ÐI TÌM MỘT NỀN TẢNG TRIẾT LÝ, CHÍNH TRỊ CHO DỰ THẢO HIẾN PHÁP DÂN CHỦ VIỆT NAM TƯƠNG LAI.
Thiện
Ý
Bài
tham luận này lần lượt trình bày:
- Việt Nam từ quá khứ
đến hiện tại, chúng ta rút được bài học kinh nghiệm gì về lập hiến?
- Chúng ta cần chọn nền
tảng triết lý, chính trị nào cho bản Hiến Pháp Việt Nam tương lai
I/-
VIỆT NAM TỪ QUÁ KHỨ ĐẾN HIỆN TẠI CHÚNG TA RÚT ĐƯỢC BÀI HỌC KINH NGHIỆM GÌ VỀ
LẬP HIẾN?
1.-
Nề tảng triết lý, chính trị của Hiến Pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (1946).
Theo
sử gia Phạm Văn Sơn, thì Mặt trận Việt Minh nhờ “Có kỹ thuật Cách mạng và
thủ đoạn sâu sắc, đã đi bước trước sau khi tổ chức được nhiều cuộc biểu tình cổ
động quần chúng từ ngày 15 tháng 8 năm 1945 đến ngày 19 tháng 8 năm 1945, nắm
được hậu thuẫn của các tầng lớp dân chúng”, nên đã chủ động cướp
được chính quyền. Ngày 25-8-1945 Vua Bảo Ðại thoái vị, chính phủ Trần Trọng Kim
bị giải tán và một chính phủ lâm thời do ông Hồ Chí Minh làm chủ tịch ra mắt
quốc dân ngày 2-9-1945.
Trong
thời điểm này, đảng CSVN do ông Hồ Chí Minh cầm đầu còn yếu kém hơn các chính
đảng Quốc Gia, chủ thuyết Cộng Sản còn xa lạ với dân chúng Việt Nam, thậm chí
người ta còn sợ hãi khi biết đó là một chủ thuyết ngoại lai vô thần (Chủ
nghĩa tam vô: Vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo),
nên ông Hồ đã phải bất đắc dĩ chia xẻquyền hành với các chính đảng quốc gia và
các nhân sĩ ái quốc. Một chính phủliên hiệp Quốc-Cộng đầu tiên được thành lập
và ngày 2-9-1945, Ông Hồ Chí Minh trong cương vị Chủ Tịch Chính Phủ liên hiệp
Quốc-Cộng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, đã đọc Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập tại vườn hoa
Ba Ðình Hà Nội. Bản tuyên ngôn này được ông Hồ ngụy trang bằng những tư tưởng
Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và Bình Ðẳng, lấy ý tưởng từ Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập
Hoa Kỳ, rằng ‘‘Tạo Hoá sinh ra con người có quyền tự do và bình đẳng,
không ai có quyền cướp đi quyền tự do và bình đẳng ấy…”, để lừa mị nhân
dân và che mắt thế giới. Ðể rồi sau đó, một Quốc Hội Lập Hiến kiêm lập pháp
liên hiệp Quốc-Cộng được hình thành, soạn ra bản Hiến Pháp Việt Nam đầu
tiên ngày 9 tháng 11 năm 1946, khai sinh ra chế độ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà. Tất nhiên, cũng để ngụy trang, hiến pháp này đã được dựa trên hệ tư
tưởng tự do, dân chủ Phương Tây, với tam quyền phân lập.
Hệ tư tưởng CS và tính chuyên chính vô sản chưa có chỗ đứng trong
bản hiến pháp này.
Nhưng
rồi, giành được độc lập không được bao lâu, quân Pháp trở lại, sau nhiều thương
lượng không thành, ngày 19-12-1946 chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà rút vào
bí mật, phát động toàn dân kháng chiến trường kỳ. Măt Trận Việt Minh đóng vai
trò chủ đạo, kêu gọi đoàn kết toàn dân chống Pháp, tiếp tục bị đảng CSVN khống
chế, giành quyền chủ đạo kháng chiến, sau khi loại trừ các chính đảng Quốc Gia.
Trên thực tế, chính phủ , quốc hội liên hiệp Quốc-Cộng hoàn toàn bị
đảng Cộng Sản Việt Nam chiếm dụng.
Cuộc
kháng chiến gian khổ và bằng xương máu của mọi tầng lớp nhân dân yêu nước Việt
Nam sau 9 năm đã đánh đuổiđược thực dân Pháp, nhưng đất nước lại rơi vào th‰ gọng
kìm của một thế chiến lược quốc tế mới, hình thành sau Thế Chiến II
(Chiến tranh Ý Thức Hệ: Cộng Sản Chủ Nghĩa
và Tư Bản Chủ Nghĩa).
Hiệp định Geneve 1954 do các cường quốc hoạch định, đã đưa đến tình trạng chia
cắt Việt Nam làm đôi (Ðiều 1). Nửa nước Miền Bắc từ vĩ
tuyến 17 trở lên thuộc quyền thống trị của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Nửa nước Miến Nam từ vĩ tuyến 17 trở xuống chủ quyền được trao hoàn
toàn lại cho Nam Triều mà một phần chủquyền trước đó Pháp đã chẳng đặng đừng xử
dụng lá bài Bảo Ðại, trao trả từng bước cho các chính phủ Quốc Gia
(Chính phủ Nguyễn Văn Xuân thành lập cuối tháng 5-1948, rồi Trần văn Hữu,
Nguyễn Văn Tâm…). Vua Bảo Ðại trong vai trò Quốc Trưởng của chế độ Quân Chủ
Chuyên Chế Việt Nam đã tiếp nhận chủ quyền sau cùng này cho một Chính Phủ Quốc
Gia.
2.-
Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Miền Bắc việt Nam (1959)
Sau
khi giành được một nửa đất nước, Ðảng CSVN tiếp tục giữ cái
vỏ chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà thành
lập từ năm 1946, để che đậy cái ruột Xã Hội Chủ Nghĩa với
bản hiến pháp 1959.
Nội
dung bản hiến pháp này về cơbản chỉ là sự rặp khuôn hiến pháp Liên Sô, thêm
thắt đội điều cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ thực tiễn Việt Nam, trong
tương quan với cộng sản quốc tế. Cụ thể là làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc,hoàn
thành Cách Mạng Dân Tộc Dân Chủ ở Miền Nam (Thực chất là
tiến hành chiến tranh thôn tính Miền Nam), để
hoàn thành nghĩa vụ quốc tếvô sản. Ngoài việc giữcái vỏ chế
độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà của Hiến Pháp Việt Nam năm 1946, cờ và quốc ca
cũngđược giữ lại (Cờ đỏ sao vàng, bài Tiến Quân Ca). Sở dĩ đảng CSVN giữ
lại những gì vừa kể của năm 1946, là nhằm những lợi ích chính trị sau đây:
-Một
là CSVN muốn chứng tỏ chế độ và chính phủ Miền Bắc lúc bấy giờ là chính danh,
còn chế độ Quân Chủ Chuyên Chế lúc ÇÀu và sau ÇóChính Phủ Quốc Gia ở Miền Nam
là ngụy danh, là ‘‘ Tay sai Ðế Quốc Mỹ”. Ý đồ của CSVN là muốn
nhân dân trong nước và dư luận quốc tế lầm tưởng rằng, chế độ, chính quyền Miền
Bắc hiện tại là kếthừa chính danh chế độ chính quyền đầu tiên sau khi giành
được độc lập năm 1945. R¢ng Quốc hội và chính phủ ấy đã vào bưng biền kháng
chiến, nay chiến thắng thực dân Pháp, trở về thủ đô Hà Nôi tiếp tục lãnh đạo
một nửa đất nước, với hai nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng Miền Bắc Xã Hội Chủ
Nghĩa, tiếp tục kháng chiến ”Chống Mỹ cứu nước”, để giải phóng Miền Nam,
tiến đến thống nhất đất nước.
-Hai
là CSVN muốn chứng tỏ ‘‘Cuộc kháng chiến chống Mỹ” mang ý nghĩa một cuộc chiến
chống ngoại xâm, để người dân hai miền và dư luận quốc tế lầm
tưởng Mỹ cũng như Pháp trướcđây, đều là thực dân, đế quốc thay nhau khai thác
Việt Nam, khác chăng là Pháp‘‘Thực Dân Kiểu Cũ”, còn Mỹ là ‘‘Thực Dân Kiểu Mới”
khai thác “Thuộc Ðịa Kiểu Mới”. R¢ng Chế độ và chính quyền ở Miền Nam không
có chính danh, vì Vua Bảo Ðại đã thoái vị cùng với chế độ Quân Chủ Chuyên Chế
Việt Nam đã cáo chung năm 1945, khai sinh ra chế độ Viêt Nam Dân Chủ Cộng Hoà
mà CSVN đang kế thừa…
Thực
tế cho thấy, cả hai ý đồ trên, CSVN đãđạt được phÀn nào, vì đã lừa mị được
nhiều người Việt Nam và dư luận quốc tế ít am hiểu tình hình và không bi‰t ÇÜ®c
những thủ đoạn tuyên truyền tinh vi của CSVN. Ðặc biệt là sau khi quân đội Hoa
Kỳtrực tiếp tham chiến tại Việt Namđã giúp cho thủ đoạn tuyên truyền này có
hiệu quả thực tiễn. Ðây cũng chính là một trong những yếu tố căn bản, giúp cho
CSVN được chọn là kẻ chiến thắng khi kết thúccu¶c nội chiến ý thức hệ tạiViŒt
nam, dù chỉ là chiến thắmg biểu kiến (giảtạo)
và có tính cáchgiai đoạn, khi có nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới
của các cường quốc cực nói chung và Hoa Kỳ nói riêng.
3.-
Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1956 và 1967)
Trong
khi đó, nửa nước Miền Nam Việt Nam chủ quyền độc lập được trao trảcho Nam
Triều, với tư cách thừa kế chính danh chû quyŠn ÇÃt nܧc, thì đã gặp nhiều nỗi
oan khiên.
Chính
danh vì trước sau Vua Bảo Ðại vẫn là biểu tượng Quốc Gia, tiếp nối chủ quyền
quốc gia theo truyền thống lịch sử dân tộc. Việc trao trả
độc lập cho Việt Nam trong điều kiện tranh tối tranh sáng năm 1945, chỉ là
gượng ép, giả tạo do sự đạo diễn của Phát Xít Nhật. Vua Bảo đại thoái vị cũng
chỉ là sự cưỡng ép của CSVN. Thời gian độc lập ngắn ngủi trên nguyên tắc pháp
lý thì có, song thực tếthì ViŒt Nam vÅn chưa có chủ quyền. Tất cảchỉ là sự vá
víu trong vội vã. Sau đó Pháp trở lại tiếp tục đô hộ, triều đình nhà Nguyễn
tiếp tục trị vì với một phần chủ quyền được Pháp trao trả; Ðể rồi, trước áp lực
của xu thế thời đại, chủ nghĩa thực dân phải cáo chung (Phải trao trả quyền
Ðộc lập tự chủ cho các dân tộc bị trị), và tình hình thực tế ngày càng bất
lợi, Pháp đã phải trao trả chủ quyền từng bước cho chính phủ Nam Triều (Chính
phủ Quốc Gia năm 1948, Quân Ðội Quốc Gia năm 1950…) và
sau cùng trao trả độc lập hoàn toàn cho Chính Phủ Quốc Gia theo Hiệp Ðịnh
Genève năm 1954 mà Hoàng ÐếBảo Ðại vẫn là người đại diện chính danh, hợp pháp
và có thẩm quyền tiếp nhận.Dođó, Miền Nam Việt Nam lúc đầu vẫn là chế độ Quân
Chủ Chuyên Chế, với cờ và quốc ca được chọn trước đó tiếp tục lưu dụng
(Cờ vàng ba sọc đỏ, bài Thanh Niên Hành Khúc sửa lời để làm Quốc Ca…).
Thế
rồi, trong vòng một năm sau ngày độc lập, với sự hậu thuẫn và dàn dựng của Hoa
Kỳ (Với tư cách lãnh đạo ThếGiới Tự Do trong thế chiến lược quốc tế mới sau
Thế Chiến Hai) ông Ngô Ðình Diệm, một nhà ái quốc Việt Nam đang sống lưu
vong ở Mỹ, sau khi được Quốc Trưởng Bảo Ðại bổ nhiệm chức vụ Thủ Tưởng Chính
Phủ Quốc Gia, đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23-10-1955 trên toàn
lãnh thổ Miền Nam Việt Nam. Kết quả là người dân đã bãi bỏ chế độ
Quân Chủ Chuyên Chế, thiết lập hàng ngàn năm ở nước ta, Vua Bảo Ðại bị truất
phế, chế độ Dân Chủ Lập Hiến với Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày
26-10-1956. Thủ tướng Ngô Ðình Diệm được ‘‘suy tôn’’ ngôi
vị Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà.
Ðây
có thể coi là bản Hiến Pháp thứ hai của Viêt Nam, sau Hiến Pháp năm 1946, đều
dựa trên hệ tư tưởng triết lý Duy Tâm, chû thuy‰t chính trị Tự Do, Nhân
Quyền,Dân Quyền Tây Phương (Chû thuy‰t CÀn Lao Nhân VÎ)., nhằm xây
dựng một thể chế Tự Do Dân Chủ, hình thành một ‘‘Xãhội
nhân bản hữu thần’’,đối kháng với chế độ Chuyên Chính Vô Sản Miền
Bắc, xây dựng trên nền tảng triết lý Duy Vật, chû thuy‰tchính trị Cộng Sản
chuyên chế(Ðộc tài), nhằm hiện thực một ‘‘Xã
hội Xã Hội Chủ Nghĩa vô thần”.
Chín
năm sau, ngày 1-11-1963 Hoa Kỳ đã hổ trợ cho một nhóm Tướng Tá trong Quân Ðội
Việt Nam Cộng Hoà làm cuộcđảo chánh, Tổng Thống Diệm bị thảm sát, người Mỹ trực
tiếp tham chiến, làm mất chủ quyền và chính nghĩa đấu tranh của chính quyền và
nhân dân của một chế độdân chủ non trẻ mới hình thành ở Miền Nam Việt Nam.
Nền
Ðệ I Việt Nam Cộng Hoà cáo chung. Bản Hiến Pháp Ðệ Nhị Viêt Nam Cộng Hoà ra đời
ngày 1 tháng 4 năm1967,vẫn trên nền tảng tư tưởng triết lý Duy Tâm, chû thuy‰t chính
trị là hệ tư tưởng dân chủ Phương Tây hữu thần.
Trong khi nền tảng triết lý, chính trị hiến pháp và chế độ của những
người CSVN ở Miền Bắc, dù vẫn giữ cái vỏ chế độ Việt Nam Dân Chủ Công Hoà của
hiến pháp năm 1946, nhưng thực chất và thực tế đã là chế độ xã hội chủ nghĩa vô
thần.
3.-Hiến
pháp Cộng Hòa Xã hội Chủ nGhĩa Việt Nam (1980 và 1992)
Chính
sự khác biệt này và do chủ trương dùng bạo lực để ápđặt môt thể chế độc tài
toàn trị trên toàn cõi Viêt Nam, CSVN đã tiến hành một cuộc chiến tranh nhằm
thôn tính Miền Nam Viêt Nam. Cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn do CSBV phát
động kéo dài trên 20 năm (1954-1975), đã chỉ được các thế lực khuynh đảo quốc
tế cho chấm dứt vào ngày 30-4-1975, khi có nhu cầu thay đồi thế chiến lược quốc
tế, với vai trò thắng trận được dành cho kẻ chủ mưu phát Ƕng chi‰n tranh là
CSVN. Sau “Chiến thắng biểu kiến” này, CSVN đã thống nhất đất nước về
mặt pháp lý bằngmột bản hiến pháp với danh xưng đúng thực chất chế
độ, mà đã đến lúc họ không còn cần phải dấu diếm: Hiến Pháp Nước Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ban hành năm 1980 và
được tu chính các điều khoản không căn bản vào năm 1992. Bản
hiến pháp này chỉ là sự sao chép về căn bản của Hiến Pháp Nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Liên Bang Xô Viết gọi tắt là Liên Xô. Ðó là bản hiến pháp đã xác định
đặt trên nền tảng triết lý Duy Vật (Mác-Lê) và chủ thuyết Cộng Sản vô thần, với
vai trò độc quyền thống trị của đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện chế độ độc
tài toàn trị cộng sản.
Ðến
nay, sau 37 năm thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa theo gương Liên Xô cả vŠ pháp
lý (Hiến Pháp, pháp luật, hành chánh công quyền…) lẫn thực tiễn (Ch‰
Ƕ chuyên chính vô sän),đảng CSVN đã tàn phá làm bæng hoåitoàn diện đất
nước. Liên Xô vốn được đảng CSVN xưng tụng là “ Tổ Quốc Xã Hội
Chủ Nghĩa” nay đã sụp đổ hơn hai thập niên qua
(1991-2012). Sự tiêu vong chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Namđã như một
tất yếu, chỉ còn là vấn đề thời gian tính theo năm tháng. Nhiều
cán bộ đảng viên CSVN cao cấpđã phản tỉnh, sám hối và công khai đòi hủy bỏ hiến
pháp lỗi thời, chuyển đổi sang chế độ Tự Do Dân Chủ Ða Nguyên.Những
khuynh hướng giữa người Việt Nam từng là mâu thuẫn đối kháng một thời, nay có
cơ hội gặp nhau ở nỗ lực chung: Ðấu tranh cho một nền Dân Chủ Ða Nguyên tại
Việt Nam, vì lợi ích tối thượng của đất nước, dân tộc và con nguời Việt Nam thế
hệ hiện tại cũng như tương lai.
