[Attachment(s)
from Huu Dong Nguyen included below]
Trân trọng kính chuyển.
NHDong
QUYỀN BÌNH ĐẲNG TÍCH CỰC, THỰC HỮU, KIỂM SOÁT
BẮT BUỘC ĐỂ BẢO VỆ
NGUYỄN HỌC TẬP
" Mọi người đều có điạ vị xã hội như nhau và bình đẳng
trước pháp luật. Không ai có thể được ưu đải hay bị thiệt thòi vì lý do phái
giống, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều kiện cá nhân hay xã
hội" ( Điều 3, đoạn 1 và 3, Hiến Pháp 1949 Cộng hoà Liên Bang Đức).
Nền Cộng Hoà có nhiệm vụ dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về các
phương diện kinh tế và xã hội là những chướng ngại vật, trong khi giới
hạn thực sự tự do và bình đẳng của người dân, cản trở mỗi cá nhân triển nở hoàn
hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực vào các tổ chức chính
trị, kinh tế và xã hội của xứ sở " ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý
Quốc).
A - Luật thực định và quy trách.
Chủ đề của điều đang bàn nói về quyền bình đẳng, một trong những
đặc tính nền tảng của thể chế Nhân Bản và Dân Chủ.
Quyền bình đẳng được tuyên bố dưới hai hình thức:
- thuyết lý ( formelle), điều 3, đoạn 1 Hiến Pháp 1949
CHLBD.
- và tích cực và thực hữu ( substantielle), điều 3 đoạn 2,
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc.
Nhưng chúng ta sẽ không thể hiểu được sứ điệp cao cả Văn Bản Thể
Chế Nhân Bản và Dân Chủ, mà chúng ta mong muốn cho tương lai Việt Nam,
nếu chúng ta bình luận tách biệt hai phần được trích dẫn , như là hai
phần của một bản văn không liên hệ gì nhau.
Bởi lẽ cả hai đều liên hệ với con người , như là nhân
vị ( persona) có phẩm giá và các quyền tự do của mình bất khả xâm
phạm, liên hệ đến Phẩm Giá Con Người và Tự Do Cá Nhân, hai đề tài chúng ta đã
có dịp bàn đến.
Và liên hệ với hai điều vừa kể ( nhân phẩm và tự do cá nhân bất
khả xâm phạm), là một số các quyền liên hệ để bảo đảm cho con người có được
một cuộc sống xứng đáng với địa vị con người của mình, chúng tôi sẽ liệt kê dựa
vào Hiến Pháp Nhân Bản và Dân Chủ Ý Quốc ở những dòng tới.
Trở lại đề tài chính, đoạn 1, quyền bình đẳng cá nhân được tuyên
bố dưới hình thức tiêu cực thuyết lý ( negativa e formale):
" Mọi người đều có địa vị xã hội ngang nhau và bình đẳng
trước pháp luật. Không ai có thể được ưu đải hay bị thiệt thòi vì lý do phái
giống, chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều kiện cá nhân hay xã hội "
( Điều 3, đoạn 1 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
Đọc điều tuyên bố vừa kể, chúng ta có cảm tưởng đọc những lời
tuyên bố về bình đẳng đã từng gặp ở các hiến pháp thể chế tự do của thời trước
thế chiến II, hay không có gì mới lạ đối với các Hiến Pháp Cộng Sản, kể cả Hiến
Pháp 1977 Liên Bang Sô Viết và 1992 CSVN .
Các Hiến Pháp đặt nhân phẩm và quyền bất khả xâm phạm của
con người trên luật tự nhiên hay theo quan niệm thoả ước, trong đó có cả hiến
pháp Weimar 1919 của Đức, một lời tuyên bố trên nguyên tắc để tuyên bố,
và dành cho Quốc Gia mọi quyền lập luật tùy hỷ, " État de législation ".
Chúng ta có cảm tưởng như vậy, vì chúng ta đã quên rằng những lời
tuyên bố Hiến Pháp chúng ta mong ước cho tương lai của Việt Nam phải
chứa những điều khoản luật có giá trị bắt buộc và có chủ thể được chỉ
định để quy trách, như tinh thần của Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức,
thoát xuất từ kinh nghiệm độc tài hãi hùng của Hitler:
- " Các quyền căn bản được kể sau đây có giá
trị bắt buộc đối với các cơ chế Quốc Gia, lập pháp, hành pháp và tư pháp, như
là những quyền đòi buộc trực tiếp" ( Điều 1, đoạn 3 Hiến Pháp 1949
Cộng Hoà Liên Bang Đức).
Và với điều khoản vừa kể, Hiến Pháp đã đặt con người với nhân phẩm
và các quyền bất khả xâm phạm của mình như là giá trị nền tảng của hệ thống
luật pháp thực định ( lois positives) cho thể chế Quốc Gia, đặt vào
chính trong thân bài của Hiến Pháp và quy trách cho ai là chủ thể phải chịu
trách nhiệm hình luật, dân luật và cả luật hành chánh, nếu quyền của con người
bị xúc phạm.
Nói cách khác, Thế Chế Nhân Bản và Dân Chủ đa nguyên, mà chúng ta
mong cho Việt Nam trong tương lai, không đặt nền tảng trên quan
niệm trừu tượng về con người, mà trên nền tảng pháp luật thực định.
Bởi vì nền tảng củaThể Chế và Dân Chủ đa nguyên, trên đó Việt Nam
tương lai được xây dựng là nền tảng của một thể chế nhằm tổ chức cuộc chung
sống Cộng Đồng Quốc Gia, dựa trên pháp luật thực định ( lois positives) , có
hiệu lực luật định, để xếp đặt và điều hành cuộc sống giữa người và
người, hoạt động của người nầy liên hệ và hỗ tương người khác được thực
thi trôi chảy và hữu hiệu.
Nói như vậy, không có nghĩa là nền tảng Thể Chế Nhân Bản và Dân
Chủ đa nguyên của Việt Nam trong tương lai không chấp nhận
- quan niệm trừu tượng về con người,
- quan niệm luật tự nhiên,
- quan niệm tôn giáo và triết học,
mà là, ngoài ra quan niệm luật tự nhiên được tiên định trước
(présupposé), Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ đa nguyên của chúng ta còn
- cần đặt giá trị về nhân phẩm và các quyền bất
khả xâm phạm của con người trong mối liên hệ ảnh hưởng hỗ tương giữa
người với người trong cuộc sống xã hội
. và với những phương thức bảo đảm mối liên hệ hỗ
tương đó bằng hệ thống pháp luật thực định.
Con người với nhân phẩm cao cả của mình trong Thể Chế Nhân Bản và
Dân Chủ đa nguyên của chúng ta
- là con người cao cả với những giá trị của mình,
- nhưng không trừu tượng và đơn độc,
- mà là con người được Hiến Pháp " nhận biết
và bảo vệ "( Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBD) nhân phẩm của mình
trong liên đới với những chủ thể con người khác, cũng có nhân vị đồng
đẳng như mình , cùng sống và cùng hoạt động với mình trong cộng đồng Quốc Gia
để đem lại lợi ích cho chính mình và cho cuộc sống chung.
Đó là quan niệm con người toàn diện ( persona integrale)
- trong chiều sâu thẩm của một nhân vị,
- trải ra trong chiều rộng đối với đồng bào và người đồng loại của
mình trong tương quan xã hội,
- và trong chiều hướng thượng của mình đối với các giá trị tôn
giáo, đối với Đấng Tối Cao, cùng đích của mình phải đạt đến sau cuộc sống trần
thế ( J. Maritain, Humanisme intégral, trad. it, Studium,
Roma 1946),
những giá trị tối thượng đó trong Thế Chế Nhân Bản và
Dân Chủ đa nguyên của Việt Nam, được hiện thực hoá bằng luật pháp thực định.
Và với quan niệm con người toàn diện, một nhân vị với nhân phẩm và
các quyền bất khả xâm phạm của mình, Hiến Pháp tương lai phải nghĩ ra phương
cách để bảo vệ cho mỗi người được quyền kính trọng trong địa vị con người của
mình.
Hiến Pháp nghiêm cấm mọi cách đối đãi thiên vị dựa trên những dị
biệt không tuỳ thuộc vào bản tính nhân loại của con người:
" Mọi người có địa vị xã hội ngang nhau và bình đẳng trước
pháp luật. Không ai có thể được biệt đải hay bị thiệt thòi vì lý do phái tính,
chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, điều kiện cá nhân hay xã hội" (
Điều 3, đoạn 1 và 3 Hiến Pháp 1949 CHLBD).
B - Bình đẳng tích cực.
