Thursday, December 6, 2012

ÐI TÌM MỘT NỀN TẢNG TRIẾT LÝ, CHÍNH TRỊ CHO DỰ THẢO HIẾN PHÁP DÂN CHỦ VIỆT NAM TƯƠNG LAI.


 

ÐI TÌM MT NN TNG TRIT LÝ, CHÍNH TR CHO D THO HIN PHÁP DÂN CH VIT NAM TƯƠNG LAI.

                                                                                 

Thiện Ý

Bài tham luận này lần lượt trình bày:

- Việt Nam từ quá khứ đến hiện tại, chúng ta rút được bài học kinh nghiệm gì về lập hiến?

- Chúng ta cần chọn nền tảng triết lý, chính trị nào cho bản Hiến Pháp Việt Nam tương lai

     

I/- VIỆT NAM TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI CHÚNG TA RÚT ĐƯỢC BÀI HỌC KINH NGHIỆM GÌ VỀ LẬP HIẾN?

1.- Nề tảng triết lý, chính trị của Hiến Pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1946).

Theo sử gia Phạm Văn Sơn, thì Mặt trận Việt Minh nhờ “Có kỹ thuật Cách mạng và thủ đoạn sâu sắc, đã đi bước trước sau khi tổ chức được nhiều cuộc biểu tình cổ động quần chúng từ ngày 15 tháng 8 năm 1945 đến ngày 19 tháng 8 năm 1945, nắm được hậu thuẫn của các tầng lớp dân chúng”, nên đã chủ động cướp được chính quyền. Ngày 25-8-1945 Vua Bảo Ðại thoái vị, chính phủ Trần Trọng Kim bị giải tán và một chính phủ lâm thời do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch ra mắt quốc dân ngày 2-9-1945.

Trong thời điểm này, đảng CSVN do ông Hồ Chí Minh cầm đầu còn yếu kém hơn các chính đảng Quốc Gia, chủ thuyết Cộng Sản còn xa lạ với dân chúng Việt Nam, thậm chí người ta còn sợ hãi khi biết đó là một chủ thuyết ngoại lai vô thần (Chủ nghĩa tam vô: Vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo), nên ông Hồ đã phải bất đắc dĩ chia xẻquyền hành với các chính đảng quốc gia và các nhân sĩ ái quốc. Một chính phủliên hiệp Quốc-Cộng đầu tiên được thành lập và ngày 2-9-1945, Ông Hồ Chí Minh trong cương vị Chủ Tịch Chính Phủ liên hiệp Quốc-Cộng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, đã đọc Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập tại vườn hoa Ba Ðình Hà Nội. Bản tuyên ngôn này được ông Hồ ngụy trang bằng những tư tưởng Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Bình Ðẳng, lấy ý tưởng từ Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập Hoa Kỳ, rằng ‘‘Tạo Hoá sinh ra con người có quyền tự do và bình đẳng, không ai có quyền cướp đi quyền tự do và bình đẳng ấy…”, để lừa mị nhân dân và che mắt thế giới. Ðể rồi sau đó, một Quốc Hội Lập Hiến kiêm lập pháp liên hiệp Quốc-Cộng được hình thành, soạn ra bản Hiến Pháp Việt Nam đầu tiên ngày 9 tháng 11 năm 1946, khai sinh ra chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Tất nhiên, cũng để ngụy trang, hiến pháp này đã được dựa trên hệ tư tưởng tự do, dân chủ Phương Tây, với tam quyền phân lập. Hệ tư tưởng CS và tính chuyên chính vô sản chưa có chỗ đứng trong bản hiến pháp này.

Nhưng rồi, giành được độc lập không được bao lâu, quân Pháp trở lại, sau nhiều thương lượng không thành, ngày 19-12-1946 chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà rút vào bí mật, phát động toàn dân kháng chiến trường kỳ. Măt Trận Việt Minh đóng vai trò chủ đạo, kêu gọi đoàn kết toàn dân chống Pháp, tiếp tục bị đảng CSVN khống chế, giành quyền chủ đạo kháng chiến, sau khi loại trừ các chính đảng Quốc Gia. Trên thực tế, chính phủ , quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng hoàn toàn bị đảng Cộng Sản Việt Nam chiếm dụng.

Cuộc kháng chiến gian khổ và bằng xương máu của mọi tầng lớp nhân dân yêu nước Việt Nam sau 9 năm đã đánh đuổiđược thực dân Pháp, nhưng đất nước lại rơi vào th‰ gọng kìm của một thế chiến lược quốc tế mới, hình thành sau Thế Chiến II (Chiến tranh Ý Thức Hệ: Cộng Sản Chủ NghĩaTư Bản Chủ Nghĩa). Hiệp định Geneve 1954 do các cường quốc hoạch định, đã đưa đến tình trạng chia cắt Việt Nam làm đôi (Ðiều 1). Nửa nước Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở lên thuộc quyền thống trị của đảng Cộng Sản Việt Nam. Nửa nước Miến Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống chủ quyền được trao hoàn toàn lại cho Nam Triều mà một phần chủquyền trước đó Pháp đã chẳng đặng đừng xử dụng lá bài Bảo Ðại, trao trả từng bước cho các chính phủ Quốc Gia (Chính phủ Nguyễn Văn Xuân thành lập cuối tháng 5-1948, rồi Trần văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm…). Vua Bảo Ðại trong vai trò Quốc Trưởng của chế độ Quân Chủ Chuyên Chế Việt Nam đã tiếp nhận chủ quyền sau cùng này cho một Chính Phủ Quốc Gia.

2.- Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Miền Bắc việt Nam (1959)

Sau khi giành được một nửa đất nước, Ðảng CSVN tiếp tục giữ cái vỏ chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành lập từ năm 1946, để che đậy cái ruột Xã Hội Chủ Nghĩa với bản hiến pháp 1959.

Nội dung bản hiến pháp này về cơbản chỉ là sự rặp khuôn hiến pháp Liên Sô, thêm thắt đội điều cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ thực tiễn Việt Nam, trong tương quan với cộng sản quốc tế. Cụ thể là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc,hoàn thành Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ ở Miền Nam (Thực chất là tiến hành chiến tranh thôn tính Miền Nam), để hoàn thành nghĩa vụ quốc tếvô sản. Ngoài việc giữcái vỏ chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà của Hiến Pháp Việt Nam năm 1946, cờ và quốc ca cũngđược giữ lại (Cờ đỏ sao vàng, bài Tiến Quân Ca). Sở dĩ đảng CSVN giữ lại những gì vừa kể của năm 1946, là nhằm những lợi ích chính trị sau đây:

-Một là CSVN muốn chứng tỏ chế độ và chính phủ Miền Bắc lúc bấy giờ là chính danh, còn chế độ Quân Chủ Chuyên Chế lúc ÇÀu và sau ÇóChính Phủ Quốc Gia ở Miền Nam là ngụy danh, là ‘‘ Tay sai Ðế Quốc Mỹ”. Ý đồ của CSVN là muốn nhân dân trong nước và dư luận quốc tế lầm tưởng rằng, chế độ, chính quyền Miền Bắc hiện tại là kếthừa chính danh chế độ chính quyền đầu tiên sau khi giành được độc lập năm 1945. R¢ng Quốc hội và chính phủ ấy đã vào bưng biền kháng chiến, nay chiến thắng thực dân Pháp, trở về thủ đô Hà Nôi tiếp tục lãnh đạo một nửa đất nước, với hai nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, tiếp tục kháng chiến ”Chống Mỹ cứu nước”, để giải phóng Miền Nam, tiến đến thống nhất đất nước.

-Hai là CSVN muốn chứng tỏ ‘‘Cuộc kháng chiến chống Mỹ” mang ý nghĩa một cuộc chiến chống ngoại xâm, để người dân hai miền và dư luận quốc tế lầm tưởng Mỹ cũng như Pháp trướcđây, đều là thực dân, đế quốc thay nhau khai thác Việt Nam, khác chăng là Pháp‘‘Thực Dân Kiểu Cũ”, còn Mỹ là ‘‘Thực Dân Kiểu Mới” khai thác “Thuộc Ðịa Kiểu Mới”. R¢ng Chế độ và chính quyền ở Miền Nam không có chính danh, vì Vua Bảo Ðại đã thoái vị cùng với chế độ Quân Chủ Chuyên Chế Việt Nam đã cáo chung năm 1945, khai sinh ra chế độ Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà mà CSVN đang kế thừa…

Thực tế cho thấy, cả hai ý đồ trên, CSVN đãđạt được phÀn nào, vì đã lừa mị được nhiều người Việt Nam và dư luận quốc tế ít am hiểu tình hình và không bi‰t ÇÜ®c những thủ đoạn tuyên truyền tinh vi của CSVN. Ðặc biệt là sau khi quân đội Hoa Kỳtrực tiếp tham chiến tại Việt Namđã giúp cho thủ đoạn tuyên truyền này có hiệu quả thực tiễn. Ðây cũng chính là một trong những yếu tố căn bản, giúp cho CSVN được chọn là kẻ chiến thắng khi kết thúccu¶c nội chiến ý thức hệ tạiViŒt nam, dù chỉ là chiến thắmg biểu kiến (giảtạo) và có tính cáchgiai đoạn, khi có nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc cực nói chung và Hoa Kỳ nói riêng.

3.- Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1956 và 1967)

Trong khi đó, nửa nước Miền Nam Việt Nam chủ quyền độc lập được trao trảcho Nam Triều, với tư cách thừa kế chính danh chû quyŠn ÇÃt nܧc, thì đã gặp nhiều nỗi oan khiên.

Chính danh vì trước sau Vua Bảo Ðại vẫn là biểu tượng Quốc Gia, tiếp nối chủ quyền quốc gia theo truyền thống lịch sử dân tộc. Việc trao trả độc lập cho Việt Nam trong điều kiện tranh tối tranh sáng năm 1945, chỉ là gượng ép, giả tạo do sự đạo diễn của Phát Xít Nhật. Vua Bảo đại thoái vị cũng chỉ là sự cưỡng ép của CSVN. Thời gian độc lập ngắn ngủi trên nguyên tắc pháp lý thì có, song thực tếthì ViŒt Nam vÅn chưa có chủ quyền. Tất cảchỉ là sự vá víu trong vội vã. Sau đó Pháp trở lại tiếp tục đô hộ, triều đình nhà Nguyễn tiếp tục trị vì với một phần chủ quyền được Pháp trao trả; Ðể rồi, trước áp lực của xu thế thời đại, chủ nghĩa thực dân phải cáo chung (Phải trao trả quyền Ðộc lập tự chủ cho các dân tộc bị trị), và tình hình thực tế ngày càng bất lợi, Pháp đã phải trao trả chủ quyền từng bước cho chính phủ Nam Triều (Chính phủ Quốc Gia năm 1948, Quân Ðội Quốc Gia năm 1950…) và sau cùng trao trả độc lập hoàn toàn cho Chính Phủ Quốc Gia theo Hiệp Ðịnh Genève năm 1954 mà Hoàng ÐếBảo Ðại vẫn là người đại diện chính danh, hợp pháp và có thẩm quyền tiếp nhận.Dođó, Miền Nam Việt Nam lúc đầu vẫn là chế độ Quân Chủ Chuyên Chế, với cờ và quốc ca được chọn trước đó tiếp tục lưu dụng (Cờ vàng ba sọc đỏ, bài Thanh Niên Hành Khúc sửa lời để làm Quốc Ca…).

Thế rồi, trong vòng một năm sau ngày độc lập, với sự hậu thuẫn và dàn dựng của Hoa Kỳ (Với tư cách lãnh đạo ThếGiới Tự Do trong thế chiến lược quốc tế mới sau Thế Chiến Hai) ông Ngô Ðình Diệm, một nhà ái quốc Việt Nam đang sống lưu vong ở Mỹ, sau khi được Quốc Trưởng Bảo Ðại bổ nhiệm chức vụ Thủ Tưởng Chính Phủ Quốc Gia, đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23-10-1955 trên toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam. Kết quả là người dân đã bãi bỏ chế độ Quân Chủ Chuyên Chế, thiết lập hàng ngàn năm ở nước ta, Vua Bảo Ðại bị truất phế, chế độ Dân Chủ Lập Hiến với Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956. Thủ tướng Ngô Ðình Diệm được ‘‘suy tôn’’ ngôi vị Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà.

Ðây có thể coi là bản Hiến Pháp thứ hai của Viêt Nam, sau Hiến Pháp năm 1946, đều dựa trên hệ tư tưởng triết lý Duy Tâm, chû thuy‰t chính trị Tự Do, Nhân Quyền,Dân Quyền Tây Phương (Chû thuy‰t CÀn Lao Nhân VÎ)., nhằm xây dựng một thể chế Tự Do Dân Chủ, hình thành một ‘‘Xãhội nhân bản hữu thần’’,đối kháng với chế độ Chuyên Chính Vô Sản Miền Bắc, xây dựng trên nền tảng triết lý Duy Vật, chû thuy‰tchính trị Cộng Sản chuyên chế(Ðộc tài), nhằm hiện thực một ‘‘Xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa vô thần”.

Chín năm sau, ngày 1-11-1963 Hoa Kỳ đã hổ trợ cho một nhóm Tướng Tá trong Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà làm cuộcđảo chánh, Tổng Thống Diệm bị thảm sát, người Mỹ trực tiếp tham chiến, làm mất chủ quyền và chính nghĩa đấu tranh của chính quyền và nhân dân của một chế độdân chủ non trẻ mới hình thành ở Miền Nam Việt Nam.

Nền Ðệ I Việt Nam Cộng Hoà cáo chung. Bản Hiến Pháp Ðệ Nhị Viêt Nam Cộng Hoà ra đời ngày 1 tháng 4 năm1967,vẫn trên nền tảng tư tưởng triết lý Duy Tâm, chû thuy‰t chính trị là hệ tư tưởng dân chủ Phương Tây hữu thần. Trong khi nền tảng triết lý, chính trị hiến pháp và chế độ của những người CSVN ở Miền Bắc, dù vẫn giữ cái vỏ chế độ Việt Nam Dân Chủ Công Hoà của hiến pháp năm 1946, nhưng thực chất và thực tế đã là chế độ xã hội chủ nghĩa vô thần.

3.-Hiến pháp Cộng Hòa Xã hội Chủ nGhĩa Việt Nam (1980 và 1992)

Chính sự khác biệt này và do chủ trương dùng bạo lực để ápđặt môt thể chế độc tài toàn trị trên toàn cõi Viêt Nam, CSVN đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhằm thôn tính Miền Nam Viêt Nam. Cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn do CSBV phát động kéo dài trên 20 năm (1954-1975), đã chỉ được các thế lực khuynh đảo quốc tế cho chấm dứt vào ngày 30-4-1975, khi có nhu cầu thay đồi thế chiến lược quốc tế, với vai trò thắng trận được dành cho kẻ chủ mưu phát Ƕng chi‰n tranh là CSVN. Sau “Chiến thắng biểu kiến” này, CSVN đã thống nhất đất nước về mặt pháp lý bằngmột bản hiến pháp với danh xưng đúng thực chất chế độ, mà đã đến lúc họ không còn cần phải dấu diếm: Hiến Pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ban hành năm 1980 và được tu chính các điều khoản không căn bản vào năm 1992. Bản hiến pháp này chỉ là sự sao chép về căn bản của Hiến Pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Xô Viết gọi tắt là Liên Xô. Ðó là bản hiến pháp đã xác định đặt trên nền tảng triết lý Duy Vật (Mác-Lê) và chủ thuyết Cộng Sản vô thần, với vai trò độc quyền thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện chế độ độc tài toàn trị cộng sản.

Ðến nay, sau 37 năm thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa theo gương Liên Xô cả vŠ pháp lý (Hiến Pháp, pháp luật, hành chánh công quyền…) lẫn thực tiễn (Ch‰ Ƕ chuyên chính vô sän),đảng CSVN đã tàn phá làm bæng hoåitoàn diện đất nước. Liên Xô vốn được đảng CSVN xưng tụng là “ Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa” nay đã sụp đổ hơn hai thập niên qua (1991-2012). Sự tiêu vong chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Namđã như một tất yếu, chỉ còn là vấn đề thời gian tính theo năm tháng. Nhiều cán bộ đảng viên CSVN cao cấpđã phản tỉnh, sám hối và công khai đòi hủy bỏ hiến pháp lỗi thời, chuyển đổi sang chế độ Tự Do Dân Chủ Ða Nguyên.Những khuynh hướng giữa người Việt Nam từng là mâu thuẫn đối kháng một thời, nay có cơ hội gặp nhau ở nỗ lực chung: Ðấu tranh cho một nền Dân Chủ Ða Nguyên tại Việt Nam, vì lợi ích tối thượng của đất nước, dân tộc và con nguời Việt Nam thế hệ hiện tại cũng như tương lai.

Mặc dầu thiểu số đảng viên CSVN cầm quyền còn ngoan cố,chỉ thị cho Quốc hội đương nhiệm sửa đổi Hiến pháp lần này vẫn không theo chiều hướng dân chủ đa nguyên, song ai cũng tin một cách có cơsở thực tiễn rằng, chẳng bao lâu nữa, chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam sẽ mệnh chung như Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩađàn anh ở Ðông Âu. Vả lại, thực tế chế độ “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” hiện nay chỉ còn là cái vỏ bọc (đỏvỏ xanh lòng) của một chế độ dựa trên nền tảng chủ nghĩa thực dụng; Cái gọi là “Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ là sự ngụy biện duy ý chí, trái với thực tiễn. Thực tiễn “Nền kinh tế thị trường đã và đang theo đinh hướng tư bản chủ nghĩa” là một tất yếu.

II/- CHÚNG TA CẦN CHỌN NỀN TẢNG TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ NÀO CHO BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM TƯƠNG LAI?

Một khi đã nhìn từquá khứ đến hiện tại để rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết về pháp lý cũng như thực tiễn, để hướng tới tương lai, chúng ta tự hỏi, rồi đây, giả định trong vòng những năm cuối thập niên thứ hai của Thế Kỷ 21 này, chế độ hiện hũu tại Việt Nam hủy thể cách này cách khác, cùng lúc bản hiến pháp hiện hành bịtiêu hủy, các nhà lập hiến Việt Nam tương lai khi soạn thảo hiến pháp mới sẽchọn nền tảng tư tưởng triết lý, chính trị nào: Duy Thần, Duy Tâm, Duy Vật hay duy …gì?

Ðể trả lời câu hỏi này, theo thiển ý xin đề nghị với các nhà lập hiến Việt Nam tương lai, rằng chúng ta không nên chọn một hệ tưtưởng triết lý, chính trị độc tôn nào để làm nền tảng tư tưởng cho Dự Thảo Hiến Pháp Việt Nam Tương Lai.

Vì sao?

Là vì ai cũng biết, Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung, trong quá khứ đã từng là nạn nhân khốn khổ của sự lựa chọn độc tôn một hệ tư tưởng triết lý, chính trị, trên đó hình thành một thể chế chính trị và một mô hình xã hội. Trong lịch sử phát triển nhân loại, nhiều cuộc chiến tranh chủng tộc, tôn giáo và gần nhất là cuộc Chiến Tranh Ý Thức Hệ vừa qua giữa Cộng Sản Chủ NghĩaTưBản Chủ Nghĩa (Mà Việt Nam là một nån nhânđiển hình bi thảm) đều là hậu quả của sự chọn lựa hệ tư tưởng triết lý, chính trị độc tôn.

Vì vậy, hướng tới tương lai, chúng tôiđề nghị, chúng ta sẽ không chọn một hệtư tưởng triết lý, chính trị độc tôn, duy nhất nào, mà nên chọn một nền tảng tư tưởng triết lý tổng hợp cho dự thảo Hiến Pháp Việt Nam Tương Lai (đa nguyên). Nghĩa là, chúng ta sẽ chọn lựa trong tất cả các hệ tưtưởng triết lý, chính trị của nhân loại, những giá trị nhân bản hữu ích và thích dụng cho con người và đất nước Việt Nam, để hình thành một chủ thuyết chính trị thích hợp cho một thể chế và mô hình xã hội Việt Nam tương lai, có tính khả thi, tính thuyết phục, thể hiện được ý nguyện của tuyệt đại đa số quốc dânViệt Nam, vốn là những công dân của Tổ Quốc Việt Nam, ở trong nước cũng như hải ngoại, luôn thiết tha với tiền đồ dân tộc.

Vì suy cho cùng, hệ tư tưởng triết lý, chính trị nào thì cũng xuất phát từ con người (nguồn gốc) do con người (Chủ thể tư duy)vì con người (lš do tÜ duy) và cho con người (Ðối tượng tÜ duy phøc vø). Ðó là những sản phẩm tri thức chung của nhân loại, hình thành từ những tư duy và nhận thức cá nhân, song ít nhiều được ngưỡng mộ của các tập thể con người khác nhau, nên vừa có giá trị tuyệt đối của một chân lý tuyệt đối về mặt chủ quan (Ðối với triết gia, các nhà lập thuyết và nhóm người ngưỡng mộ), vừa có giá trịtương đối của một chân lý tương đối về mặt khách quan (Ðối với những người khác quan điểm). Thành ra, trong bối cảnh xã hội loài người, gồm nhiều cá nhân bất đồng về nhiều phương diện nhưng có nhu cầu phải sống chung để mưu cầu hạnh phúc riêng cũng như chung, con người phải chấp nhận và thừa nhận những bất đồng trong đó có bất đồng tư tưởng.

Do đó vấn đề cần yếu chỉ còn là phải biết lựa chọn trong các hệ thống triết lý(Duy Thần, Duy Tâm, Duy Vật, …) những quan niệm có giá trị nhân bản, phù hợp với thực tiễn, kết hợp tư duy sáng tạo, kinh nghiệm sống, đúc kết, tổng hợp và hệ thống hoá thành một chủ thuyết chính trị thích dụng cho ÇÃt nܧc và con người Việt Nam, trong một hình thái tổ chức xã hội nhấtđịnh.

Một nền tảng tư tưởng có tính tổng hợp như vậy, chúng tôi tạm gọi là ‘‘Triết Lý Duy Nhân”(Personnism), trênđó chúng ta hình thành một Chủ nghĩa Dân Bản (Peopleism), để xây dựng một mô hình “Xã Hội Công Dân” (Citizen Society) hay “Xã Hội Dân bän” (Peopleist Society), lấy dân làm gốc. Dự Thảo Hiến Pháp Việt Nam Tương Lai được soạn thảo trên căn bản Chủ Thuyết Dân Bản sẽ định tính, định hình, định vị vàđịnh hướng cho thể chế chính trị và mô hình xã hội Việt Nam tương lai phù hợp với ý nguyện chung của quốc dân Việt Nam.

Sở dĩ chúng tôi đề nghị một nền tảng tư tưởng triết lý tổng hợp Duy Nhân (Coi con ngÜ©i là trung tâm), là vì nó phù hơp với thực trạng con người và xã hội Viêt Nam nói riêng, cộng dồng nhân loại nói chung. Ðối với Việt Nam, thực trạng là, con người Việt Nam có nhiều trình độ hiểu biết và nhận thức khác nhau, xã hội Việt Nam có nhiều thành phần dân t¶c (ña s¡c t¶c), khác biệt về tư tưởng triết lý (Duy Thần, Duy Tâm, Duy Vật cùng hiện hữu), về chính kiến (Cộng hoà, dân chủ, xã hội…), về tín ngưỡng(Ða tôn giáo, tín ngưỡng…). Nhưng tất cả con người khác biệt ấy, đều là con người (nhân bản)có nhu cầu phải sống chung trên đất nước Việt Nam,để cùng mưu cầu hạnh phúc riêng cũng như chung. Muốn vậy mọi người phải tương nhượng chấp nhận lẫn nhau và thừa nhận những bất đồng tư tưởng của nhau.

Riêng lãnh vực tư tưởng,một nền tảng triết lý tổng hợp (Duy Nhân) , sẽ giúp giải quyết được mọi bất đồng, cá biệt, hoá giải được những xung đột ý thức hệ từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai nữa. Ðiều này cũng phù hợp Lý Tưởng Tự Do, Nhân Quyền( Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng một hệ tư tưởng, hay tôn giáo…), phù hợp với chế độ Dân Chủ Ða Nguyên mà mọi người đang muốn thiết lập(Mọi khuynh hướng chính trị đều được thừa nhận và tôn trọng, dù chỉ là của một cá nhân hay thiểu số), phù hợp với Nguyên Tắc Sinh Hoạt Dân Chủ (Ða số thắng thiểu số, thiểu số phải phục tùng quyết nghi của đa số, nhưng thiểu sốcó quyền bảo lưu ý kiến mà đa số cũng phải tôn trọng…).

Ðối với cộng đồng nhân loại cũng thế, con người trong một quốc gia và giữa các quốc gia cũng có nhiều khác nhau về kiến thức và khả năng nhận thức, sáng tạo, khuynh huớng chính trị, tín ngưỡng và tôn giáo, sắc tộc…

Một nền tảng triết lý tổng hợp (Duy Nhân) sẽ giúp cho mọi con người sống trên hành tinh này có cái nhìn chung ‘‘Nhân Bản”, biết thừa nhận những giá trị nhân bản của mọi sản phẩm tri thức của con người và luôn luôn cư xử với nhau trên nền tảng chung ‘‘Con Người với con Người”. Và như thế có thể loại trừ được những nguy cơ chiến tranh Ý Thức Hệ (Do chọn ý thức hệ độc tôn), chiến tranh Tôn Giáo (Do chủ nghĩa Tôn Giáo Cực Ðoan), Chiến tranh Chủng Tộc (Do chú nghĩa Dân Tộc cực đoan), chiến tranh xâm lược (Do chủ nghĩa ñ‰ QuÓc, bá quyền vàQuốc Gia cực đoan).

Ðồng thời chỉ có như thế mới có một căn bản Pháp Lý Quốc Tếvững chắc để hành xử Quyền Tài Phán Quốc Tế, v§imột hŒ thống Toà Án Quốc Tế có thẩm quyền trên mọi quốc gia, Ç‹ có th‹chế tài mọi cá nhân, tập đoàn nắm quyền bính hay không, mà vi phạm tội ác chống nhân loại.

Vì một khi lấy con người làm gốc (Nhân Bản), các luật pháp quốc tế bảo vệ con người gọi chung là “Nhân Luật” mới có hiệu lực bao trùm lên mọi chủ quyền và luật pháp quốc gia. Ðiều này cũng phù hợp với chiều hướng phát triển hiện nay của thế giới : Toàn cầu hoá nhiều lãnh vực, nhÜ kinh tế, pháp lý, chính trÎ quÓc t‰. Theo đó, nhân danh con người, vì con người, các nước Giầu-Nghèo đang có nỗ lực hợp tác để cùng nhau thiết lập một nền ‘‘Trật Tự Thế Giới Mới” hay là “Một Hệ Thống Kinh Tế Quốc tế Mới”, trong đó mọi con người, thuộc mọi sắc tộc, quốc gia, có điều kiện thuÆn l®i Ç‹ mÜu cÀu hånh phúc và được sống xứng đáng với nhân phẩm và cương vị của một con người, giảm thiểu đói nghèo, khổ đau cho toàn nhân loại trên hành tinh này trong hiện tại cũng như cùng hướng về tương lai ngày càng tốtđẹp.

III.- KẾT LUẬN:

Ðể kết luận bài tham luận này, chúng tôi xin dùng biểu đồ ba cái tháp tượng trưng cho ba loại thể chế chính trị dựa trêm ba nền tảng triết lý khác nhau: Tháp Duy Tâm, nghiêng về phía hữu (hữu khuynh). Tháp Duy Vật, nghiêng phía Tả (Tả khuynh). Tháp Duy Nhân,đứng thẳng, luôn luôn cân bằng vì xây dưng trên nền tảng Con Người(Chủ thể của mọi tư duy và là đối tương phục vụ của mọi sản phẩm tri thức, của mọi chủ thuyết chính trị, chủ thể xã hội và là đối tượng phục vụ của mọi hình thái tổ chức xã hội loài người)

Chính trên nền tảng triết lý tổng hợp này, chúng ta có thể hình thành một chủ thuyết chính trị thích dụng, trên đó các nhà lập hiến Việt Nam có thể soạn thảo ra một Hiến Pháp Dân Chủ Ða Nguyên, đáp ứng đúng nguyện vọng của Quốc dân Việt Nam trong cũng như ngoài nước và phù hợp với xu thế thờiđại, với chiều hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam.

.

Thiện Ý

 

No comments:

Post a Comment

Thanks for your Comment

Featured Post

Bản Tin buổi sáng22/4/2024

Popular Posts

Popular Posts

Popular Posts

My Link