Mặc
dầu thiểu số đảng viên CSVN cầm quyền còn ngoan cố,chỉ thị cho Quốc hội đương
nhiệm sửa đổi Hiến pháp lần này vẫn không theo chiều hướng dân chủ đa nguyên, song
ai cũng tin một cách có cơsở thực tiễn rằng, chẳng bao lâu nữa, chế độ Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Viêt Nam sẽ mệnh chung như Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩađàn anh ở Ðông Âu. Vả lại, thực tế chế độ “Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” hiện nay chỉ còn là cái
vỏ bọc (đỏvỏ xanh lòng)
của một chế độ dựa trên nền tảng chủ nghĩa thực dụng; Cái gọi là “Nền
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
chỉ là sự ngụy biện duy ý chí, trái với thực tiễn. Thực tiễn “Nền
kinh tế thị trường đã và đang theo đinh hướng tư bản chủ nghĩa”
là một tất yếu.
II/-
CHÚNG TA CẦN CHỌN NỀN TẢNG TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ NÀO CHO BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM
TƯƠNG LAI?
Một
khi đã nhìn từquá khứ đến hiện tại để rút ra những bài học kinh nghiệm cần
thiết về pháp lý cũng như thực tiễn, để hướng tới tương lai, chúng ta tự hỏi,
rồi đây, giả định trong vòng những năm cuối thập niên thứ hai của Thế Kỷ 21
này, chế độ hiện hũu tại Việt Nam hủy thể cách này cách khác, cùng lúc bản hiến
pháp hiện hành bịtiêu hủy, các nhà lập hiến Việt Nam tương lai khi soạn thảo
hiến pháp mới sẽchọn nền tảng tư tưởng triết lý, chính trị nào: Duy Thần, Duy
Tâm, Duy Vật hay duy …gì?
Ðể
trả lời câu hỏi này, theo thiển ý xin đề nghị với các nhà lập hiến Việt Nam
tương lai, rằng chúng ta không nên chọn một hệ tưtưởng triết
lý, chính trị độc tôn nào để làm nền tảng tư tưởng cho Dự Thảo Hiến Pháp Việt
Nam Tương Lai.
Vì
sao?
Là
vì ai cũng biết, Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung, trong quá khứ đã
từng là nạn nhân khốn khổ của sự lựa chọn độc tôn một hệ tư tưởng triết lý,
chính trị, trên đó hình thành một thể chế chính trị và một mô hình xã hội.
Trong lịch sử phát triển nhân loại, nhiều cuộc chiến tranh chủng tộc, tôn giáo
và gần nhất là cuộc Chiến Tranh Ý Thức Hệ vừa qua giữa Cộng
Sản Chủ Nghĩa và TưBản Chủ Nghĩa
(Mà Việt Nam là một nån nhânđiển hình bi thảm) đều
là hậu quả của sự chọn lựa hệ tư tưởng triết lý, chính trị độc tôn.
Vì
vậy, hướng tới tương lai, chúng tôiđề nghị, chúng ta sẽ không chọn một hệtư
tưởng triết lý, chính trị độc tôn, duy nhất nào, mà nên chọn một nền tảng tư
tưởng triết lý tổng hợp cho dự thảo Hiến Pháp Việt Nam Tương Lai (đa
nguyên). Nghĩa là, chúng ta sẽ chọn lựa trong tất cả các hệ tưtưởng triết
lý, chính trị của nhân loại, những giá trị nhân bản hữu ích và thích dụng cho
con người và đất nước Việt Nam, để hình thành một chủ thuyết chính trị thích
hợp cho một thể chế và mô hình xã hội Việt Nam tương lai, có tính khả thi, tính
thuyết phục, thể hiện được ý nguyện của tuyệt đại đa số quốc dânViệt Nam, vốn
là những công dân của Tổ Quốc Việt Nam, ở trong nước cũng như hải ngoại, luôn
thiết tha với tiền đồ dân tộc.