Nhưng nếu tinh thần của những gì chúng ta vừa đọc, được trình bày
qua lời tuyên bố quyền bình đẳng của Hiến Pháp dưới hình thức tiêu cực: bình
đẳng có nghĩa là không được đối đãi một cách thiên vị ( Điều 3, đoạn 1 Hiến
Pháp 1949 CHLBD).
thì đoạn kế tiếp của điều khoản ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947
Ý Quốc) cho chúng ta có một cái nhìn tích cực hơn về quan niệm bình đẳng của
Hiến Pháp: bình đẳng là được Quốc Gia trợ lực, giúp đở những gì mà cá nhân
tự mình không thể vượt thắng để thực hiện được.
Được Quốc Gia trơ lực: dẹp bỏ đi những trở lực, để mỗi
người có điều kiện thuận lợi
- phát triển hoàn hảo con người của mình
- và hoạt động góp phần làm lợi ích cho đất nước.
Đó là bình đẳng trong lòng Quốc Gia và nhờ tổ chức Quốc Gia (
égalité dans..., égalité par moyen de...):
" Bổn phận cua Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng
ngại vật về các phương diện vừa kể, là những chướng ngại, trong khi giới hạn
thât sự tự do và bình đẳng của người dân, không cho phép mỗi cá nhân
triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực và các tổ
chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở " ( Điều 3, đoạn 2 Hiến
Pháp 1947 Ý Quốc).
Trước hết trong đoạn vừa trích dẫn, Hiến Pháp nêu cho chúng ta mục
đích của tổ chức Quốc Gia.
Quốc Gia được tổ chức
- không phải để trở thành cường quốc, đem quân đánh
chiếm làm bá chủ thiên hạ bành trướng như đế quốc Roma, hay như Thành Cát Tư
Hản, như Napoléon,
- cũng không phải để phát triển kinh tế vượt bực,
ngân sách quốc gia thặng dư và Quốc Gia giàu có bực nhứt thế giới, phóng vệ
tinh liên hành tinh,
- mà là tạo điều kiện thuận lợi để người dân có điều
kiện phát triển hoàn hảo chính mình và có khả năng hoạt động để góp phần tạo
phát triển cho xứ sở:
"... triển nở hoàn hảo con người của mình và tham dự một
cách thiết thực vào các tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở".
Những điều kiện phải có đó để con người có thể phát triển hoàn hảo
con người của mình, người dân Việt Nam chúng ta trong tương lại có quyền
đòi buộc và cơ chế Quốc Gia có bổn phận cung cấp cho, được Hiến Pháp quy trách:
" Bổng phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương
diện kinh tế và xã hội...".
Những điều kiện thuận lợi phải có đó không phải là ân huệ, mà
người dân phải ngửa tay xin, mà là quyền của người dân được Hiến Pháp xác nhận,
có thể đòi buộc ( actionable) , bằng các phương thức sẽ được Hiến
Pháp bàn đến, Quốc Gia phải tiên liệu cho qua câu nói, " Quốc Gia Việt
Nam có bổn phận".
Như vậy trong phần diễn tả " bình đẳng thực hữu "
( Điều 3, đọan 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc), Hiến Pháp đưa ra một phương cách tích
cực can thiệp của Quốc Gia để loại bỏ đi cách hành xử theo " ân huệ"
, " xin - cho", " thiên vị", " bè phái" vì
bất cứ lý do gì,
" Quốc Gia Việt Nam có bổn phận dẹp bỏ đi những chướng
ngại vật về các phương diện vừa kể...
",
là những chướng ngại vật làm cho người dân không được hưởng tự do
và bình đẳng của mình để
- " phát huy làm triển nở hoàn hảo con người của mình và
tham dư vào đời sống Quốc Gia " một cách bình đẳng như mọi người khác
( P. Perlingieri, Scuole, tendenze e metodi, Problemi del diritto
civile, Napoli, 1988, 150).
Nhưng có lẽ chúng ta không nên lầm lẫn giữa bình đẳng hiến định
nhân bản và bình đẳng san bằng mạc rệp của Xã Hội Chủ Nghĩa.
Địa vị xã hội ngang nhau, không có nghĩa là hoàn cảnh xã hội bằng
nhau " đồng nhứt rập khuôn mạc rệp vô sản như nhau "
Một xã hội không có khác biệt là xã hội không tưởng và là lý do
làm cho xã hội lạc hậu và mạc rệp, như xã hội Nga và Đông Âu trong suốt 70 năm
Cộng Sản Chủ Nghĩa ngự trị.
Những chướng ngại vật mà Quốc Gia có " bổn phận phải dẹp
bỏ đi " là những chướng ngại vật giới hạn thực sự tự do và bình
đẳng , cản trở con người không phát huy được hoàn hảo để biểu thị các tài năng
của mình.
Mỗi người được tự do khỏi bị các nhu cầu khẩn thiết ràng buộc, có
nghĩa là được Quốc Gia cung cấp cho các điều kiện thuận lợi để có thể tạo cho
mình và cho gia đình mình một cuộc sống xứng đáng khang trang và tự do.
Điều đó không có nghĩa là mỗi người đều phải có một gia sản tương
tợ nhau, giàu có như nhau hay bằng nhau ( theo chủ thuyết đần độn mỗi người làm
việc tùy khả năng và tiêu thụ tùy theo nhu cầu).
Nếu mọi người đều có địa vị xã hội ngang nhau và bình đẳng trước
pháp luật, thì không thể hiểu vì lý do gì trong những hoàn cảnh khác nhau, điều
kiện khác nhau, khả năng khác nhau, tổ chức Quốc Gia nói chung và pháp
luật nói riêng có thể đối đải đồng đều nhau, bởi lẽ công bình là điều kiện tiên
quyết để có bình đẳng hay nói như người La Tinh đã nói từ ngàn xưa:
" Suum cuique tribuere"
( Trao trả cho mỗi người những gì thuộc về của anh ta).
Và đó cũng là điều mà Viện Bảo Hiến Ý Quốc tuyên bố trong một số
quyết định: các hoàn cảnh kinh tế và xã hội không giống nhau có thể và phải
được đối xử theo phương thức khác nhau ( Corte Cost., 31-3.1961, n.21;
1.3.1973, n.23).
Qua những tư tưởng vừa đề cập, chúng ta thấy rằng Thể Chế Nhân Bản
và Dân Chủ đa nguyên, mà chúng ta mong ước cho Việt Nam, không
phải là thể chế " cá nhân chủ nghĩa" cực đoan, trong đó,
cá lớn nuốt cá bé, kẻ mạnh đè bẹp kẻ yếu hay nói như Cao bá Quát:
" Nước trong leo lẻo cá đớp cá,
Trời nắng chang chang người đánh người ",
nhưng cũng không phải là khuôn mẩu không tưởng để tổ chức xã hội
theo Xã Hội Chủ Nghĩa, Quốc Gia có nhiệm vụ phân phát đồng đều lợi tức cho dân
tùy theo nhu cầu của mỗi người, dĩ nhiên là với số lượng mạc rệp và giả sử nếu
có đủ để phát.
Điều 3, đoạn 2 của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc
- " Bổn phận của Nền Cộng Hoà dẹp
bỏ đi những chướng ngại vật..., không cho phép mỗi cá nhân ...
".
nêu lên nhiệm vụ của Quốc Gia là
- nhiệm vụ điều chỉnh lại những dị biệt quá đáng,
- bảo vệ mức sống và cơ may tối thiểu ( chances de
vie ) để mọi người có thể vươn lên.
Bởi lẽ bất cứ một cuộc chung sống tự do nào, tự do và sáng
kiến cá nhân, tự do và lợi thú là động lực để cầu tiến và phát triển,
cũng không tránh khỏi những dị biệt quá đáng sẽ được tạo ra, do
việc chúng ta được thiên phú tài năng, trí nảo không đồng đều nhau.
Đoạn văn trên không nêu ra bổn phận rỏ rệt của Quốc Gia phải
làm gì, như trong thể chế không tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa,
" Dân làm chủ, Đảng Chỉ Đạo, Nhà Nước Quản Lý ".
Và vì " Đảng chỉ đạo, Nhà Nước quản lý ", nên
" Dân chỉ còn làm chủ không", "dân chỉ còn chổng khu
kêu trời không thấu" trong hoàn cảnh mạc rệp của mình.
Trong thể chế dân chủ đa nguyên tương lai của chúng ta, Quốc Gia
được dành cho nhiều quyền hạn rộng rãi để can thiệp, điều chỉnh lại những dị
biệt sai trái luôn luôn dưới ánh sáng của nguyên tắc nền tảng
- con người là một nhân vị,
- có nhân phẩm và các quyền căn bản bất khả xâm phạm,
sống trong cộng đồng Quốc Gia chung với những chủ thể con người
đồng đẳng khác.
Đi trước chúng ta, trên cùng một nền tảng nhân bản trên, Hiến Pháp
1947 Ý Quốc đã hướng dẫn kiến thiết lại quốc gia họ, từ một quốc gia đổ nát của
thế chiến thứ hai, từ cuộc cai trị độc tài mọi rợ, xem người như thú vật của
Benito Mussolini, trở thành một trong bảy quốc gia tân tiến và kỷ nghệ nhất thế
giới ( G-7).
Hiến Pháp Ý đã làm gì?
Đây là những điều khoản đề cập đến những can thiệp thiết thực của
Quốc Gia để người dân được cơ may tối thiểu để vươn lên:
- " Quốc gia dành mọi phương tiện kinh tế và
các thể thức dễ dãi khác để gia đình được thành lập và chu toàn các bổn phận
liên hệ và những biệt đải đối với những gia đình đông con" (
Điều 31, id.)...
- " Người phụ nữ công nhân có các quyền và
việc làm như nhau, cũng được thù lao như nam công nhân.
Các điều kiện về việc làm phải được thiết định thế nào để người nữ
công nhân có thể chu toàn bổn phận thiết yếu của mình trong gia đình, phải bảo
đảm cho người mẹ và trẻ thơ một sự bảo trợ đặc biệt và thích hợp".
" Quốc Gia bảo đảm cho việc làm của vị thành niên bằng những
điều khoản đặc biệt và bảo đảm cho vị thành niên cũng được thù lao lương bổng
đồng đều , đối với việc làm như nhau" ( Điều 37, đoạn 1, 2 và 3 id.).
- " Học đường được mở cửa cho tất cả mọi người.
Học vấn ở cấp bực thấp được giảng dạy miển phí và bắt buộc mười
hai năm.
Những ai có khả năng và đáng được tưởng thưởng, mặc dầu thiếu
phương tiện vẫn được quyền học hành đến trình độ cao nhứt của nền học vấn.
Quốc Gia biến quyền nầy thành thực hữu bằng học bổng, phụ cấp gia
đình và các hình thức tiên liệu khác, được cấp qua các cuộc thi tuyển " ( Điều 34, đoạn 1,2,3 và 4).
- " Người công nhân được quyền thù lao tương xứng với số
lượng và phẩm chất của công việc mình làm. Dù sao đi nữa, lương bổng cũng phải
đủ để bảo đảm cho mình và gia đình mình một cuộc sống khang trang" (
Điều 36, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
- " Các công nhân có quyền được tiên liệu và bảo đảm để có
đủ các phương tiện thích hợp đáp ứng lại nhu cầu đời sống trong trường hợp tai nạn,
bệnh tật, già nua, thất nghiệp ngoài ý muốn" ( Điều 38, id.).
- " Để nâng cao vai trò làm việc trong kinh tế và xã hội,
đáp ứng thích hợp với nhu cầu sản xuất, Nền Cộng Hoà nhìn nhận quyền của công
nhân được cộng tác, trong thể thức và giới mức pháp định, vào việc quản trị xí
nghiệp" ( Điều 46, id.).
- " Quốc Gia có bổn phận huấn nghệ và thăng tiến chức
nghiệp cho người làm việc" ( Điều 35, đoạn 2, id.).
- " Sáng kiến kinh tế cá nhân là quyền tự do".
Không ai có thể hành xử quyền tự do hoạt động
kinh tế ngược lại lợi ích xã hội hay hành xử làm phương hại đến an ninh, tự do
và nhân phẩm con người"
( Điều 41, đoạn 1 và 2, id.).
- " Quốc Gia bảo vệ sức khỏe như là quyền căn bản cá nhân
và lợi ích của cộng đồng xã hội, bảo đảm chửa trị miễn phí cho những ai thiếu
phương tiện" ( Điều 32, id.).
- " Các công dân tật nguyền, khiếm khuyết cũng có quyền
được giáo dục và huấn nghệ để khởi công nghề nghiệp"
( Điều 38, id).
- " Mọi công dân không có khả năng làm việc và thiếu phương
tiện để sống còn, có quyền được Quốc Gia giúp đở và trợ cấp xã hội" ( Điều
38, đoạn 1).
- " Không ai có thể bị thuyên chuyển ra khỏi vị thẩm phán tự
nhiên trách niệm trước đương sự, được luật pháp tiền định",
Không ai có thể bị giam giữ vì lý do an ninh, nếu
không trong các trường hợp được luật pháp tiền định" ( Điều 25, id.),
- " Người bị tố cáo không thể bị coi là tội phạm cho đến lúc
nào chưa có bản án chung quyết"
Hình phạt không thể nào gồm có những cách đối xử vô
nhân đạo và phải có mục đích cải huấn can phạm" ( Điều 27, id.).
- " Mọi bạo lực trên thân xác và khủng bố tinh thần của người
bị giảm thiểu tự do đều sẽ bị trừng phạt" ( Điều 13, đoạn 4, id.).
- " Không có bất cứ trường hợp nào một quyền căn bản của con
người bị tổn thương đến nội dung thiết yếu của nó" ( Điều 19, đoạn 2 Hiến
Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang Đức)...
Phải chăng đó cũng là những điều khoản khuôn mẫu nền tảng cho cách
tổ chức Nhân Bản và Dân Chủ của chúng ta trong tương lai?
Với điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc bàn về quyền bình đẳng
thực hữu chúng ta vừa nói ở trên, Hiến Pháp tương lại của chúng ta sẽ quy trách
cho Quốc Gia trách nhiệm nặng nề và quan trọng, được xem như là sứ mạng và cùng
đích, mà Quốc Gia được tạo nên:
" Bổn phận của Nền Cộng Hoà dẹp bỏ đi những chướng ngại
vật về các phương diện vừa kể,... là những chướng ngại không cho phép mỗi cá
nhân phát triển được hoàn hảo con người của mình và tham dự một cách thiết thực
vào các tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở".
Trách nhiệm nặng nề đó không phải chỉ quy tóm vào việc Quốc Gia có
chu toàn bổn phận của mình trong việc " dẹp bỏ đi những chướng ngại vật
", cung cấp hay không cung cấp cho người dân những phương tiện và điều
kiện phải có.
Trách nhiệm nặng nề đó quy trách cho Quốc Gia là điều kiện thiết
yếu và nguyên cớ cho việc người dân có được hay không
" triển nở được toàn vẹn con người
của mình và có khả năng tham dự thiết thực vào các tổ chức chính
trị, kinh tế và xã hội của xứ sở "
là do việc Quốc Gia có tạo điều kiện hiến định và luật định
vừa kể cho người dân hay không.
Nói cách khác, nếu người dân không phát triển được hoàn hảo con
người của mình và tham dự vào cuộc sống của xứ sở để làm lợi ích cho chính mình
và cho đồng bào mình, vì Quốc Gia không chu toàn bổn phận của mình, tạo điều
kiện thuận lợi và cung cấp cho họ phương tiện và điều kiện cần thiết, Quốc Gia
phải gánh chịu trách nhiệm đó trước Hiến Pháp trước tiên và trước luật pháp kế
đến, với tất cả hậu quả của nó, kể cả hậu quả giới đương quyền phải từ chức và
lãnh trách nhiệm dân sự cũng như hình sự:
- " Các viên chức và công chức thuộc hệ quốc
Gia và các tổ chức công quyền trực tiếp có trách nhiệm theo hình luật, dân luật
và luật hành chánh về các động tác đã thực hiện vi phạm đến quyền lợi của người
dân. Trong trường hợp đó, trách nhiệm dân sự có thể trải rộng ra liên can đến
tổ chức Quốc Gia và các cơ quan công quyền " ( Điều 28, Hiến Pháp 1947 Ý
Quốc).
Điều đó cũng cho thấy rõ rằng người dân trong Quốc Gia của chúng
ta trong tương lai không phải chỉ là khách hàng, người tiêu thụ hay là kẻ
ăn xin, mà tổ chức Quốc Gia muốn cung cấp hay không các sản phẩm và dịch vụ
cũng được.
Người dân trong Quốc Gia tương lai của Việt Nam
- là một chủ thể quyền lực Quốc Gia
- và những người lãnh đạo Tổ Chức Quốc Gia là các
nhân viên đại diện được người dân giao phó cho quyền lực để thừa hành thay
mình.
Người dân trong Cộng Đồng Quốc Gia là chủ nhân với địa vị
con người của mình, có quyền kỳ vọng ( actionable), mà Tổ Chúc
Quốc Gia có nhiệm vụ phải phục vụ.
Chúng ta có thể nói:
- " Quốc Gia Việt Nam có bổn phận dẹp bỏ đi
những chướng ngại vật...
".
hay nói như Hiến Pháp 1949 CHLBD:
- " Những quyền căn bản sẽ được kể sau đây là
những quyền có giá trị bắt buộc đối với Lập Pháp, Hành Pháp và Tư Pháp, là
những quyền đòi buộc trực tiếp" ( Điều 1, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 Cộng
Hoà Liên Bang Đức).
Con người trong Quốc Gia Việt Nam là chủ thể có quyền tối thượng
trên thể chế tổ chức Quốc Gia, trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ, nền tảng của
tổ chức Quốc Gia, gồm những nguyên tắc nền tảng của Quốc Gia Việt Nam, chúng ta
sẽ bàn thêm rộng rải trong phần định nghĩa về thể chế và cấu trúc Quốc Gia.
Người dân là chủ nhân tối thượng của quyền lực Quốc Gia và việc
Quốc Gia có bổn phận cung cấp sản phẩm và dịch vụ liên quan
- đến đời sống cá nhân của mình, " triển nở hoàn hảo con người
của mình"
- và hệ trọng đến sự phát triển của cả cộng đồng quốc Gia," tham
dự môt cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở
".
C - Quyền hành giao phó phải được kiểm soát.
Trọng trách đó không thể chỉ được khoán trắng cho giới cầm
quyền, để họ hành xử cách nào tùy hỷ, nếu chủ nhân không muốn trở thành nô lệ
của kẻ thừa hành , luôn luôn phải " ngửa tay xin - cho "
, hay bị kẻ thừa hành lạm quyền tiêu diệt.
Nói một cách ngắn gọn, quyền hành giao phó phải được kiểm soát.
Trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ đa nguyên, quyền kiểm soát vừa
kể được giao phó cho
- Tổng Thống ( Điều 87, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc),
- Quốc Hội ( Điều 63; 67; 68 Hiến Pháp 1949 Cộng Hoà Liên Bang
Đức, CHLBD),
- Thượng Viện Liên Bang ( Điều 77, Hiến Pháp 1949 CHLBD).
- Cơ Quan Tư Pháp ( Điều 19, đoạn 4, Hiến Pháp 1949 CHLBD),
- Tối Cao Pháp Viện ( Điều 95, Hiến Pháp 1949 CHLBD),
- Viện Bảo Hiến ( Điều 93, Hiến Pháp 1949 CHLBD).
- Các Cộng Đồng Địa Phương, Vùng, Tỉnh, Làng Xã ( Điều 5, Hiến
Pháp 1947 Ý Quốc)
Và áp dụng tinh thần đó của điều 5 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc là đạo
luật 241/ 90 đã được ban hành.
Đạo luật bắt buộc Chính Quyền phải tôn trọng sự hiện diện của
người dân trong các hoạt động của mình.
Trong thể chế dân chủ, người dân không phải chỉ là một con số, là
thần dân của vua, là người tiêu thụ mà giới cầm quyền muốn cung cấp sản phẩm và
dịch vụ hay không cũng được hay cung cấp cách nào và lúc nào tùy hỷ.
Người dân trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là " chủ nhân
ông " của quyền lực Quốc Gia và giới đương quyền chỉ là những người
đại diện cho họ để thừa hành, để quản trị ( G. Bush Administration, J.
Chirac Administration, S. Berlusconi Amministrazione).
Người dân trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ là chủ thể của
quyền lực Quốc Gia bất cứ lúc nào và đối với bất cứ ai hành xử quyền lực Quốc
Gia, chớ không phải chỉ giới hạn trong thời gian trước và đang khi bỏ phiếu.
Do đó đạo luật 241 / 90 của Ý Quốc tuyên bố người dân có quyền:
- tham dự vào việc quản trị tài nguyên và phục vụ xứ sở ( Điều 7,
luật 241/ 90),
- được thông báo các quyết định trong việc quản trị, có quyền kiểm
soát, văn kiện, tiến trình quản trị của Chính Quyền ( Điều 3; 7; 22
id.),
- được Chính quyền nghe trình bày ý kiến ( Điều 9; 10 id. ),
- được có người đặc trách duy nhứt trong Chính Quyền chịu trách
nhiệm để trả lời thoả đáng về lãnh vực liên hệ, người dân muốn biết ( Điều 4,
id.),
- không phải bị Chính Quyền coi rẻ, ngược đãi, chờ đợi ngày
nầy qua ngày khác ( Điều 1; 18 id.),
- quyền có được mối liên hệ chắc chắn đối với Chính Quyền ( biết
rỏ đâu là bổn phận và đâu là quyền hạn phải được Chính Quyền tôn trọng) ( Điều
2; 19; 20 id.),
- quyền được coi là người đáng tin cậy đối với những gì mình tuyên
bố, trả lời, tự chứng ( Điều 18 id.).
Qua những điều khoản luật 241 / 90 vừa được trích dẫn cũng như
tinh thần của Điều 3, đoạn 2 của Hiến Pháp 1947 Ý Quốc đang bàn , chúng ta thấy
rằng mối tương quan của người dân và Chính Quyền hiện nay
- không phải là mối tương quan dựa trên "quyền lực -
tự do" (quyền lực của Quốc Gia - tự do của người dân, liberté
de, theo quan niệm tự do phôi thai: càng hạn chế được quyền lực Quốc Gia -
người dân càng được tự do, khỏi bị đàn áp, xâm phạm).
- mà dựa trên " hiệu năng - lợi thú " : " khả
năng hoạt động hiệu năng và không bè phái, thiên vị của Chính Quyền
- lợi thú của người dân, chủ thể tối thượng quyền lực Quốc
Gia" ( Điều 97, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Chỉ khi nào Chính Quyền hoạt động hiệu năng và không thiên vị để
phục vụ người dân, họ mới có phương tiện và điều kiện để thực hiện được quyền
- " triển nở toàn vẹn con người của mình" hay
có quyền trở nên chính mình, như mình muốn
- và từ đó " tham dự một cách thiết thực vào tổ chức chính
trị, kinh tế, xã hội của xứ sở".
Trong tư tưởng đó của đạo luật 241/ 90 và tinh thần của điều 3,
đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc đang bàn ,
- người dân có quyền thẩm định kết quả đã nhận được
- và tuyên bố thoả mãn các lợi thú của mình hay
không.
Hiện nay lý do biện minh cho sự hiện hữu và tồn tại của Chính
Quyền không phải chỉ là Chính Quyền
- được tuyển chọn một cách chính danh,
- hoạt dộng của Chính Quyền luôn luôn hợp pháp, nằm trong lằn mức
luật định ( Quốc Gia Pháp Trị, État de droit),
- mà kết quả của các hoạt động đó có đáp ứng lại thoả đáng các đòi
hỏi của người dân theo tiêu chuẩn hiệu năng và không thiên vị không,
" hiệu năng - lợi thú ".
Tinh thần đạo luật 241/ 90 và điều 3, đoạn 2 của Hiến Pháp đang
bàn, Hiến Pháp và Luật Pháp xác định cho người dân có thẩm quyền phán
đoán đối với Chính Quyền.
Không những người dân có quyền phán quyết kết quả của những hoạt
động cung cấp sản phẩm và phục vụ của Chính Quyền đối với nhu cầu của mình, mà
còn có quyền phán quyết những gì hàm chứa đàng sau những hoạt động đó.
Người dân có quyền phán đoán
- những cơ cấu của Chính Quyền,
- nguyên nhân đưa đến việc phục vụ hiệu năng và vô tư
cho mình hay không.
Nếu Chính Quyền và cơ cấu của Chính Quyền không đáp ứng lại nhu
cầu và nguyện vọng của " chủ nhân quyền lực Quốc Gia", họ
không có lý do gì để tồn tại trong Thể Chế Nhân Bản và Dân Chủ đa nguyên.
Người dân, với tinh thần đạo luật 241/ 90 và điều 3, đoạn 2 của
Hiến Pháp 1947 Ý Quốc có quyền đứng bên ngoài nhìn vào các dinh thự của Chính
Quyền,
- không phải với cái nhìn của du khách,
- càng không phải chỉ cái nhìn để tìm hiểu,
- mà là nhìn để phán đoán và định đoạt số phận và cơ cấu của Chính
Quyền trong kỳ bầu cử tới, nếu không muốn nói là Quốc Hội có thể cho Chính
quyền về vườn sớm hơn ( Điều 67, Hiến Pháp 1949 CHLBD).
Người Việt Nam bình đẳng thực hữu và tích cực trong thể chế Nhân
Bản và Dân Chủ của Đất Nước là vậy.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment