Bài thơ Thần năm Ất Mùi
Nguyễn Khắc Mai
Cùng tác giả:
- Dàn khoan HD 981 của Trung Hoa đã
hoàn thành nhiệm vụ!
- Xóa bỏ tai họa công thư Phạm văn
Đồng 1958
- Tôn vinh Chiến sĩ Hải Quân Việt Nam
trận Gạc Ma 14-3-1988
Tôi chào đón năm Ất Mùi này (2015) với
bài thơ Thần đã ra đời vào năm Ất Mùi 1655, đúng 360 năm trước. Lịch xưa tính
đúng chẳn sáu hội (mỗi hội 60 năm).
Đây là bài thơ đã được ghi lại trong Đại
Nam Thực Lục - một bộ sử biên niên ghi lại thời kỳ các Chúa Nguyễn, rồi Nhà Nguyễn
trị vì đất nước. Bấy giờ, Chúa Hiền, Nguyễn Phúc Tần, một đêm nằm mộng thấy
thần nhân hiện lên đọc cho nghe bài thơ. Hôm sau nhà Chúa đã đọc lại cho đình
thần nghe, và cho rằng đó là lời mách bảo của thần linh. (xem ĐNTL TI, NXB Giáo
Dục tr63).
Nguyên văn:
Tiên kết nhân tâm thuận.
Hậu thi đức hóa chiêu.
Chi diệp kham tồi lạc.
Căn bản dã nan dao (diêu)
Hậu thi đức hóa chiêu.
Chi diệp kham tồi lạc.
Căn bản dã nan dao (diêu)
Dịch nghĩa:
Trước hết phải cố
kết nhân tâm cho thuận.
Sau là thi hành (chính trị) đạo đức để quy tụ mọi người.
Dẫu cành lá có gãy rụng.
Gốc rễ chẳng hề lung lay.
Sau là thi hành (chính trị) đạo đức để quy tụ mọi người.
Dẫu cành lá có gãy rụng.
Gốc rễ chẳng hề lung lay.
Trong văn học Việt Nam, người ta cho rằng
đây là bài thơ thần thứ hai. Bài đầu là bài thơ “Nam quốc sơn hà”, tương truyền
đã vang lên trong đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát, ở ven sông Như
Nguyệt, nơi phòng tuyến chống quân nhà Tống xâm lược, thời Lý Thường Kiệt.
Nếu bài thơ trước (Nam quốc sơn hà) là
tinh thần, ý chí của dân Việt quyết tâm bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của Đất Nước,
quyết đánh bại mọi kẻ thù xâm lăng, được coi như một tuyên ngôn Độc lập, thì
bài thơ sau là một “minh triết” chính trị. Bài thơ góp vào, làm nên sự phong
phú sâu sắc của tư tưởng, đạo trị nước của Việt Nam. Cũng nên lưu ý một tình
tiết tế nhị. Đó là bài thơ xuất hiện lúc đất Nước còn phân ly. Lực lượng nào
muốn thắng, gồm thâu thiên hạ, đều phải chú ý đến những vấn đề cốt tử:
Thi hành đức hóa, cố kết lòng người…
Ngoại trừ hoàn cảnh xuất hiện, phân tich
kỹ 20 chữ của bài ngũ ngôn tứ tuyệt này, có thể rút ra được nhiều điều bổ ích,
thú vị. Điều ấy, không những có ích cho những người lãnh đạo quốc gia ở tầm vĩ
mô, mà còn có lợi cho cả công việc ứng xử ở tầm cơ sở, vi mô, của một gia đình,
một doanh nghiệp, một cộng đồng xã hội, một chính đảng …
Chữ tiên, (trước hết) là nói tầm quan
trọng của vấn đề. Câu đầu, đưa ra ba triết lý quan trọng: kết, nhân tâm
và thuận. Ba chữ này, là ba phạm trù rất cơ bản để nhận thức và ứng xử
xã hội.
Ngẫm về chữ kết,
đã có điều thú vị, nó có vẻ dễ hiểu, thậm chí người ta nghe đã nhàm tai, nào
kết đoàn ta là sức mạnh trong một bài hát Tàu, nào đoàn kết, đại đoàn kết…Chữ
kết, người xưa viết với bộ “mịch”, có ý nói về sự bó bện cho bền chặt. Ý nghĩa
là sự tập hợp cái nhiều (đa) thành cái một (nhất). Người ta phải “kết” cái
nhiều lại để thành một cho mạnh cho bền chắc…nhưng không bao giờ lại thủ tiêu
các thành viên, thành tố. Nếu hiểu kết mà chỉ nhăm nhăm coi trọng cái một mà bỏ
cái nhiều, chỉ chú ý đến cái chung, mà bỏ cái riêng, thì chẳng còn ý nghĩa kết
gì nữa. Đó là quy luật tự nhiên, huống chi là quy luật xã hội! Không thấy ý
nghĩa “kết”, không thể gắn bó con người được. Phải hiểu và làm chữ kết trong
thế vừa đề cao cái một, mà phải coi trọng cái đa, những thành tố riêng rẽ, để
tạo thành cái “Kết”. Trong tự nhiên, người ta dễ hiểu và làm theo quy luật ấy.
Như cái máy tính điện tử, nếu không coi trọng từng chi tiết, từng linh kiện,
làm sao có thể có được chất lượng cao của bộ máy! Nhưng trong ứng xử xã hội,
con người lại tầm thường đến độ ngu xuẩn, là muốn kết mà không muốn làm cho mọi
thành tố mạnh lên!
Hai chữ nhân tâm cũng nên
luận. Không nên chỉ hiểu đơn giản là lòng người. Phải thấy nhân là con người và
cả cái tâm của nó. Nếu không biết nuôi dưỡng con người bằng một “polytique”
nhân văn, con người sẽ đói, sẽ khổ, sẽ méo mó bất thành nhân dạng, có thể thành
quái thai, chỉ có phần con mà mất đi phần người. Trong trường hợp ấy, không thể
có cái tâm đúng nghĩa. Tâm không chỉ là lòng người, nó là tổng hòa của cái trí,
cái biết cái thức, thiếu tâm hồn, thiếu tri thức không thành người. Như vậy vấn
đề nhân tâm không chỉ thuần túy là tinh thần, ý thức, tình cảm, tâm hồn. Phải
tính cả những giá trị vật chất của con người cho con người, vì con người. Những
thể chế, thiết chế, chế độ phản bội lại con người không thể gọi là nhân văn,
lại có thể cố kết con người, làm mạnh con người.
Còn chữ thuận. Minh triết Việt biết đánh giá
cao ý nghĩa chữ thuận - thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn. Nhưng
thuận không chỉ có nghĩa là cùng nhau, còn có cái nghĩa là theo quy luật, theo
thiên tính, nhân tính, nhân tình. Con người từng đánh mất chữ thuận, nên đã làm
cho con người, cho xã hội không hòa, địa không lợi, thiên không còn thời.
Vì thế, sau cái tiên kết, là nói hậu thi.
Những điều phải thi hành, phải làm tiếp theo để thể hiện cho được sự cố kết,
làm vững mạnh con người, làm cho nhân tâm thuận, nghĩa là làm cho tiến hóa nhân
cách, nhân vị, nhân sinh. làm cho tiến hóa xã hội.
Thi hành “đức hóa”, nghĩa là thi hành một
nền chính trị đạo đức, nhân văn, một nền kinh tế đạo đức, nhân văn;một nền văn
hóa giáo dục đạo đức nhân văn. Mọi sự tuyên bố chủ nghĩa, lý thuyết này nọ mà
không theo tiêu chí ấy, đều là lừa dối, chỉ đạt tới dự nhất thời, nửa vời, đẩy
con người và xã hội đi tới ngày càng suy đồi, tan rã. Không phải ngẫu nhiên, mà
ngày nay đang xuất hiện nhiều những cảnh báo về cái ác tràn lan, và đang đề
xuất những tư duy lành mạnh, cổ vũ cho một tinh thần, một thái độ, một tâm
thức”
minh triết” trong đời sống.
minh triết” trong đời sống.
Bruce Lloyd (Anh quốc) tha thiết đề nghị
hãy kiến tạo xã hội minh triết, kinh tế minh triết. Còn Gandhi (Ấn) từ 1934, đã
hô hào xây dựng nền giáo dục minh triết.
Thi hành đức hóa còn có nghĩa là thực
hiện một đường lối, một phương thức quản trị, điều khiển, tổ chức, quản lý có
nhân văn, đạo đức, coi trọng con người hơn là coi trọng giá trị vật chất gia tăng.
Những cộng đồng, những xã hội vĩ mô và vi mô chỉ nhăm nhăm lợi ích giá trị vật
chất gia tăng, bỏ rơi, bỏ quên con người, xã hội của con người đều không thể
biện hộ cho tính “phản động” của mình. Người ta đang phải nói nhiều về nền
chính trị có khuôn mặt người, kinh tế có tính người, văn hóa có tình người…
Đó là sự nuôi dưỡng, vun trồng, bồi đắp
cho cái gốc, cái rễ (căn và bản) của con người, của xã hội, của Đất Nước, của
nhân loại. Đó chính là bài học, là triết lý, là phương châm để một gia đình,
một doanh nghiệp, một chính đảng, một nhà nước vận hành đạt tới nhân văn, tiến
hóa. Nhãn tiền sự thoái hóa trông thấy trên Đất Nước ta và cả trên thế giới đều
có thể chiêm nghiệm từ ý nghĩa bài thơ Thần này.
Xin chép lại bài thơ Thần đã xuất hiện
đúng năm Ất Mùi (1655) và đôi lời thô thiển, nói lên cảm nghĩ của mình để hầu
chuyện ban đọc bên chén rượu, chén trà xuân, năm này, cũng là một năm Ất Mùi
của Dân tộc. /.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment