việt Nam)/03/02/2015).
Vì vậy đến cuối năm 2014, tính bình quân mỗi
người dân Việt Nam trong dân số trên 91 triệu người phải gánh nợ trên 937
Dollars.
Nợ xấu là món tiền vay Ngân hàng không trả nổi
của các cơ sở thương mại và xí nghiệp, trong đó đáng kể là các Doanh nghiệp Nhà
nước. Tính đến cuối năm 2014, nợ xấu của Việt Nam được ước tính là 240.000 tỷ
đồng,.
Do đó khi nền kinh tế do Doanh nghiệp Nhà nước
đóng vai chủ quản và Chính phủ quản lý xấu như thế thì dân đen phải lao động
muôn năm cho tham nhũng xơi và tình trạng giàu nghèo giữa thành phố và nông
thôn càng căng ra và sâu thêm.
Vậy nợ xấu ở đâu mọc ra? Báo Diễn đàn Đầu tư
đã dựa vào lời một chuyên gia không nêu tên nói rằng: “Bản chất của nợ
xấu ở các ngân hàng Việt Nam được chia thành 3 nhóm: nợ doanh nghiệp Nhà nước,
nợ liên quan đến bất động sản và nợ liên quan đến lợi ích nhóm. Trong 3 nhóm
này đều có nợ xấu liên quan đến sở hữu chéo, bởi vậy, các ngân hàng không dám
đưa ra phán quyết đối với những công ty con của mình, lợi ích nhóm. Do vậy, các
ngân hàng không muốn xử lý vì điều đó có khác gì tự chặt chân, chặt tay của
mình.”
“Để giải quyết được nợ
xấu cần phải công khai, nếu không, giải pháp VAMC (Công ty Quản lý và Khai thác
Tài sản Việt Nam) cũng không thể giải quyết được nợ xấu, mà chỉ chữa được những
bệnh thời tiết, vì mầm mống gây bệnh nợ xấu vẫn tồn tại trong cơ thể của nền
kinh tế” (báo Diễn đàn
Đầu tư, 20/10/2014)
Vậy ai, nếu không phải là ông Nhà nước, chủ
nhân của Doanh nghiệp Nhà nước, đã đốt tiền của dân vào những canh bạc đầu tư
lấy lời để chia nhau, đến khi thua lỗ thì lại ì ra với chiêu bài “cha chung
không ai khóc”. Cuối cùng chỉ còn lại dân đen phải è cổ ra lao động để cho đảng
tiếp tục nuôi các nhóm lợi ích!
Như vậy thì làm sao mà dân còn kiên nhẫn để
liên kết “máu thịt với đảng” như cán bộ Tuyên giáo vẫn khoe khoang?
Thứ bảy, đảng tiếp tục độc quyền ngôn luận, báo chí để phục vụ đặc
quyền, đặc lợi cho đảng và dùng Công an và côn đồ đàn áp, không chế, bỏ tù
những người dân bất đồng chính kiến, đòi tự do dân chủ và đòi quyền con người.
Thứ tám, khi đạo đức của đảng viên đã sa sút đến tận đáy của xã hội và
những kẻ tham nhũng cứ sống phây phây trước mắt dân như hiện nay thì công tác
xây dựng, chỉnh đốn đảng làm theo Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn đề cấp
bách về xây dựng Đảng hiện nay” có còn giá trị gì không?
Thứ chín, dân càng ngày càng nghi ngờ khả năng bảo vệ vẹn toàn lãnh thổ
và chủ quyến quốc gia của đảng sau khi đã dành đặc quyền đặc lợi tại nhiều vùng
kinh tế chiến lược cho Trung Quốc và còn bất lực trước kế họach lấn chiếm biển
đảo và lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc.
Thứ mười, đảng đã vô ơn bạc nghĩa với 74 chiến sĩ Quân đội Việt Nam Cộng
hòa, cũng là công dân nước Việt, đã bỏ mình trong cuộc chiến chống Quân Trung
Quốc xâm lược chiếm đóng Quần đảo Hoàng Sa năm 1975. Sao lãng tưởng niệm 64
người lính CSVN đã bỏ mình trong trận chống quân Tầu xâm lược chiếm đảo ở
Trường Sa năm 1988. Và đặc biệt còn tuân theo lệnh Trung Quốc cấm không cho
dân-quân tưởng niệm trên 40,000 chiến sĩ và đồng bào của 6 tỉnh dọc biên giới
Việt-Trung đã hy sinh trong 2 cuộc chiến xâm lăng của 600,000 quân Trung Quốc
từ 1979 đến 1989.