Vì
suy cho cùng, hệ tư tưởng triết lý, chính trị nào thì cũng xuất phát
từ con người (nguồn gốc) do con người (Chủ thể tư duy)vì
con người (lš do tÜ duy) và cho con người (Ðối tượng tÜ
duy phøc vø). Ðó là những sản phẩm tri thức chung của nhân loại, hình thành
từ những tư duy và nhận thức cá nhân, song ít nhiều được ngưỡng mộ của các tập
thể con người khác nhau, nên vừa có giá trị tuyệt đối của một chân lý tuyệt đối
về mặt chủ quan (Ðối với triết gia, các nhà lập thuyết và nhóm người ngưỡng
mộ), vừa có giá trịtương đối của một chân lý tương đối về mặt khách quan (Ðối
với những người khác quan điểm). Thành ra, trong bối cảnh xã hội loài
người, gồm nhiều cá nhân bất đồng về nhiều phương diện nhưng có nhu cầu phải
sống chung để mưu cầu hạnh phúc riêng cũng như chung, con người phải chấp nhận
và thừa nhận những bất đồng trong đó có bất đồng tư tưởng.
Do
đó vấn đề cần yếu chỉ còn là phải biết lựa chọn trong các hệ thống triết lý(Duy
Thần, Duy Tâm, Duy Vật, …) những
quan niệm có giá trị nhân bản, phù hợp với thực tiễn, kết hợp tư duy sáng tạo,
kinh nghiệm sống, đúc kết, tổng hợp và hệ thống hoá thành một chủ thuyết chính
trị thích dụng cho ÇÃt nܧc và con người Việt Nam, trong một hình thái tổ chức
xã hội nhấtđịnh.
Một
nền tảng tư tưởng có tính tổng hợp như vậy, chúng tôi tạm gọi là ‘‘Triết Lý
Duy Nhân”(Personnism), trênđó chúng ta hình thành một Chủ nghĩa Dân Bản
(Peopleism), để xây dựng một mô hình “Xã Hội Công Dân” (Citizen
Society) hay “Xã Hội Dân bän” (Peopleist Society), lấy
dân làm gốc. Dự Thảo Hiến Pháp Việt Nam Tương Lai được soạn thảo trên căn bản Chủ
Thuyết Dân Bản sẽ định tính, định hình, định vị vàđịnh hướng cho thể chế
chính trị và mô hình xã hội Việt Nam tương lai phù hợp với ý nguyện chung của
quốc dân Việt Nam.
Sở
dĩ chúng tôi đề nghị một nền tảng tư tưởng triết lý tổng hợp Duy Nhân
(Coi con ngÜ©i là trung tâm), là vì nó phù hơp với
thực trạng con người và xã hội Viêt Nam nói riêng, cộng dồng nhân loại nói
chung. Ðối với Việt Nam, thực trạng là, con người Việt Nam có nhiều
trình độ hiểu biết và nhận thức khác nhau, xã hội Việt Nam có nhiều thành phần
dân t¶c (ña s¡c t¶c), khác biệt về tư tưởng triết lý (Duy Thần, Duy
Tâm, Duy Vật cùng hiện hữu), về chính kiến (Cộng hoà, dân chủ, xã hội…),
về tín ngưỡng(Ða tôn giáo, tín ngưỡng…). Nhưng tất cả con người khác
biệt ấy, đều là con người (nhân bản)có nhu cầu phải sống chung trên đất
nước Việt Nam,để cùng mưu cầu hạnh phúc riêng cũng như chung. Muốn vậy mọi
người phải tương nhượng chấp nhận lẫn nhau và thừa nhận những bất đồng tư tưởng
của nhau.
Riêng
lãnh vực tư tưởng,một nền tảng triết lý tổng hợp (Duy
Nhân) , sẽ giúp giải quyết được mọi bất đồng, cá biệt, hoá giải được
những xung đột ý thức hệ từ quá khứ đến hiện tại và cả tương lai nữa. Ðiều này
cũng phù hợp Lý Tưởng Tự Do, Nhân Quyền( Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng một hệ tư tưởng, hay tôn giáo…), phù
hợp với chế độ Dân Chủ Ða Nguyên mà mọi người đang muốn thiết lập(Mọi
khuynh hướng chính trị đều được thừa nhận và tôn trọng, dù chỉ là của một cá
nhân hay thiểu số), phù hợp với Nguyên Tắc
Sinh Hoạt Dân Chủ (Ða số thắng thiểu số,
thiểu số phải phục tùng quyết nghi của đa số, nhưng thiểu sốcó quyền bảo lưu ý
kiến mà đa số cũng phải tôn trọng…).
Ðối
với cộng đồng nhân loại cũng thế, con người trong một quốc gia và giữa các quốc
gia cũng có nhiều khác nhau về kiến thức và khả năng nhận thức, sáng tạo,
khuynh huớng chính trị, tín ngưỡng và tôn giáo, sắc tộc…
Một
nền tảng triết lý tổng hợp (Duy Nhân) sẽ giúp cho mọi con người sống
trên hành tinh này có cái nhìn chung ‘‘Nhân Bản”,
biết thừa nhận những giá trị nhân bản của mọi sản phẩm tri thức của con người
và luôn luôn cư xử với nhau trên nền tảng chung ‘‘Con Người với con
Người”. Và như thế có thể loại trừ được những nguy cơ chiến tranh Ý
Thức Hệ (Do chọn ý thức hệ độc tôn), chiến tranh Tôn Giáo
(Do chủ nghĩa Tôn Giáo Cực Ðoan), Chiến tranh Chủng Tộc (Do
chú nghĩa Dân Tộc cực đoan), chiến tranh xâm lược (Do chủ nghĩa
ñ‰ QuÓc, bá quyền vàQuốc Gia cực đoan).
Ðồng
thời chỉ có như thế mới có một căn bản Pháp Lý Quốc Tếvững chắc để hành xử
Quyền Tài Phán Quốc Tế, v§imột hŒ thống Toà Án Quốc Tế có thẩm quyền trên mọi
quốc gia, Ç‹ có th‹chế tài mọi cá nhân, tập đoàn nắm quyền bính hay không, mà
vi phạm tội ác chống nhân loại.
Vì
một khi lấy con người làm gốc (Nhân Bản), các luật pháp quốc tế bảo vệ
con người gọi chung là “Nhân Luật” mới có hiệu lực bao trùm lên mọi chủ
quyền và luật pháp quốc gia. Ðiều này cũng phù hợp với chiều hướng phát triển
hiện nay của thế giới : Toàn cầu hoá nhiều lãnh vực, nhÜ kinh tế, pháp
lý, chính trÎ quÓc t‰. Theo đó, nhân danh con người, vì con người, các
nước Giầu-Nghèo đang có nỗ lực hợp tác để cùng nhau thiết lập một nền ‘‘Trật
Tự Thế Giới Mới” hay là “Một Hệ Thống Kinh Tế Quốc
tế Mới”, trong đó mọi con người, thuộc mọi sắc tộc, quốc gia, có điều kiện
thuÆn l®i Ç‹ mÜu cÀu hånh phúc và được sống xứng đáng với nhân phẩm và cương vị
của một con người, giảm thiểu đói nghèo, khổ đau cho toàn nhân loại trên hành
tinh này trong hiện tại cũng như cùng hướng về tương lai ngày càng tốtđẹp.
III.-
KẾT LUẬN:
Ðể
kết luận bài tham luận này, chúng tôi xin dùng biểu đồ ba cái tháp tượng trưng
cho ba loại thể chế chính trị dựa trêm ba nền tảng triết lý khác nhau: Tháp
Duy Tâm, nghiêng về phía hữu (hữu khuynh). Tháp Duy Vật, nghiêng
phía Tả (Tả khuynh). Tháp Duy Nhân,đứng thẳng, luôn luôn cân
bằng vì xây dưng trên nền tảng Con Người(Chủ thể của mọi tư
duy và là đối tương phục vụ của mọi sản phẩm tri thức, của mọi chủ thuyết chính
trị, chủ thể xã hội và là đối tượng phục vụ của mọi hình thái tổ chức xã hội
loài người)
Chính
trên nền tảng triết lý tổng hợp này, chúng ta có thể hình thành một chủ thuyết
chính trị thích dụng, trên đó các nhà lập hiến Việt Nam có thể soạn thảo ra một
Hiến Pháp Dân Chủ Ða Nguyên, đáp ứng đúng nguyện vọng của Quốc dân Việt Nam
trong cũng như ngoài nước và phù hợp với xu thế thờiđại, với chiều hướng phát
triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam.
.
Thiện
Ý
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment