THỨ BẢY, NGÀY 08 THÁNG MƯỜI HAI NĂM 2012
Viện sĩ Hoàng Xuân Phú:Quyền biểu tình của công dân
Hà Nội và Sài Gòn đều có lời kêu gọi biểu tình (hoặc mít tinh) phản
đối nhà cầm quyền Trung Quốc vào sáng chủ nhật 9/12/2012. Blog NTT xin giới
thiệu lại bài viết của Giáo sư Hoàng Xuân Phú khẳng định quyền biểu tình của
công dân với mục đích cung cấp cho bạn đọc những kiến thức, phương pháp lý luận
để vững tin rằng việc biểu tình chống Trung Quốc xâm lược là hoàn toàn phù hợp
với Hiến pháp hiện hành. Là một nhà khoa học về lĩnh vực tự nhiên, Giáo sư
Hoàng Xuân Phú có những bài viết rất sắc sảo về các vấn đề pháp luật.
Biểu tình là một hoạt động hợp hiến và hết sức
thông thường ở xã hội văn minh. Nhưng đến nay,biểu tình (ngoài sắp đặt của cơ
quan Nhà nước) vẫn còn là một chuyện tương đối xa lạ ở Việt Nam, thậm chí như
một điều "phạm húy". Biểu tình bị ngăn cản, dù có diễn ra thì người
ta vẫn quanh co, không dám gọi đúng tên. Đa số người dân nhìn nhận quyền biểu
tình như một thứ xa xỉ phẩm, không liên quan đến cuộc sống của mình, thậm chí
còn nhìn nó như một miếng mồi nhử nguy hiểm: Ừ thì Hiến pháp cho phép đấy,
nhưng cứ thử động vào mà xem… Vốn dĩ thuộc phạm trù đối nội, quyền biểu tình
được nêu trong Hiến pháp trên thực tế chỉ còn để đối ngoại.
Cản
trở đối với quyền biểu tình của công dân không chỉ xuất phát từ ý muốn được
"yên ổn" của những người cầm quyền, mà còn bị ảnh hưởng nhiều bởi sự
nhầm lẫn về mặt lô-gíc: Cả hai phía đều coi việc chưa có Luật biểu tình chính
là nguyên nhân khiến quyền biểu tình chưa được hay chưa thể thực thi.
Phía người dân tưởng là khi chưa có Luật biểu tình thì không
được biểu tình, nên đa số những người muốn bày tỏ chính kiến… vẫn im lặng. Ngay
cả những người đã can đảm xuống đường vẫn cảm thấy chưa yên tâm, lo là hành
động của mình có gì đó không ổn về mặt pháp luật, nên mới đề nghị Quốc hội sớm
ban hành Luật biểu tình.
Phía chính quyền thì coi các cuộc biểu tình không do họ hoặc các
cơ quan Nhà nước tổ chức là bất hợp pháp, là cố tình gây rối, thậm chí là do
các thế lực thù địch tổ chức hoặc kích động, nên nếu có biểu tình thì chính
quyền có quyền giải tán, có quyền bắt bớ… Có lẽ cũng do tin rằng chưa có Luật
biểu tình thì không được biểu tình, nên một số người muốn trì hoãn việc ban
hành Luật biểu tình, vì nếu có luật thì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa,
vẫn còn lại những quyền tự do tối thiểu, và không phải ai cũng muốn chấp nhận
những quyền tối thiểu ấy của người dân.
Câu hỏi đặt ra là: Nên hiểu quyền biểu tình và mối quan hệ của
nó với Luật biểu tình như thế nào cho đúng?
Quyền biểu tình trong Hiến pháp hiện hành
Cơ sở pháp lý để đánh giá về tính hợp pháp của hoạt động biểu
tình là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992. Điều 69 của Hiến pháp hiện hành quy định:
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền
được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luật".
Mệnh đề "theo quy định của pháp luật" khiến người dân
lúng túng, do dự khi thực hiện quyền biểu tình, và bộ máy chính quyền dựa vào
đó để phủ nhận quyền biểu tình của công dân trên thực tế. Thật ra, từ
"pháp luật" xuất hiện 60 lần trong Hiến pháp 1992, nhiều khi chỉ là
một phạm trù chung chung, không ám chỉ một luật cụ thể nào. Phải hiểu
"theo quy định của pháp luật" hay "trong khuôn khổ pháp luật"
là tuân theo những quy định thuộc về pháp luật – nếu đã có. Chưa có luật tương
ứng thì có nghĩa là chưa có hạn chế, bởi không thể dùng cái chưa có để hạn chế
thực tại. Sau khi Hiến pháp có hiệu lực, thì còn thiếu rất nhiều luật, và đến
bây giờ vẫn còn thiếu, nhưng mọi tư duy lành mạnh đều hiểu rằng: Không thể bắt
cuộc sống dừng lại, để đợi đến khi cơ quan lập pháp ban hành đủ luật.
Hiến pháp 1992 viết công dân có quyền biểu tình "theo quy
định của pháp luật", chứ không đòi hỏi cụ thể là "theo quy định của
Luật biểu tình". Giả sử, nếu Hiến pháp quy định là công dân chỉ có quyền
biểu tình theo quy định của Luật biểu tình, thì công dân có quyền chất vấn và
phê phán Quốc hội: Tại sao mấy chục năm rồi mà vẫn chưa ban hành Luật biểu
tình? Lúc đó nhân dân nhắc nhở và đòi hỏi Quốc hội phải ban hành Luật biểu
tình, chứ không phải chỉ đề nghị, kêu gọi, hay xin xỏ, vì:
"Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và
Hội đồng nhân dân, là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân,
do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân".
(Điều 6, Hiến pháp 1992)
"Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội,
…"
(Điều 53, Hiến pháp 1992)
Như vậy, khi không (hoặc chưa) có luật nào quy định cụ thể hơn
về việc biểu tình, thì có nghĩa là pháp luật không (hoặc chưa) có hạn chế nào
cả, và công dân hoàn toàn có quyền biểu tình, như Hiến pháp cho phép.
Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với quyền
biểu tình
Nếu Quốc hội muốn định hướng hay hạn chế hoạt động biểu tình của
công dân trong một khuôn khổ nào đó, thì phải ban hành luật tương ứng. Nếu thấy
cần kíp phải có luật để điều tiết hoạt độngbiểu tình, thì chính Quốc hội và các
cơ quan giúp việc phải khẩn trương, chứ dân không phải sốt ruột xin Quốc hội
ban hành. Cơ quan quản lý Nhà nước mới phải vội, chứ dân không cần vội. Việc
một số công dân đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình là một yêu cầu
hoàn toàn chính đáng, nhưng điều đó lại góp phần làm cho người dân tiếp tục
hiểu sai về quyền cơ bản của công dân, và làm cho những người thuộc cơ quan
hành chính Nhà nước thêm ngộ nhận về quyền hạn của họ.
Nếu Chính phủ muốn quản lý hoạt động biểu tình của công dân theo
một hướng nào đó thì Chính phủ phải soạn thảo và trình dự án luật (Điều 87,
Hiến pháp 1992), để Quốc hội xem xét và ban hành luật, chứ Chính phủ không thể
tự tiện đưa ra những quy định hay triển khai những hành động can thiệp trái với
Hiến pháp. Hiến pháp 1992 đã quy định rõ:
"Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp"
(Điều 83, Hiến pháp 1992)
và Chính phủ là "cơ quan chấp hành của Quốc hội" (Điều
109, Hiến pháp 1992). Điều 115 của Hiến pháp 1992 cho phép
"Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra
quyết định, chỉ thị"
nhưng phải
"Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước".
Trong tất cả 11 khoản của Điều 112, quy định về nhiệm vụ và
quyền hạn của Chính chủ, và cả 6 khoản của Điều 114, quy định về nhiệm vụ và
quyền hạn của Thủ tướng Chính chủ, Hiến pháp 1992 không có bất cứ khoản nào cho
phép Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản pháp quy để hạn chế hay
can thiệp vào quyền tự do của công dân được Hiến pháp đảm bảo.