Từ năm 2011 đến 2013, đảng còn cho Công an đàn
áp trí thức và một bộ nhân dân biểu tình tưởng niệm những người đã hy sinh
trong các cuộc chiến chống quân Trung Quốc và lên án Bắc Kinh xâm lược tại Sài
Gòn và Hà Nội, tiêu biểu tại Tượng Đức Trần Hưng Đạo bên bờ sống Sài Gòn và tại
Công viên Tượng đài Lý Thái Tổ ờ Hà Nội.
Kỳ thị Nam-Bắc
thắng-thua
Bên cạnh 10 nguyên nhân là mầm mống chia rẽ
trong dân kể trên, đảng còn nuôi khuyết tật kỳ thị Nam-Bắc và tiếp tục phân
biệt giữa kẻ thắng và người thua sau 30 năm theo cuộc chiến nồi da xáo thịt do
Đảng Cộng sản chủ động. Dù đảng đã phủ nhận và tiếp tục che đậy nhưng chúng vẫn
thường xuyên là một bi kịch của xã hội trong suốt 40 năm qua.
Bằng chứng là Mặt trận Giải Phóng miền Nam hay
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, dù do đảng dựng lên
nhưng số cán bộ lão thành gốc Nam vẫn là nòng cốt, đã bị giải tán không kèn
không trống sau ngày thống nhất đất nước 1976.
Sau đó đến số phận của Câu lạc bộ Kháng chiến
(tên nguyên thủy là Câu lạc bộ Những người Kháng chiến cũ), dù chỉ nhằm hoạt
động “tương tế ái hữu” cũng bị đình chỉ hoạt động vào tháng 03 năm 1989 bởi
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, người được coi là “khởi xuớng phong trào Cởi Mở”
từ năm 1986.
Ông Linh lo sợ Câu lạc bộ sẽ biến thành một
đảng đối lập chính trị vì chỉ sau 2 năm hoạt động số hội viên đã vượt lên
20.000, trong số này có những đảng viên nổi tiếng như Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Trần Nam Trung.
Một số sáng lập viên như các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Tòng, Đỗ Trung Hiếu,Nguyên Phong Hồ Hiếu sau đó đã bị cô lập,
bị bắt giam hay sa thải khỏi đảng.
Đối với hàng ngũ Quân-Cán-Chính Việt Nam Cộng
Hòa thì đảng đã lừa dối hàng trăm ngàn người để bắt tập trung vào các trại giam
lao động từ Nam ra Bắc sau ngày 30/04/1975. Nhiều người đã chết trong tù, tiêu
biểu và nổi tiếng như nguyên Thủ tướng Phan Huy Quát, nguyên Phó Thủ tướng Trần
Văn Tuyên và Thi sĩ Vũ Hoàng Chương.
Ngoại trừ những người trốn được ra nước ngoài
hay đủ điều kiện được định cư ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây, những người phải
ở lại miền Nam, đặc biệt là những cựu thương binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa và
con cháu họ đã bị kỳ thị không cho học hành đến nơi đến chốn, không cho công ăn
việc làm dù khả năng vượt cao hơn con cán bộ, đảng viên.
Nhiều người còn không có sổ Hộ khẩu để được
sống hợp pháp và không được chữa trị khi lâm bệnh.
Thậm chí đảng còn kỳ thị cả với những chiến sĩ
VNCH đã yên nghỉ tại các Nghĩa Trang Quân đội, không tôn trọng vong linh của họ
mà còn gây khó khăn cho việc thăm viếng, tu bổ, bảo trì các ngôi mộ này.
Vậy mà đảng và nhà nước vẫn oang oang tuyên
truyền cho Nghị quyết 36/NQ-TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về công tác đối
với người Việt Nam ở nước ngoài.
Nghị quyết viết “Đảng và Nhà nước ta
luôn luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách
rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, nhưng hành động thì chỉ muốn người
Việt ra đi quay đầu về “hòa hợp” vào guồng máy cai trị của đảng và làm việc
theo mệnh lệnh của Nhà nước.
Nghị quyết cũng hô hào mọi người hãy: “Xóa
bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây
dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới
tương lai.” Rồi hứa hẹn: “Mọi người Việt Nam, không phân biệt
dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài,
mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn
kết toàn dân tộc.”
Nhưng sau 10 năm thi hành (2004-2014), đảng đã
thất bại nặng nề vì “lời nói không đi đôi với việc làm”. Đảng không ngừng gửi
cán bộ với nhiều dạng thức khác nhau ra nước ngoài để móc nối, mua chuộc, len
lỏi phá hoại và thao túng các Tổ chức xã hội và chính trị của người Việt ở nước
ngoài.
Từ năm 2010, Ủy ban Người Việt Nam ở nước
ngoài (NVNONN), thời Thứ trường Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn làm Chủ nhiệm đã
thi hành kế họach: Chiêu dụ 300,000 trí thức, chuyên gia “Việt kiều” (nay đã
tăng lên 400,000 người) về giúp nước; Tổ chức các Tổ hoạt động tại các Cộng
đồng lớn của người Việt; Tổ chức các lớp dạy Việt ngữ và văn hóa Việt với thầy
cô giáo gửi ra từ trong nước; Thành lập Hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài;
Đem sách báo, lập Đài Phát thanh-Đài Truyền hình để tuyên truyền cho đảng; Tổ
chức du lịch cho Kiều báo và Tổ chức các trại Hè cho Thanh thiếu niên Việt kiều
về thăm Quế hương, thăm các Di tích lịch sử Cộng sản và thăm các đơn vị quân
đội ở Trường Sa v.v...
Tuy nhiên kết quả là con số không, hay chỉ đem
lại kết quả rất hạn chế vì cán bộ và lãnh đạo nhà nước còn duy trì nhiều mặc
cảm với những người đã bỏ nước ra đi. Điển hình như số Trí thức, chuyên viên
người Việt về giúp nước chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Đảng cũng thất bại không mua chuộc được Thế hệ
người Việt thứ hai và thứ ba ở nước ngoài vì thiếu thành thật và vẫn dựa vào
tiêu chí “đảng viên” để lãnh đạo những Trí thức hải ngoại có trình độc học hàm
và chuyên môn giỏi hơn mình cả chục lần.
Đã thế, còn nuôi dưỡng ấu trĩ “nghi ngờ” để
“bảo mật quốc gia” để che đậy những thông tin ai cũng biết cả rồi!
Nói hòa giải nuôi hận
thù
Vì vậy, cũng chính ông Nguyễn Thanh Sơn đã có
những lời nói chỉ để chọc giận và gây chia rẽ dân tộc trong-ngoài trong suốt
nhiệm kỳ của ông đến ngày đi làm Đại sứ ở Nga năm 2014.
Trong cuộc phỏng vấn của báo Quân đội Nhân dân
ngày 12/09/2011, ông Sơn nói:“Các cơ quan đại diện (của Chính phủ ở nước
ngoài) cần mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc cộng đồng, kết hợp công tác vận động
cộng đồng với vận động chính quyền, bạn bè sở tại nhằm phân hóa cô lập các phần
tử cực đoan. Đồng thời, tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan, chủ động
trong công tác đấu tranh với các phần tử lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền,
tôn giáo để chống phá đất nước.”
“…Hiện nay, còn lại bộ
phận không nhiều những người đi ngược lại lợi ích dân tộc và họ càng bị phân
hóa, bị yếu đi bởi khi chúng ta tổ chức càng nhiều hoạt động ở trong và ngoài
nước, bà con càng có nhiều thông tin, càng hướng về quê hương đất nước, hiểu về
quê hương đất nước thì càng không tin họ. Chính vì vậy, số lượng dù còn ít
nhưng họ lại rất quyết liệt, kiên quyết chống phá chúng ta vì họ đang hoảng
loạn trước nguồn cung cấp tài chính của quốc gia sở tại và chính vị thế và uy
tín của họ đang bị giảm sút.