Trong Luật Tổ chức Chính phủ do
Quốc hội khóa X thông qua ngày 25 tháng 12 năm 2001, Điều 8, quy định về nhiệm
vụ và quyền hạn của Chính phủ, được viết lại gần như nguyên văn Điều 112 của
Hiến pháp 1992. Điều 20, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính
phủ, là cụ thể hóa Điều 114 của Hiến pháp 1992. Quyền tự do của công dân được
nhắc 3 lần trong Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó chỉ khẳng định trách nhiệm
của Chính phủ trong việc bảo vệ quyền của công dân và tạo điều kiện cho công
dân sử dụng quyền của mình, cụ thể là:
"Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của
mình…"
(Điều 8, Khoản 5)
"Quyết định những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa
vụ của mình…"
(Điều 18, Khoản 3)
"Thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân…"
(Điều 13, Khoản 4)
Nghĩa là: Luật Tổ chức Chính phủ cũng không cho phép Chính phủ
ban hành văn bản pháp quy để hạn chế quyền tự do của công dân được Hiến pháp
đảm bảo. Tất nhiên là phải như vậy, vì Luật Tổ chức Chính phủ không thể có
những quy định trái với Hiến pháp.
Nghị định của Chính phủ số
38/2005/NĐ-CP, do nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải ký ngày 18/3/2005,
quy định một số biện pháp đảm bảo trật tự công cộng, không đề cập đến khái niệm
„biểu tình“ được nêu trong Hiến pháp 1992. Ngược lại, khái niệm „tập trung đông
người“ được đề cập (21 lần) trong Nghị định số 38/2005/NĐ-CP không xuất hiện
trong Hiến pháp 1992. Nghị định số 38/2005/NĐ-CP cũng không đưa ra định nghĩa
hay giải thích về thuật ngữ „tập trung đông người“, không hề quy ước là „biểu
tình“ thuộc phạm trù „tập trung đông người“. Tất nhiên, không thể tùy ý dùng
thuật ngữ „tập trung đông người“ để chỉ hoạt động „biểu tình“ (cũng giống như
không thể dùng thuật ngữ „tập trung 500 người“ để chỉ phiên họp Quốc hội), vì
nếu như thế thì vừa thiếu tôn trọng công dân (hay thiếu tôn trọng Quốc hội),
vừa thiếu tôn trọng Hiến pháp, bởi không được tùy tiện thay đổi thuật ngữ pháp
lý cơ bản được sử dụng trong Hiến pháp và được dùng phổ biến trong thông lệ
pháp lý trên toàn thế giới. Vì vậy, nếu hợp hiến, thì Nghị định số
38/2005/NĐ-CP cũng không chi phối quyền biểu tình của công dân được Hiến pháp
đảm bảo.
Điều 50 của Hiến pháp 1992 khẳng định:
"Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện
ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật".
Khi thực hiện các quyền con người (trong đó có quyền biểu tình),
công dân chỉ phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành.
Khi chưa có luật tương ứng thì công dân không phải chấp hành văn bản pháp quy
nào khác ngoài Hiến pháp, bởi công dân chỉ phải "sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật" (Điều 31, Hiến pháp 1992). Quyền biểu tình của
công dân không phải chịu chi phối bởi các quy định nào đó, cho dù chúng có thể
được đưa vào luật trong tương lai, lại càng không thể bị cản trở bởi các quy
định tùy tiện của các cấp chính quyền, của bộ máy công an, của tổ dân phố, hay
của một cấp trên chung chung nào đó. Cho dù là ai, to nhỏ ra sao, nhân danh tổ
chức nào, thì họ cũng đều là công dân Việt Nam và cũng không nằm ngoài phạm vi
chi phối của nguyên tắc:
"Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật".
(Điều 52, Hiến pháp 1992)
Không phải bất cứ một quy định phi lý nào được đưa vào luật cũng
là thiêng liêng, bất di – bất dịch. Nếu có Luật biểu tình thì nó không thể chứa
đựng những quy định trái với Hiến pháp. Nhân dân có quyền kiến nghị và Quốc hội
có trách nhiệm hủy bỏ bất cứ quy định pháp luật nào trái với Hiến pháp, vì
"Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật
cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp".
(Điều 146, Hiến pháp 1992)
Biểu tình – Quyền hiến định có hiệu lực cùng Hiến pháp hiện hành
Đã đến lúc dân ta (cả dân thường và cả những người đang thuộc bộ
máy quản lý Nhà nước) phải chia tay với lối tư duy sai lầm là „trên“ cho làm gì
thì „dưới“ mới được làm cái ấy, vì đấy là kiểu quan hệ giữa chủ nô và nô lệ,
hoàn toàn trái với bản năng sống chủ động của mọi loài động vật tự do, trong đó
có con người. Dù có muốn, dù có cố, thì cũng không bao giờ quy định được hết
mọi chuyện trên đời. Hơn nữa, càng có nhiều quy định thì càng có nhiều điều bất
hợp lý và càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa các quy định. Chính vì vậy, người
dân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm và không vi phạm những
chuẩn mực đạo đức thông thường đã được xã hội thừa nhận. Nhà nước có thể thông
qua việc ban hành luật để hạn chế những mặt tiêu cực, nhưng sẽ không bao giờ
khống chế được hoàn toàn. Không thể tiếp tục luận tội theo kiểu „lợi dụng sơ hở
của pháp luật…“ Lập luận ấy không chỉ sai với thông lệ quốc tế, mà còn hài hước
ở chỗ: Sao không trách phạt những người ăn lương của dân rồi làm ra luật… sơ
hở, mà lại chỉ kết tội người dân áp dụng đúng luật sơ hở?
Căn cứ vào Hiến pháp và các văn bản pháp lý liên quan, với tư
duy lô-gíc, chỉ có thể rút ra kết luận rằng: Quyền biểu tình của công dân được
Hiến pháp hiện hành đảm bảo và có hiệu lực cùng lúc với Hiến pháp. Cho đến nay,
chưa có luật hay văn bản pháp lý hợp hiến nào hạn chế quyền biểu tình của công
dân. Vì vậy, công dân hoàn toàn có quyền tự do biểu tình, theo đúng tinh thần
của Hiến pháp, không phải đợi đến lúc có Luật biểu tình hay một văn bản tương
tự.
Biểu tình là biện pháp hữu hiệu để nhân dân bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mình và giải tỏa ức chế. Biểu tình cũng là một hình thức hợp lý
để công dân bày tỏ chính kiến, góp phần xây dựng Nhà nước và thúc đẩy sự tiến
bộ của xã hội.
Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước là phải tôn trọng và bảo vệ
công dân thực hiện quyền biểu tình, phải triệt để tuân theo Điều 12 của Hiến
pháp 1992:
"Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp
luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp
luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tập thể vàcủa công dân đều bị xử lý theo pháp luật"
Cách ứng xử với quyền biểu tình của công dân phản ánh mức độ tôn
trọng nhân dân, tôn trọng Hiến pháp và trình độ hiểu biết pháp luật. Nó cũng
thể hiện bản lĩnh lãnh đạo, mức tự tin vào sự trong sạch và chính nghĩa của bản
thân. Một chính quyền vì dân, chỉ làm chuyện đúng, chắc chắn sẽ được đa số nhân
dân tin yêu và bảo vệ, không việc gì phải sợ biểu tình. Nếu đi ngược lại lợi
ích của nhân dân và dân tộc, làm những chuyện sai trái, thì không bạo lực nào
có thể che chở vĩnh viễn.
Nếu thực sự cầu thị và muốn làm tròn bổn phận, lãnh đạo phải
biết tận dụng hoạt động biểu tìnhnhư một chiếc cầu nối với nhân dân, làm nguồn
cung cấp thông tin thực tế từ cơ sở, vốn dĩ hay bị bưng bít bởi bộ máy quản lý
cấp dưới. Biểu tình là một phương tiện đắc lực để khắc phục tệ quan liêu – căn
bệnh cố hữu của bộ máy chính quyền.
Chẳng có lý do chính đáng nào có thể biện hộ cho việc xâm phạm
quyền biểu tình của công dân. Không thể cấm dân lên tiếng nhằm che dấu sự yếu
kém. Không thể mượn cớ ổn định mà cản trở sự phát triển. Không được nhân danh
bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng.
Xương máu của hàng triệu người Việt đã đổ xuống vì độc lập và tự
do. Độc lập dân tộc chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với tự do của nhân dân. Nếu dân
không có tự do thì chính quyền mang quốc tịch nào cũng vậy. Do đó, muốn bảo vệ
độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ, thì phải tôn trọng các quyền tự do của nhân
dân, trong đó có quyền biểu tình. Không thể khác!
Phụ lục
(Dành riêng cho những người kiên định…)
Nếu quý vị nào vẫn cảm thấy chưa đủ thuyết phục và vẫn kiên định
lập trường cho rằng công dân phải đợi đến khi có Luật biểu tình mới được biểu
tình, thì xin dành riêng đoạn tiếp theo để quý vị suy ngẫm.
Hiến pháp 1992 có năm lần nhắc đến từ "Đảng", trong đó
có ba lần ở "Lời nói đầu", hai lần đầu đề cập đến lịch sử và công lao
của Đảng CSVN, lần thứ ba trong câu:
"Hiến pháp này… thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo,
nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý".
Hai lần còn lại là ở Điều 4, nguyên văn như sau:
"Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật".
Như vậy, mặc dù Hiến pháp 1992 khẳng định "Mọi tổ chức của
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật", nhưng trong toàn
bộ văn bản Hiến pháp không có quy định cụ thể nào về khuôn khổ mà Đảng CSVN
được phép hoạt động, và cho đến nay vẫn chưa có "Luật về Đảng" (hay
tương tự) để quy định về quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi và hình thức hoạt động
của Đảng, cũng như hình thức xử lý khi tổ chức Đảng vi phạm Hiến pháp và pháp
luật. Rõ ràng, xét về lô-gíc, tính hợp pháp của việc "Công dân… biểu tình
theo quy định của pháp luật" khi chưa có Luật biểu tình không hề yếu hơn
so với tính hợp pháp của việc „Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật“ khi chưa có "Luật về Đảng". Vậy thì quý vị có
cho là Đảng CSVN phải… đợi đến khi có "Luật về Đảng" hay không?
Nếu ý vừa rồi vẫn chưa đủ, thì xin quý vị lưu ý thêm: Hiến pháp
1992 không đề cập đến chuyện ăn, chuyện ngủ… Việt Nam cũng không có luật về ăn,
ngủ… Vậy mà hàng ngày 90 triệu người Việt vẫn ăn, vẫn ngủ…, dù biết là phải
"sống… theo Hiến pháp và pháp luật" (Điều 31, Hiến pháp 1992). Phải
chăng, quý vị cũng coi đấy là hành vi cố tình vi phạm kỷ cương, coi thường phép
nước? Vấn đề này có vẻ còn nghiêm trọng hơn cả chuyện biểu tình, vì quyền biểu
tình của công dân còn được Hiến pháp ghi nhận đích danh. Vậy thì quý vị có định
đòi hỏi mọi người cũng phải nhịn ăn, nhịn ngủ… cho đến khi có luật và được luật
cho phép, giống như phải nhịn biểu tình hay không?
H.X.P.
9/8/2011
——
* GS. TSKH – Viện sĩ Hoàng Xuân Phú, hiện làm việc tại Viện Toán
học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa
học Heidelberg, Viện sỹ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Bavaria . Ông từng tham
gia biểu tình tại Hà Nội phản đối Trung Quốc gây hấn.
No comments:
Post a Comment
Thanks for your Comment