Không có lý gì mà
chúng ta không giành thế chủ động, chìa bàn tay với những người còn hiểu lầm về
đất nước, còn mơ hồ về việc họ có thể lật đổ chế độ chúng ta. Chúng tôi đã
quyết định có đoàn liên ngành cùng với các cơ quan báo chí trong nước đi công
khai, gặp gỡ những phần tử còn chống đối quyết liệt nhất, cố tình không hiểu
tình hình trong nước. Chúng tôi đã nêu công khai với Đại sứ quán Mỹ, thông qua
cơ quan đại diện Ngoại giao ở các quốc gia như Mỹ, Canada... để có thông tin
đến các tổ chức, cá nhân này. Họ rất bất ngờ trước kế hoạch này và lúng túng,
cố tình không gặp.
Khi nào họ thực sự
muốn gặp công khai như họ nói (nhưng thực ra khi yêu cầu gặp công khai họ lại
không dám gặp), thì chúng tôi sẽ sẵn sàng gặp. Chúng tôi đang muốn gặp họ công
khai với sự chứng kiến của phóng viên trong và ngoài nước, bà con kiều bào để
tìm hiểu xem vì sao họ còn hận thù với đất nước. Và cũng để họ hiểu rõ rằng,
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn mở rộng vòng tay đối với họ, nếu họ thực sự muốn
hướng về Tổ quốc, mang lại lợi ích cho cộng đồng và cho đất nước.”
Do đó khi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm
Mỹ và họp tại Tòa Bạch ốc với Tổng thống Barack Obama ngày 25/07/2013 thì hàng
trăm đồng bào người Việt đã biểu tình bên ngoài lên án CSVN và kêu gọi Tổng
thống Obama thảo luận và áp lực ông Sang thả tù nhân chính trị và tôn trọng
nhân quyền.
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn phản ứng: “Tôi
thật sự không hiểu về cái sự cố tình đó của một số quý vị, các bác, các anh các
chị vẫn còn có tư tưởng hận thù đi ngược lại với lợi ích dân tộc... Tôi nghĩ
rằng những cái hiện tượng mà còn đây đó chống đối cái chuyến thăm của chủ tịch
nước Trương Tấn Sang, tức là các quý vị, các bác, các anh các chị còn cố tình
giữ trong lòng mình một cái “chút hận thù cuối cùng”. (Trích phỏng vấn
của Phố Bolsa TV)
Viên chức ngoại giao mang nhiều mặc cảm vì đã
bị nhiều người Việt ở Hoa Kỳ từ chối tiếp xúc trong các lần công tác trước nói
tiếp: “Quý vị không có lý gì các vị “đứng ở ngang giữa đường các vị
ngăn cản cái quan hệ Mỹ-Việt”. Điều đó chỉ làm cho các quý vị thêm khổ tâm,
thêm phiền não, thêm buồn bực và rồi chính bản thâm những người bạn Mỹ của
chúng ta lại trách quý vị là “cản cái con đường hội nhập của Việt Nam và cản
cái quá trình quan hệ Mỹ-Việt” mà họ đang mong muốn...
“...Tôi cho là các bác,
các anh chị - “những người đang còn có những tư tưởng như vậy hãy hết sức tĩnh
tâm suy nghĩ lại để chúng ta xóa bỏ tất cả những cái hận thù... còn có những
cái suy nghĩ cực đoan chống lại đất nước hoặc là có một cái suy nghĩ lệch lạc
thì đó thực sự nó chỉ là ảo tưởng... hãy gác lại những cái tư thù cá nhân, hãy
gác lại những cái suy nghĩ cá nhân”.
Cuối cùng, ông Sơn bị đặt mà không biết mình
đã nói láo vu cáo người đi biểu tình được trả tiền: “Tôi cho rằng là
những cái biểu tình chống đối của bà con cô bác ở bên ngoài đối với chủ tịch
nước vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng. Tôi nghĩ rằng là tất cả mọi người
không phải ai cũng muốn như vậy. Có những người chì vì đồng tiền, có những
người chì vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà
tham gia những hoạt động đó, chứ trong lòng tôi nghĩ quý vị cũng không có những
suy nghĩ muốn phá hoại quan hệ Mỹ-Việt.”
Trí thức Việt kiều
quay mặt
Nhưng tại sao Trí thức Việt Kiều đã không chịu
về giúp nước thì Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng thuộc Đại học danh tiếng Kỹ thuật và
Thiết kế RMIT của Úc Đại Lợi giải thích trong một bài viết:
“Qua thực tiễn 2 năm
trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây:
- Việt Nam chưa thực
sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế,
nên một số chính sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm chỉnh
thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng đúng mức thì việc trở về
của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm việc trong
điều kiện tốt nhất của nước sở tại;
- Chưa làm tốt việc
cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo,
Hoàng Sa Trường Sa, quặng mỏ bôxit Tây Nguyên...) nên trí thức Việt kiều không
thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ, phản biện, tự do
tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ... không muốn trở về nước;
- Chưa có đầu mối để
tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong hàng
trăm, hàng ngàn công nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có
thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hợp nhất và có lợi nhất cho đất
nước;
- Thủ tục giấy tờ về
nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;
- Tinh thần “vọng
ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có
nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không
hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;
- Tính “địa phương” và
“trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào cảm tính nên
nhiều khi không công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều trở thành
những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở trường khoa học
kỹ thuật của mình.
Giáo sư Vọng kết luận bài viết của ông trên
Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ) ngày 07/09/2010:
“Từ những năm 1970 Hàn
Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về
đóng góp. Ba mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của
thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách ưu đãi mời gọi trí thức
Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hóa công nghiệp
hóa đất nước, trở thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã
hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay mãi với câu hỏi về
trí thức Việt kiều.”
Theo tổ chức ngoại vi của đảng CSVN là Mặt
trận Tổ Quốc thì đến năm 2015, trên toàn Thế giới có: “4,5 triệu người sống và
làm việc ở 103 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hằng năm có khoảng
500.000 lượt kiều bào về nước, trong đó khoảng hơn 300 chuyên gia, trí thức về
làm việc và hàng nghìn người về tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh.”
Tuy nhiên bản tin ngày 27/09/2014 của tổ chức
này không cho biết 300 trí thức là những ai và họ đã làm gì ờ Việt Nam, nhưng
có điều chắc chắc là “rất ít người muốn trở về sống và làm việc cho
đảng CSVN”.
Ngày cả số người Việt lớn tuổi ở nước ngoài về
nước sống cho hết đời cũng rất ít oi, dù Mặt trận khoe: “Hiện có trên
3.500 doanh nghiệp trong nước do kiều bào thành lập hoặc góp vốn của kiều bào
với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD. Kiều hối gửi về nước tăng trung bình
10-15%/năm, Năm 2009 là 6,83 tỷ USD, năm 2010 đạt mức 8,6 tỷ USD, năm 2011 là 9
tỷ USD, năm 2012 đạt 10 tỷ USD, năm 2013 đạt gần 11 tỷ USD.”
Theo số thống kê ở Việt Nam thì phần lớn đầu
tư của người Việt nhằm vào Du lịch và ngành Địa ốc.
Như vậy đủ biết cũng đã có sự dè dặt làm ăn
với Việt Nam từ phía các thương gia người Việt ở nước ngoài. Và tất nhiên, một
sự quay về để bị kiểm soát và cai trị bởi chế độ Cộng sản vẫn còn xa vời đối
với ước mơ “vắt được chanh thì bỏ vỏ” mà đảng đã nhắm vào khối người Việt Nam ở
nước ngoài từ nhiều năm qua.
Đấy là nguyên do tại sao đã sau 40 năm kết
thúc chiến tranh và qua 40 cái Tết mà người Việt Nam ở đôi bờ chiến tuyến vẫn
còn xa mặt cách lòng, dù đang sống bên cạnh nhau ở trong nước.
Sự nghi ngờ và thờ ơ của đảng CSVN đối với sự
quay về Việt Nam của nguyên Phó Tổng thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ và Nhạc sĩ Phạm
Duy là một bằng chứng cho đến ngày hai ông qua đời (Ông Kỳ qua đời ngày
23/07/2011 tại Kuala Lumpur, Malaysia. Nhạc sĩ Phạm Duy mất ngày 27/01/2013 tại
Sài Gòn).
Lỗi ấy tại ai nếu không phải là vì đảng CSVN
vẫn tiếp tục nói một đàng làm một nẻo và chưa muốn hỏa giải với đồng bào trong
nước, vẫn nuôi dưỡng chính sách kỳ thị địa phương Nam-Bắc, vùng miền lãnh thổ
và tiếp tục độc quyền cai trị để bảo vệ quyền lợi cho một thiêu số lãnh đạo,
nhưng lại sẵn sàng thỏa hiệp chủ quyền lãnh thổ với ngoại bang Trung Quốc để
được yên thân.
(02/015)
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment